sontunghn
member
ID 59503
03/18/2010
|
Nhà thơ 'Màu tím hoa sim' qua đời
Hữu Loan - tác giả những câu thơ như "Nàng có ba người anh đi bộ đội / Những em nàng / Có em chưa biết nói / Khi tóc nàng xanh xanh" - trút hơi thở cuối cùng tối 18/3, hưởng thọ 95 tuổi.
Tang lễ nhà thơ Hữu Loan sẽ diễn ra vào lúc 15h chiều 19/3. Ông được đưa về nơi an nghỉ cuối cùng tại nghĩa trang xă Nga Lĩnh, Nga Sơn, Thanh Hóa - nơi nhà thơ sinh ra và gần như gắn bó cả cuộc đời nhọc nhằn của ḿnh ở đó. Sáng nay, nhà thơ Hữu Thỉnh - Chủ tịch Hội Nhà văn Việt Nam - đă dẫn đầu đoàn Hội Nhà văn lên đường vào xứ Thanh tiễn đưa tác giả Màu tím hoa sim.
Đang dự Hội chợ sách tại TP HCM, nhà phê b́nh Phạm Xuân Nguyên chia sẻ cảm giác mất mát khi nghe tin Hữu Loan qua đời. Khoảng một tuần trước Tết dương lịch 2010, ông cùng một số đồng nghiệp vào Thanh Hóa thăm nhà thơ. Ông kể: "Lúc đó, sức khỏe Hữu Loan cũng đă yếu rồi. Ông ốm hơn một năm nay, cộng thêm bị cảm cúm nên gia đ́nh tưởng nhà thơ đă không thể qua khỏi đợt đó. Tuy vậy, Hữu Loan vẫn c̣n nhớ, vẫn đọc được thơ, nhưng không đọc được trọn vẹn, rơ ràng bài Màu tím hoa sim nữa".
Nhà thơ Phạm Xuân Nguyên cho biết thêm, dù sống cuộc đời rất vất vả cực nhọc, Hữu Loan là người cứng cỏi, mạnh mẽ, ít ốm đau, bệnh tật. Những năm cuối đời, chân ông yếu đi nhiều, gần như bị tê liệt do di chứng của những tháng ngày thồ đá nuôi con vất vả, nhưng đầu óc, tâm trí nhà thơ vẫn rất minh mẫn.
Hữu Loan, tên thật là Nguyễn Hữu Loan, sinh năm 1916 tại làng Vân Hoàn, xă Nga Lĩnh, huyện Nga Sơn, Thanh Hóa trong một gia đ́nh nông dân nghèo. Sau khi đỗ tú tài, ông sinh sống bằng nghề dạy học. Từ những năm 1940, nhà thơ tham gia cách mạng và từng làm Phó chủ tịch Ủy ban khởi nghĩa huyện Nga Sơn.
Ḥa b́nh lập lại, ông về Hà Nội làm biên tập viên báo Văn Nghệ, tham gia nhóm Nhân văn Giai phẩm... Đến năm 1958, ông về quê, sống bằng nhiều nghề như: làm ruộng, đánh cá, thồ đá... cho đến lúc qua đời.
Hữu Loan viết cả truyện và kư, nhưng ông nổi tiếng nhất ở lĩnh vực thơ ca với những tác phẩm kinh điển như Đèo cả, Màu tím hoa sim... Đặc biệt, những vần thơ khóc người vợ đầu tiên của ông - Màu tím hoa sim - đă làm xúc động trái tim độc giả từ thế hệ này đến thế hệ khác.
Sau khi người vợ đầu, bà Lê Đỗ Thị Ninh qua đời, nhà thơ Hữu Loan kết hôn với người vợ thứ hai, bà Phạm Thị Nhu - người đă cùng ông vượt qua mọi khó khăn, nuôi dạy 10 đứa con nên người.
Hà Linh
Alert webmaster - Báo webmaster bài viết vi phạm nội quy
|
Page
1
2
Xem tat ca
- Xem Tung trang
|
|
sontunghn
member
REF: 537267
05/03/2010
|
KỳII.Khắc khoải bóng h́nh người con riêng
Từ đấy ông đi đâu bà đi đấy. Ông đi một bước bà đi một bước, ông đi hai bước bà đi hai bước, nhất định một tấc không đi, một li không rời. Cũng đă được đến hai tháng.
Một hôm ông bảo: - Bà ở đây chơi vài hôm nữa rồi về nhớ. Bà dứt khoát: - Không, ông đi đâu tôi đi đấy. Bao giờ ông về tôi mới về! Ông thua rồi!
Nếu bảo ghen th́… ghen tuông th́ cũng người ta thường t́nh. Mười mặt con rồi và vào tuổi ông bà lúc ấy chắc không phải v́ ǵ… mà bà không muốn chồng chia sẻ t́nh cảm với bất kỳ người phụ nữ nào khác. V́ bà muốn độc chiếm tất cả cung bậc t́nh cảm của t́nh yêu ông dành cho ḿnh.
Ngày con gái, bà rất đẹp, nhất là đôi mắt nâu kỳ lạ thừa hưởng của ông nội, một công chức người Pháp chính gốc. Soi trong đôi mắt ấy, Hữu Loan thấy cả Chân trời quê cũ/ Giếng ngọt cây đa/ Anh khát t́nh quê ta/ Trong mắt em/ thăm thẳm/ … mắt em/ thăm thẳm/ đựng/ mầu trời quê. Và mái tóc dài/ vương hoa lúa… và giọng em nói, tiếng em ca giữa ḍng xanh/ bát ngát. Và câu kết như một lời thề: T́nh đôi ta ơi/ từ nay/ rồi/ càng sâu/ ta đi/ đầu sát bên đầu.
Ông bà đầu sát bên đầu đến khi ngọn đèn dầu ông cháy đến giọt cuối cùng chứ nào có bệnh hiểm nghèo ǵ, gia đ́nh và các bác sĩ tận t́nh cứu chữa như điếu văn (không đọc) của chính quyền xă.
Bà kể, ông muốn bà triệu tập các con về cho ông dạy. Dạy ǵ ư? “Dạy phải đoàn kết thương yêu nhau, làm ăn, không phải lo ǵ cho ông cả. Có trời lo cho rồi. Để ông ở gần bố mẹ ông. Ông ấy có vẻ vui vẻ. Khi nào con cái trở ḿnh cho mới kêu đau thôi”.
Chỉ anh con rể Mai Văn Lễ trở ḿnh là ông không đánh chửi. Không phải v́ ông coi rể là khách, mà v́ anh Lễ có sức khỏe, lại biết cách nhẹ nhàng, khéo léo lựa chiều nên ông đỡ đau hơn thôi. Tay ông ấy là tay quai búa đánh đá nên đánh đau ra phết đấy.
– Bà bảo ông vui? Tôi hồ nghi hỏi lại. – Vui chứ sao. Ông ấy hát mà. Hát á? Ngạc nhiên, tôi hỏi. Hát chứ sao! – Hát bài ǵ ạ? Bà cất tiếng hát, nghĩa là bà thuộc, bà đă từng hát với ông, v́ trước khi lấy ông, không biết bà hát có hay không, nhưng chắc chắn là người hay hát: Em ca giữa đồng xanh kia mà! Chứ nếu không th́ không thể thuộc lời được.
Rất may là tôi cũng thuộc những bài ấy nên hát được theo bà: … Đi là đi chiến đấu, đi là đi chiến thắng, đi là mang mối thù thiên thu. Đi là đi chiến đấu, đi là đi chiến thắng, tiến lên đây người Việt Nam. Kèn vang theo tiếng chân đang dập dồn xa xa. Oán thù, chiến khu, từng người lớp lớp rơi, từng giọt máu sáng ngời, một đoàn chiến sĩ oai hùng đi… Và: Lệnh vua hành quân trống kêu dồn/ Quan với quân lên đường/ Hàng cờ bay trống dồn/ Vừa dẻo theo lối thôn/ Phấp phới ngậm ngùi bay/ Ai ra đi mà không ước hẹn ngày về/ Ai quên ghi vào gan đă bao lời thề/ Người đi ngoài ở cơi thiên san/ Người đứng chờ trong bóng cô đơn.
“Rồi ông ấy c̣n ngâm Kiều nữa kia”. Hỏi ngâm đoạn nào, câu nào th́ bà không nhớ. Ông ấy nằm trong buồng, tôi nằm ngoài này nên không nghe rơ. Câu được câu chăng thôi. Ông cũng hay ngâm bài thơ ḿnh dịch: Tương tiến tửu chúc rượu của Lư Bạch.
Mỗi ngày phải giở ḿnh cho ông ba lượt. Chiều 18-3, lẽ ra 3 giờ chiều giở ḿnh lượt thứ hai, tám, chín giờ tối lần thứ ba rồi ông ngủ. V́ bận ǵ đó không giở ḿnh cho ông lần thứ hai nên anh Lễ đến sớm, như mọi khi anh cũng hỏi chuyện mẹ vài câu xong mới vào với bố. Lúc vào, sờ tay chân ông th́ đă thấy lạnh. Sờ ngực thấy vẫn c̣n nóng. Lúc ấy là 18 giờ 45 (chứ không phải 19 giờ như đă đưa tin. V́ lúc đó, người nhà ông thấy những người báo lô đề đang í ới… Một lúc lâu sau mới hết í ới. Hết í ới là 19 giờ, giờ đài công bố xổ số. Gia đ́nh nhờ tác giả cải chính như vậy).
Ông đi nhẹ nhơm, thanh thản, măn nguyện, không hề vướng bận ǵ. Ông và Màu tím hoa sim đă cùng về cơi vĩnh hằng. Nhưng bà Nhu kể, lạ cái, tôi thấy như ông ấy vẫn ở bên tôi, đêm đêm vẫn hát, vẫn ngâm Kiều. Lạ cái, tôi không buồn rầu, ủ rũ, không mộng mị, mê sảng. Bây giờ tôi vào ngủ cái giường ông ấy vẫn ngủ. Nhường gian ngoài, chỗ đặt giường to tôi vẫn nằm lấy chỗ đặt bàn thờ ông ấy.
Tôi bước vào gian buồng nhỏ ông vẫn nằm. Vẫn cái giường, không phải giường đôi, cũng không phải giường cá nhân ấy, bây giờ là bề bộn chăn áo của bà. Lần trước, v́ quá xúc động khi gặp ông nên vừa trông thấy ông tôi đă sà vào, ngồi bên ông, lặng lẽ ngắm ông, nghe ông tṛ chuyện, đọc thơ, không hỏi ông nửa câu. Rồi, không khóc mà nước mắt cứ tràn mi, không sao giữ được.
Cũng v́ thế, tôi không để ư đến chiếc bàn thờ nhỏ treo trên góc pḥng. Giờ mới biết đấy là bàn thờ riêng thờ bà Lê Đỗ Thị Ninh. Hỏi bà có thắp hương cho bà Ninh không? – Có chứ, có lần tôi c̣n gặp bà ấy. Các con bà ngồi quanh bảo: “Ư mẹ cháu nói là gặp lúc nằm mê đấy”.
Trong mấy tháng bà theo ông đi nhiều nơi, khi th́ nói chuyện, giao lưu với những người yêu thơ ông ở một câu lạc bộ, khi trả lời một cuộc phỏng vấn. Khi là một buổi gặp mặt thân mật với các bạn thơ.
Có lần, ai đó đọc một vế đối để thử tài ông: Chỉ cu anh, em hỏi Củ Chi? Người Việt Nam, nhất là người làm thơ, viết văn đều biết một trong những cách làm nên nghệ thuật ngôn từ này là nói lái. Nhiều khi khá tục. Nhưng ai cũng thích, bởi nó là một tṛ chơi ngôn ngữ, tṛ chơi trí tuệ.
Hữu Loan chợt nhớ về Nga Sơn quê ḿnh có mấy thắng cảnh: Núi Mai An Tiêm nổi tiếng với sự tích quả dưa hấu. Đến giờ vẫn có ḍng họ Mai đông đúc. Có cửa Thần Phù, hồ Đồng Vục, động Từ Thức và hang Trống. À đây rồi. Ông dọn giọng: Đố tục th́ giải cũng phải tục mới tương xứng nhé. Nga Sơn quê tôi có hang Trống. Thế nên vế đối lại của tôi là: Trông háng cháu, bác rằng hang Trống.
Nhắc đến chuyện Từ Thức gặp Tiên giầu tính trữ t́nh, nhân văn, một người đă đặt hàng nhà thơ tài hoa viết một vở kịch thơ. Ông đă bắt đầu khởi thảo. Những ḍng thơ đầu tiên hứa hẹn một tác phẩm hay: Nàng đă đi rồi, ta đứng đây/ Áo lam sương xuống lạnh vai gầy/ Cẩm bào gửi lại t́nh muôn thuở/ Hoa găy người đi mộng tháng ngày/ Gặp gỡ đà không ḥ hẹn trước/ Trùng phùng đâu chắc chuyện sau này/ Hoa ơi có biết quê người đẹp/ Người đẹp về đâu hỡi gió mây...
Dù được gần gũi chồng, được đi đó đi đây trong sự chào đón trọng vọng, nhưng người phụ nữ nông dân vẫn không làm sao thích nghi được lối sống, quan hệ sống nơi đô thị hầu như chẳng ai biết ai. Và ồn ào. Và tù túng. Và nhớ bọn trẻ vô kể. Nhớ làng Vân Hoàn vô kể. Về thôi ông ơi. Không thể ở thêm ngày nào nữa. Hữu Loan đang hào hứng với kịch thơ Từ Thức. Vậy mà ông đành chiều vợ, bỏ dở công việc, cùng người vợ tao khang trở về. “Tại bà Thiến Thư đấy nhé, không th́ tôi sẽ xong Cái Từ Thức cho mà xem! Về th́ về!”.
*
* *
H́nh như các nhà thơ thích nhắc đến các buổi chiều hơn buổi sáng. Thơ Hữu Loan cũng nhiều lắm những buổi chiều: Chiều quê, Một chiều rừng mưa… Chiều hành quân/ Qua những đồi hoa sim/ Những đồi hoa sim…/ Những đồi hoa sim dài/ trong chiều/ không biết. Ám ảnh ḷng người nhất là câu: Màu tím hoa sim/ tím/ chiều hoang biền biệt...
Tôi cũng về với ông một buổi chiều. Tháng sau sim mới ra hoa. Chỉ có hoa mua, cũng được ông nhắc đến trong Những làng đi qua. Hoa mua cùng một màu phớt tím như hoa sim. Tôi hái một bó đặt lên mộ ông. Ông nằm đấy, lưng tựa vào một trong năm ngọn của núi Vân Hoàn. Mặt hướng ra phía trước, thoáng đăng. Phía dưới, nơi song thân ông yên nghỉ bao la là nước. Chếch phía Đông là sông Mă hùng vĩ. Những tảng đá xanh Vân Hoàn vây quanh mộ ông...
Im ắng đến lạ lùng. Cảm giác như nắm bắt được, ngửi được, nghe được, nh́n được cái buổi tím chiều hoang biền biệt của ông, bảng lảng xung quanh đang nhập vào tôi, đưa tôi về với ông, sáu mươi hai năm trước.
Trồng cho bố cháu một bụi sim bên mộ được không? Đán bảo, cháu trồng rồi kia ḱa, nhưng thiếu nước tưới nên chết rồi. Tôi bày cho anh, lấy một b́nh nước năm lít, đút nút làm sao để khi dốc ngược, nó chỉ nhỏ từng giọt thôi. Châm một lỗ kim nhỏ cho không khí vào để nó sẽ thấm từng giọt vào gốc cây. C̣n một gốc, anh trồng trong vườn nhà th́ đang hồi phục.
Bà Nhu vẫn ngồi trên vơng ngoài vườn, ngay trước gốc sim và gốc mẫu đơn trắng mới trồng sau ngày ông đi, tay cầm một sợi dây buộc vào một gốc cây để kéo vơng. Tôi lựa lời hỏi xem, ông đi thanh thản thế, bà có bận tâm không? - Cũng có đấy. Ông ấy có một đứa con riêng nhưng không kịp về gặp bố đă đành (21 giờ đồng hồ từ lúc mất đến lúc hạ huyệt – TG), nhưng đến nay vẫn chưa thấy về th́ không hiểu ra sao. Tôi hơi chạnh ḷng cho ông nhà tôi.
Năm ấy, có một người con gái t́m đến nhà xưng tên là Mai, nói rằng ḿnh là con riêng ông nhà tôi. Ông nhà tôi cũng nhận cô ta là con. Chuyện đă rồi. Chuyện là chuyện người lớn, trẻ con có tội t́nh ǵ. Tôi đành cắn răng nhận và cũng cho cô ta hai mươi triệu.
– Chắc là hai chục đồng thôi, v́ lương cháu lúc ấy chỉ được 55 đồng - Tôi nói. Anh Cương, con trai cả th́ bảo, có khi chỉ hai đồng thôi, chắc mẹ tôi nhớ nhầm - rồi tiếp – Hồi ấy nhà nghèo lắm. Tôi thi học sinh giỏi toán huyện mà chỉ được thưởng một chiếc bút máy Hồng Hà. Có chiếc bút máy Trường Sơn đă là sang lắm rồi. Th́ mọi người vẫn c̣n viết bút chấm mực kia mà. Bố tôi bắt tôi đưa cho chị Mai cái bút ấy. Lúc ấy, Đán đang c̣n là thằng bé tồng ngồng trên chiếc chiếu cói sờn mép. Sau này Mai c̣n trở lại thăm bố một lần nữa.
Đầu đuôi câu chuyện thế này. Hồi ấy Hữu Loan chưa lấy bà Nhu. Nhưng bà Trâm (mẹ Mai) đang công tác phụ nữ bên Nga Bạch, cùng huyện, cứ nài nỉ xin ông một đứa con, v́ chồng bà đi công tác xa măi không về. Nói măi, nói măi làm Hữu Loan cũng mủi ḷng, nhưng giao hẹn, chỉ thế thôi, không thành vợ chồng được, v́ lúc ấy ông đă phải ḷng bà Nhu rồi.
Chuyện xảy ra hồi tháng 9. Đến tháng 11 Hữu Loan mới cưới bà Nhu nên Mai hơn Cương 6 tháng tuổi. Nhưng được con rồi, bà Trâm lại dấn thêm, đ̣i lấy ông. Hai người đă có một cuộc nói chuyện kịch liệt đến nỗi từ đó bà Trâm không c̣n tơ tưởng ǵ nữa, v́ biết rằng toàn bộ t́nh cảm, Hữu Loan đă dành cho bà Nhu rồi. Đán nói đă có lần bố anh kể với anh như thế.
Sau đó bà Trâm lấy một người chồng là cán bộ miền Nam tập kết tên là Vân, quê B́nh Định. Rồi người chồng đầu tiên trở về. Bà Trâm có ra Hà Nội xin lỗi chồng cũ, v́ hoàn cảnh không biết thế nào mà chờ được. Rồi ông chồng cũ này cũng lấy một bà người Hà Nội.
Ngày miền Nam hoàn toàn giải phóng, bà Trâm về miền Nam cùng chồng. Năm 1992, Hữu Loan vào Sài G̣n, có t́m gặp con. Khi ông ấy đi, cả nhà tôi đều nhắc đến cô ấy, thế mà đến giờ vẫn không thấy ra chịu tang bố. Bà Nhu nói vậy.
Cuộc sống t́nh cảm của người nghệ sĩ không bao giờ là đơn giản. Đơn giản th́ không thể làm một nghệ sĩ rồi. Chuyện t́nh của Hữu Loan là như vậy, nhưng rất rạch ṛi, ṣng phẳng, không có chuyện một mũi tên lại xuyên nhiều đích. Nửa của ông là một người phụ nữ b́nh thường, nhưng bao dung cao thượng. Không bao giờ ghen với quá khứ của chồng. Hiện tại th́ có ghen đấy, nhưng không phải là cái thứ ngứa ghẻ hờn ghen, nên không làm khổ chồng v́ những chuyện không đâu. Ông bà là hai nửa đích thực của nhau, viên măn đến tận cuối đời.
Nguyễn Bắc Sơn
|
|
binhminh01
member
REF: 537270
05/03/2010
|
Đây là lời tự thuật của nhà thơ Hữu Loan đăng ở website của Tuổi trẻ Việt Hải Ngoại:http://www.tuoitrevhn.com/?act=news&cat=27&sub=27&id=44809,
Trong bài có nhắc đến gia thế của người vợ sau của nhà thơ.
Bài này không thấy đăng trong nước, có lẽ v́ nội dung khó chấp nhận. Đúng sai thực hư không rơ thế nào, chẳng ai biết được.
Xin góp đăng ở đây để mọi người cùng đọc tham khảo, vậy thôi. Tin hay không tùy nhận thức của mỗi người.
(bài tự thuật này cũng được đăng trên BBC.com nhưng không đầy đủ.)
Hữu Loan Tự Thuật
Tôi sinh ra trong một gia đ́nh nghèo, hồi nhỏ không có cơ may cắp sách đến trường như bọn trẻ cùng trang lứa, chỉ được cha dạy cho dăm chữ bữa có bữa không ở nhà. Cha tôi tuy là tá điền nhưng tư chất lại thông minh hơn người. Lên trung học, theo ban thành chung tôi cũng học tại Thanh Hóa, không có tiền ra Huế hoặc Hà Nội học.
Đến năm 1938 - lúc đó tôi cũng đă 22 tuổi - Tôi ra Hà Nội thi tú tài, để chứng tỏ rằng con nhà nghèo cũng thi đỗ đạt như ai. Tuyệt nhiên tôi không có ư định dấn thân vào chốn quan trường. Ai cũng biết thi tú tài thời Pháp rất khó khăn. Số người đậu trong kỳ thi đó rất hiếm, hiếm đến nỗi 5-6 chục năm sau những người cùng thời c̣n nhớ tên những người đậu khóa ấy, trong đó có Nguyễn Đ́nh Thi, Hồ Trọng Gin, Trịnh văn Xuấn, Đỗ Thiện và ...tôi - Nguyễn Hữu Loan.
Với mảnh tú tài Tây trong tay, tôi rời quê nhà lên Thanh Hóa để dạy học. Nhăn mác con nhà nghèo học giỏi của tôi được bà tham Kỳ chú ư, mời về nhà dạy cho hai cậu con trai. Tên thật của bà tham Kỳ là Đái thị Ngọc Chất, bà là vợ của của ông Lê Đỗ Kỳ, tổng thanh tra canh nông Đông Dương, sau này đắc cử dân biểu quốc hội khóa đầu tiên. Ở Thanh Hóa, Bà tham Kỳ có một cửa hàng bán vải và sách báo, tôi thường ghé lại xem và mua sách, nhờ vậy mới được bà để mắt tới.
Bà tham Kỳ là một người hiền lành, tốt bụng, đối xử với tôi rất tốt, coi tôi chẳng khác như người nhà. Nhớ ngày đầu tiên tôi khoác áo gia sư, bà gọi măi đứa con gái - lúc đó mới 8 tuổi- mới chịu lỏn lẻn bước ra khoanh tay, miệng lí nhí: "Em chào thầy ạ!" Chào xong, cô bé bất ngờ mở to đôi mắt nh́n thẳng vào tôi. Đôi mắt to, đen láy, tṛn xoe như có ánh chớp ấy đă hằn sâu vào tâm trí tôi, theo tôi suốt cả cuộc đời.
Thế là tôi dạy em đọc, dạy viết. Tên em là Lê Đỗ Thị Ninh, cha làm thanh tra nông lâm ở Sài G̣n nên sinh em trong ấy, quen gọi mẹ bằng má. Em thật thông minh, dạy đâu hiểu đấy nhưng ít nói và mỗi khi mở miệng th́ cứ y như một "bà cụ non". Đặc biệt em chăm sóc tôi hằng ngày một cách kín đáo: em đặt vào góc mâm cơm chổ tôi ngồi ăn cơm lúc th́ vài quả ớt đỏ au, lúc th́ quả chanh mọng nước em vừa hái ở vườn, những buổi trưa hè, nhằm lúc tôi ngủ trưa, em lén lấy áo sơ mi trắng tôi treo ở góc nhà mang ra giếng giặt .....
Có lần tôi kể chuyện "bà cụ non" ít nói cho hai người anh của em Ninh nghe, không ngờ chuyện đến tai em, thế là em giận! Suốt một tuần liền, em nằm ĺ trong buồng trong, không chịu học hành... Một hôm bà tham Kỳ dẫn tôi vào pḥng nơi em đang nằm thiếp đi. Hôm ấy tôi đă nói ǵ, tôi không nhớ nữa. Chỉ nhớ là tôi đă nói rất nhiều, đă kể chuyện em nghe, rồi tôi đọc thơ...
Trưa hôm ấy, em ngồi dậy ăn một bát to cháo gà và bước ra khỏi căn buồng. Chiều hôm sau, em nằng nặc đ̣i tôi đưa lên khu rừng thông. Cả nhà không ai đồng ư: "Mới ốm dậy c̣n yếu lắm, không đi được đâu" Em không chịu nhất định đ̣i đi cho bằng được. Sợ em lại dỗi nên tôi đánh bạo xin phép ông bà tham Kỳ đưa em lên núi chơi .....
Xe kéo chừng một giờ mới tới được chân đồi. Em leo đồi nhanh như một con sóc, tôi đuổi theo muốn đứt hơi. Lên đến đỉnh đồi, em ngồi xuống và bảo tôi ngồi xuống bên em.Chúng tôi ngồi thế một hồi lâu, chẳng nói ǵ. Bất chợt em nh́n tôi, rồi ngước mắt nh́n ra tận chân trời, không biết lúc đó em nghĩ ǵ. Bất chợt em hỏi tôi:
-Thầy có thích ăn sim không ?
Tôi nh́n xuống sườn đồi: tím ngắt một màu sim. Em đứng lên đi xuốn sườn đồi, c̣n tôi v́ mệt quá nên nằm thiếp đi trên thảm cỏ....Khi tôi tỉnh dậy, em đă ngồi bên tôi với chiếc nón đầy ắp sim. Những quả sim đen láy chín mọng.
-Thầy ăn đi.
Tôi cầm quả sim từ tay em đưa lên miệng trầm trồ:
-Ngọt quá.
Như đă nói, tôi sinh ra trong một gia đ́nh nông dân, quả sim đối với tôi chẳng lạ lẫm ǵ, nhưng thú thật tôi chưa bao giờ ăn những quả sim ngọt đến thế!
Cứ thế, chúng tôi ăn hết quả này đến quả khác. Tôi nh́n em, em cười. Hai hàm răng em đỏ tím, đôi môi em cũng đỏ tím, hai bên má th́....tím đỏ một màu sim. Tôi cười phá lên, em cũng cười theo!
Cuối mùa đông năm ấy, bất chấp những lời can ngăn, hứa hẹn can thiệp của ông bà tham Kỳ, tôi lên đường theo kháng chiến. Hôm tiễn tôi, em theo măi ra tận đầu làng và lặng lẽ đứng nh́n theo. Tôi đi... lên tới bờ đê, nh́n xuống đầu làng,em vẫn đứng đó nhỏ bé và mong manh. Em giơ bàn tay nhỏ xíu như chiếc lá sim ra vẫy tôi. Tôi vẫy trả và lầm lũi đi...Tôi quay đầu nh́n lại... em vẫn đứng yên đó ... Tôi lại đi và nh́n lại đến khi không c̣n nh́n thấy em nữa...
Những năm tháng ở chiến khu, thỉnh thoảng tôi vẫn được tin tức từ quê lên, cho biết em vẫn khỏe và đă khôn lớn. Sau này, nghe bạn bè kể lại, khi em mới 15 tuổi đă có nhiều chàng trai đên ngỏ lời cầu hôn nhưng em cứ trốn trong buồng, không chịu ra tiếp ai bao giờ ...
Chín năm sau, tôi trở lại nhà...Về Nông Cống t́m em. Hôm gặp em ở đầu làng, tôi hỏi em, hỏi rất nhiều, nhưng em không nói ǵ, chỉ bẽn lẽn lắc hoặc gật đầu. Em giờ đây không c̣n cô học tṛ Ninh bướng bỉnh nữa rồi. Em đă gần 17 tuổi, đă là một cô gái xinh đẹp....
Yêu nhau lắm nhưng tôi vẫn lo sợ, v́ hai gia đ́nh không môn đăng hộ đối một chút nào. Măi sau này mới biết việc hợp hôn của chúng tôi thành công là do bố mẹ em ngấm ngầm "soạn kịch bản".
Một tuần sau đó chúng tôi kết hôn. Tôi bàn việc may áo cưới th́ em gạt đi, không đ̣i may áo cưới trong ngày hợp hôn, bảo rằng là: "yêu nhau, thương nhau cốt là cái tâm và cái t́nh bền chặt là hơn cả". Tôi cao ráo, học giỏi, làm thơ hay...lại đẹp trai nên em thường gọi đùa là anh chồng độc đáo. Đám cưới được tổ chức ở ấp Thị Long, huyện Nông Công, tỉnh Thanh Hóa của gia đ́nh em, nơi ông Lê Đỗ Kỳ có hàng trăm mẫu ruộng. Đám cưới rất đơn sơ, nhưng khỏi nói, hai chúng tôi hạnh phúc hơn bao giờ hết!
Hai tuần phép của tôi trôi qua thật nhanh, tôi phải tức tốc lên đường hành quân, theo sư đoàn 304, làm chủ bút tờ Chiến Sĩ. Hôm tiễn tôi lên đường, em vẫn đứng ở đầu làng, nơi chín năm trước em đă đứng. Chỉ có giờ em không c̣n cô bé Ninh nữa mà là người bạn đời yêu quư của tôi. Tôi bước đi, rồi quay đầu nh́n lại.....Nếu như chín năm về trước, nh́n lại chỉ thấy một nỗi buồn man mác th́ lần này, tôi thật sự đau buồn. Đôi chân tôi như muốn khuỵu xuống.
Ba tháng sau, tôi nhận được tin dữ: vợ tôi qua đời! Em chết thật thảm thương: Hôm đó là ngày 25 tháng 5 âm lịch năm 1948, em đưa quần áo ra giặt ngoài sông Chuồn (thuộc ấp Thị Long, Nông Cống), v́ muốn chụp lại tấm áo bị nước cuốn trôi đi nên trượt chân chết đuối! Con nước lớn đă cuốn em vào ḷng nó, cướp đi của tôi người bạn ḷng tri kỷ, để lại tôi tôi nỗi đau không ǵ bù đắp nỗi. Nỗi đau ấy, gần 60 năm qua, vẫn nằm sâu thẳm trong trái tim tôi.
Tôi phải giấu kín nỗi đau trong ḷng, không được cho đồng đội biết để tránh ảnh hưởng đến tinh thần chiến đấu của họ. Tôi như một cái xác không hồn....Dường như càng kềm nén th́ nỗi đau càng dữ dội hơn. May sao, sau đó có đợt chỉnh huấn, cấp trên bảo ai có tâm sự ǵ cứ nói ra, nói cho hết. Chỉ chờ có thế, cơn đau trong ḷng tôi được bung ra. Khi ấy chúng tôi đang đóng quân ở Nghệ An, tôi ngồi lặng đi ở đầu làng, hai mắt tôi đẫm nước, tôi lấy bút ra ghi chép. Chẳng cần phải suy nghĩ ǵ, những câu những chữ mộc mạc cứ trào ra:
Nhà nàng có ba người anh đi bộ đội
Những em nàng có em chưa biết nói
"Khi tóc nàng đang xanh ..." ...
Tôi về không gặp nàng...
Về viếng mộ nàng, tôi dùng chiếc b́nh hoa ngày cưới làm b́nh hương, viết lại bài thơ vào chiếc quạt giấy để lại cho người bạn ở Thanh Hóa... Anh bạn này đă chép lại và truyền tay nhau trong suốt những năm chiến tranh. Đó là bài thơ Màu Tím Hoa Sim.
Đến đây, chắc bạn biết tôi là Hữu Loan, Nguyễn Hữu Loan, sinh ngày 2-4-1916 hiện tại đang "ở nhà trông vườn" ở làng Nguyên Hoàn - nơi tôi gọi là chổ "quê đẻ của tôi đấy" thuộc xă Mai Lĩnh, huyện Nga Sơn tỉnh Thanh Hóa.
Em Ninh rất ưa mặc áo màu tím hoa sim. Lạ thay nơi em bị nước cuốn trôi dưới chân núi Nưa cũng thường nở đầy những bông hoa sim tím. Cho nên tôi viết mới nổi những câu :
Chiều hành quân, qua những đồi sim
Những đồi sim, những đồi hoa sim
Những đồi hoa sim dài trong chiều không hết
Màu tím hoa sim, tím cả chiều hoang biền biệt
Và chiều hoang tím có chiều hoang biết
Chiều hoang tim tím thêm màu da diết.
*
Mất nàng, mất tất cả, tôi chán đời, chán kháng chiến, bỏ đồng đội, từ giă văn đàn về quê làm ruộng, một phần cũng v́ tính tôi "hay căi, thích chống đối, không thể làm ǵ trái với suy nghĩ của tôi". Bọn họ chê tôi ủy mị, hoạch hoẹ đủ điều, không chấp nhận đơn từ bỏ kháng chiến của tôi. Mặc kệ! Tôi thương tôi, tôi nhớ hoa sim của tôi quá! Với lại tôi cũng chán ngấy bọn họ quá rồi!
Đó là thời năm 1955 - 1956, khi phong trào văn nghệ sĩ bùng lên với sự xuất hiện của nhóm Nhân Văn Giai Phẩm chống chính sách độc tài, đồng thời chống những kẻ bồi bút đan tâm lừa thầy phản bạn, dốc tâm ca ngợi cái này cái nọ để kiếm chút cơm thừa canh cạn.
Làm thơ th́ phải có cái tâm thật thiêng liêng th́ thơ mới hay. Thơ hay th́ sống măi. Làm thơ mà không có t́nh, có tâm th́ chả ra ǵ! Làm thơ lúc bấy giờ là phải ca tụng, trong khi đó tôi lại đề cao t́nh yêu, tôi khóc người vợ tử tế của ḿnh, người bạn đời hiếm có của ḿnh. Lúc đó tôi khóc như vậy họ cho là khóc cái t́nh cảm riêng....
Y như trong thơ nói ấy, tôi lấy vợ rồi ra mặt trận, mới lấy nhau chưa được hơn một tháng, ở nhà vợ tôi đi giặt rồi chết đuối ở sông ... Tôi thấy đau xót, tôi làm bài thơ ấy tôi khóc, vậy mà họ cho tôi là phản động. Tôi phản động ở chổ nào? Cái đau khổ của con người, tại sao lại không được khóc?
Bọn họ xúc phạm đến t́nh cảm thiêng liêng của tôi đối với người vợ mà tôi hằng yêu quư, cho nên vào năm 1956, tôi bỏ đảng, bỏ cơ quan, về nhà để đi cày. Họ không cho bỏ, bắt tôi phải làm đơn xin. Tôi không xin, tôi muốn bỏ là bỏ, không ai bắt được! Tôi bỏ tôi về, tôi phải đi cày đi bừa, đi đốn củi, đi xe đá để bán. Bọn họ bắt giữ xe tôi, đến nỗi tôi phải đi xe cút kít, loại xe đóng bằng gỗ, có một bánh xe cũng bằng gỗ ở phía trước, có hai cái càng ở phía sau để đủn hay kéo. Xe cút kít họ cũng không cho, tôi phải gánh bộ. Gánh bằng vai tôi, tôi cũng cứ gánh, không bao giờ tôi bị khuất phục. Họ theo dơi, ngăn cản, đi đến đâu cũng có công an theo dơi, cho người hại tôi...
Nhưng lúc nào cũng có người cứu tôi! Có một cái lạ là thơ của tôi đă có lần cứu sống tôi! Lần đó tên công an mật nói thật với tôi là nó được giao lệnh giết tôi, nhưng nó sinh ở Yên Mô, thường đem bài Yên Mô của tôi nói về tỉnh Yên B́nh quê nó ra đọc cho đỡ nhớ, v́ vậy nó không nỡ giết tôi! Ngoài Yên Mô, tôi cũng có một vài bài thơ khác được mến chuộng. Sau năm 1956, khi tôi về rồi thấy cán bộ khổ quá, tôi đă làm bài Chiếc Chiếu, kể chuyện cán bộ khổ đến độ không có chiếc chiếu để nằm!
Định mệnh đưa đẩy, dắt tôi đến với một phụ nữ khác, sống cùng tôi cho đến tận bây giờ. Cô tên Phạm Thị Nhu, cũng là phụ nữ có tâm hồn sâu sắc. Cô vốn là một nạn nhân của chiến dịch cải cách ruộng đất, đấu tố địa chủ năm 1954, 1955.
Lúc đó tôi c̣n là chính trị viên của tiểu đoàn. Tôi thấy tận mắt những chuyện đấu tố. Là người có học, lại có tâm hồn nghệ sĩ nên tôi cảm thấy chán nản quá, không c̣n hăng hái nữa. Thú thật, lúc đó tôi thất vọng vô cùng. Trong một xă thuộc huyện Nga Sơn, tỉnh Thanh Hóa, cách xa nơi tôi ở 15 cây số, có một gia đ́nh địa chủ rất giàu, nắm trong gần năm trăm mẫu tư điền.
Trước đây, ông địa chủ đó giàu ḷng nhân đạo và rất yêu nước. Ông thấy bộ đội sư đoàn 304 của tôi thiếu ăn nên ông thường cho tá điền gánh gạo đến chổ đóng quân để ủng hộ. Tôi là trưởng pḥng tuyên huấn và chính trị viên của tiểu đoàn nên phải thay mặt anh em ra cám ơn tấm ḷng tốt của ông, đồng thời đề nghị lên sư đoàn trưởng trao tặng bằng khen ngợi để vinh danh ông .
Thế rồi, một hôm, tôi nghe tin gia đ́nh ông đă bị đấu tố. Hai vợ chồng ông bị đội Phóng tay phát động quần chúng đem ra cho dân xỉ vả, rồi chôn xuống đất, chỉ để hở hai cái đầu lên. Xong họ cho trâu kéo bừa đi qua đi lại hai cái đầu đó cho đến chết. Gia đ́nh ông bà địa chủ bị xử tử hết, chỉ có một cô con gái 17 tuổi được tha chết nhưng bị đội Phóng tay phát động đuổi ra khỏi nhà với vài bộ quần áo cũ rách. Tàn nhẫn hơn nữa, chúng c̣n ra lệnh cấm không cho ai được liên hệ, nuôi nấng hoặc thuê cô ta làm công. Thời đó, cán bộ cấm đoán dân chúng cả việc lấy con cái địa chủ làm vợ làm chồng.
Biết chuyện thảm thương của gia đ́nh ông bà địa chủ tôi hằng nhớ ơn, tôi trở về xă đó xem cô con gái họ sinh sống ra sao v́ trước kia tôi cũng biết mặt cô ta. Tôi vẫn chưa thể nào quên được h́nh ảnh của một cô bé cứ buổi chiều lại lén lút đứng núp bên ngoài cửa sổ nghe tôi giảng Kiều ở trường Mai Anh Tuấn.
Lúc gần tới xă, tôi gặp cô ta áo quần rách rưới, mặt mày lem luốc. Cô đang lom khom nhặt những củ khoai mà dân bỏ sót, nhét vào túi áo, chùi vội một củ rồi đưa lên miệng gặm, ăn khoai sống cho đỡ đói. Quá xúc động, nước mắt muốn ứa ra, tôi đến gần và hỏi thăm và được cô kể lại rành rọt hôm bị đấu tố cha mẹ cô bị chết ra sao. Cô khóc rưng rức và nói rằng gặp ai cũng bị xua đuổi. Hằng ngày cô đi mót khoai ăn đỡ đói ḷng, tối về ngủ trong chiếc miếu hoang, cô rất lo lắng, sợ bị làm bậy và không biết ngày mai c̣n sống hay bị chết đói.
Tôi suy nghĩ rất nhiều, bèn quyết định đem cô về làng tôi, và bất chấp lệnh cấm, lấy cô làm vợ. Sự quyết định của tôi không lầm. Quê tôi nghèo, lúc đó tôi c̣n ở trong bộ đội nên không có tiền, nhưng cô chịu thương chịu khó, bữa đói bữa no....Cho đến bây giờ cô đă cho tôi 10 người con - 6 trai, 4 gái - và cháu nội ngoại hơn 30 đứa!
Trong mấy chục năm dài, tôi về quê an phận thủ thường, chẳng màng đến thế sự, ngày ngày đào đá núi đem đi bán, túi dắt theo vài cuốn sách cũ tiếng Pháp, tiếng Việt đọc cho giải sầu, lâu lâu nổi hứng th́ làm thơ, thế mà chúng vẫn trù dập, không chịu để tôi yên. Tới hồi mới mở cửa, tôi được ve văn, mời gia nhập Hội Nhà Văn, tôi chẳng thèm gia nhập làm ǵ.
Năm 1988, tôi "tái xuất giang hồ" sau 30 năm tự chôn và bị chôn ḿnh ở chốn quê nghèo đèo heo hút gió. Tôi lang bạt gần một năm trời theo chuyến đi Xuyên Việt do hội văn nghệ Lâm Đồng và tạp chí Langbian tổ chức để đ̣i tự do sáng tác, tự do báo chí - xuất bản và đổi mới thực sự.
Vào tuổi gần đất xa trời, cuối năm 2004, công ty Viek VTB đột nhiên đề nghị mua bản quyền bài Màu Tím Hoa Sim của tôi với giá 100 triệu đồng. Họ bảo đó là một h́nh thức bảo tồn tài sản văn hóa. Th́ cũng được đi. Khoản tiền 100 triệu trừ thuế đi c̣n 90 triệu, chia "lộc" cho 10 đứa con hết 60 triệu đồng, tôi giữ lại 30 triệu đồng, pḥng đau ốm lúc tuổi già, sau khi trích một ít để in tập thơ khoảng 40 bài mang tên Thơ Hữu Loan.
Sau vụ này cũng có một số công ty khác xin kư hợp đồng mua mấy bài thơ khác, nhưng tôi từ chối, thơ tôi làm ra không phải để bán.
© Hữu Loan
|
|
sontunghn
member
REF: 571330
10/15/2010
|
Gặp trưởng lăo làng thơ Việt
Cái tên “Hữu Loan” từ lâu đă “làm tổ” trong ḷng những người yêu thơ. Chỉ với bài “Màu tím hoa sim”, ông đă làm tím thi đàn Việt Nam. Đời người, đời thơ của Hữu Loan chứa đầy những điều đáng trân trọng.
Từ ám ảnh thuở học tṛ đến chuyến đi ngẫu hứng
Khi là học sinh chuyên văn của tỉnh Nghệ An, tôi chứng kiến cánh học tṛ chuyền tay nhau chép bài thơ “Màu tím hoa sim”. Hơn thế nữa, trong những lần đi rừng hái củi, mấy người bạn c̣n khe khẽ hát: “Ôi những đồi hoa sim, những đồi hoa sim tím chiều hoang biền biệt…” Tôi rất xúc động. Cái tên Hữu Loan găm vào tôi từ ngày đó.
Thú thật là ngoài chuyện bài thơ hay ra, người ta c̣n kể nhiều chuyện khá ly kỳ về Hữu Loan. Điều đấy khiến tôi ṭ ṃ. Tôi có mong ước được gặp gỡ và tṛ chuyện với người “làm tím thi đàn Việt Nam”. Tôi cũng bỏ công ra sưu tầm thơ Hữu Loan, nhưng ngoài “Màu tím hoa sim” ra, tôi cũng chỉ biết thêm được “Đèo cả”.
Thời gian cứ thế trôi, tôi tốt nghiệp đại học rồi đi làm báo. Công việc và chuyện “cơm áo gạo tiền” cuốn đi mải miết. Bạn bè cùng học, cùng uống rượu thành nhà văn, nhà thơ; họ in sách tặng tôi xếp đầy cả tủ. Bản thân tôi cũng bỏ tiền mua những tập không được tặng, nhưng tôi t́m măi vẫn không thấy tập thơ nào của Hữu Loan. Tôi vẫn khắc khoải, mong ngóng một điều ǵ đấy.
... Vào những năm tám mươi của thế kỷ trước, trong một lần đi công tác tại Thanh Hoá, khi xe của chúng tôi đi qua một làng quê, người ngồi bên cạnh tôi th́ thầm: "H́nh như nhà thơ Hữu Loan ḱa". Theo tay anh chỉ, tôi thấy một người đàn ông trên 60 tuổi đẩy một chiếc xe thồ đầy đá. Chiếc U-uát chạy nhanh quá, tôi không nh́n rơ mặt người đẩy xe, nhưng thấy dáng ông đi tự tin và vững chăi. Tuy nhiên, h́nh ảnh ấy có vẻ không phù hợp với một thi sĩ. Chắc có điều ǵ uẩn khúc ở đây? Tôi mong được một lần gặp Hữu Loan.
Măi đến bây giờ tôi mới có dịp thực hiện mơ ước từ ngày bé của ḿnh. Vào một ngày đẹp trời, có người rủ tôi đi thăm nhà thơ Hữu Loan. Tôi mừng húm v́ nghĩ rằng, người này có mối quan hệ thân thiết với nhà thơ nổi tiếng. Nhưng hoá ra không phải vậy. Anh cũng chỉ là người mến mộ nhà thơ và biết mỗi địa chỉ. Nhưng khi đă muốn th́ có thể t́m…
Cách thành phố Thanh Hoá khoảng 26 km, trên quốc lộ 1A (hướng Hà Nội – Vinh), có biển chỉ dẫn "Nga Sơn" đi về phía biển. Theo con đường này đi được chừng 2 km, chúng tôi hỏi hai cô gái đi xe máy cùng chiều. Thật may, hai cô này quê ở Nga Lĩnh và biết nhà của thi sĩ Hữu Loan. Hai cô t́nh nguyện dẫn đường cho chúng tôi. Trước khi về nhà ḿnh, các cô nói: "Đi theo đường này khoảng vài trăm mét, thấy cái nhà 2 tầng, ông Hữu Loan ở đó.”
Nhà thơ Hữu Loan tên thật là Nguyễn Hữu Loan, sinh ngày 02/4/ 1916 tại xă Nga Lĩnh, huyện Nga Sơn, tỉnh Thanh Hoá. Ông tham gia hoạt động cách mạng từ năm 1936, đă từng giữ chức Phó Chủ tịch Uỷ ban Khởi nghĩa Nga Sơn, Uỷ viên Văn hoá trong Uỷ ban Lâm thời tỉnh Thanh Hoá. Trong kháng chiến chống Pháp, ông là chiến sĩ một đơn vị ở Liên khu 4, chủ bút báo Chiến sĩ. Sau năm 1954, ông làm ở báo Văn nghệ, Hội Nhà văn Việt Nam. Sau đó, ông trở về quê làm ăn sinh sống và nuôi dạy con cái.
Tuy đă t́m được gần đến nơi, nhưng trong tôi cảm xúc lẫn lộn. Tôi chưa tưởng tượng được nhà thơ Hữu Loan hơn 90 tuổi, ở trong một ngôi nhà tầng sang trọng, lên xuống cầu thang như thế nào. Và nữa, ông có thể không có nhà. Nếu ở nhà, ông có thể không tiếp chúng tôi, v́ trước khi đến đây chúng tôi chẳng liên hệ, chẳng có thông tin ǵ cả, ngoại trừ cái địa chỉ: thôn Vân Hoàn, xă Nga Lĩnh, huyện Nga Sơn.
Nhưng mọi sự không như tôi tưởng. Cái nhà 2 tầng hoá ra không phải của gia đ́nh Hữu Loan, mà chỉ là một cái nhà nổi bật ở gần đó. Nhà thơ Hữu Loan ở trong một ngôi nhà cấp 4 chật chội, cũ kỹ; bù lại, có mảnh vườn khá rộng, có dừa vươn ḿnh soi bóng, giàn mướp nở hoa vàng rực rỡ và một ao cá nhỏ xinh.
Tôi hồi hộp bước vào và thấy một ông già tóc bạc trắng. Đấy là nhà thơ Hữu Loan; ngồi cạnh một phụ nữ đă cao tuổi nhưng trông vẫn khoẻ mạnh, là vợ nhà thơ. Thấy chúng tôi vào, vợ chồng nhà thơ không ngạc nhiên, không tỏ ra vui mừng, đon đả, nhưng thân mật. Ông bà không hỏi chúng tôi là ai, đến đây làm ǵ, chỉ mời nước và quay quạt về hướng chúng tôi. Có lẽ những cuộc viếng thăm của các nhà văn, nhà báo, hay đơn giản chỉ là của những người yêu thơ đă trở nên quen thuộc với vợ chồng nhà thơ Hữu Loan.
Mối t́nh thánh thiện, đau thương và tuyệt tác thơ "Màu tím hoa sim”
Gia đ́nh ông Lê Đỗ Kỳ là một gia đ́nh trí thức cách mạng. Ông là kỹ sư canh nông, đă từng giữ chức Tổng Thanh tra Canh nông Đông Dương. Vợ là con một nhà khoa bảng đất Thanh Hoá. Sau Cách mạng tháng Tám năm 1945, ông Kỳ là đại biểu Quốc hội khoá đầu tiên. Vợ ông trở thành cán bộ của Hội Phụ nữ. Ba người con trai đầu của ông đi bộ đội. Người con cả là Lê Đỗ Khôi, hy sinh trên đồi Him Lam ngay trước giờ chiến thắng Điện Biên. Người con thứ hai là Lê Đỗ Nguyên, chính là Trung tướng Phạm Hồng Cư. Người con thứ ba Lê Đỗ An chính là Nguyễn Tiên Phong, nguyên bí thư Trung ương Đoàn, nguyên Phó Ban Dân vận Trung ương. Người con thứ tư là Lê Đỗ Thị Ninh, vợ của nhà thơ Hữu Loan, nhân vật chính của bài thơ "Màu tím hoa sim".
Chàng gia sư tài hoa và cô học tṛ xinh đẹp đă cảm mến nhau ngay từ khi chàng đặt chân đến nhà nàng. Chẳng thế mà nàng tự tay giặt là quần áo cho chàng, mặc dù trong gia đ́nh có hàng chục người được thuê để lo việc nhà. Dù đă thầm yêu nàng tha thiết, nhưng v́ "không môn đăng hộ đối" nên chàng chẳng dám ngỏ lời. Nhưng người quyết liệt lại là nàng. Nàng chủ động bắt chuyện với chàng, đưa chàng đi dạo ở những dải đồi nở đầy hoa sim tím. Rồi nữa, áo nàng mặc tím màu hoa sim. Trong những ngày chàng lănh đạo khởi nghĩa ở địa phương th́ nàng cũng tham gia công tác quần chúng. Khi chàng làm việc ở Uỷ ban Lâm thời tỉnh Thanh Hoá th́ nàng là một trong những người tích cực vận động nhà giàu tham gia hưởng ứng “Tuần lễ vàng”. Cái không khí phơi phới, lạc quan của những đầu cách mạng thành công đă khiến cho t́nh yêu của họ vốn đă lăng mạn, càng thêm lăng mạn.
Trước một t́nh yêu chân thành, mănh liệt, tinh tế và quả cảm của người con gái đẹp; thông minh, đa cảm, tài hoa như Hữu Loan không thể không tiếp nhận. Đây là hạnh phúc mà không phải ai cũng có được: Yêu và được con gái của nhà giàu yêu, rồi chính bố mẹ cô ta đứng ra làm đám cưới.
Hữu Loan cưới vợ trong một lần về phép ngắn ngủi, rồi lại ra đi, mải miết theo đoàn quân trong cuộc trường chinh chống Pháp. Nhưng cuộc đời thật khó lường, “không chết người trai khói lửa, mà chết người con gái hậu phương”. Vợ Hữu Loan chết khi mới 17 tuổi, số ngày sống với chồng chỉ tính trên đầu ngón tay.
Nhận được tin vợ chết, Hữu Loan từ đơn vị trở về, thấy mẹ ngồi bên nấm mồ, b́nh hoa ngày cưới đă thành b́nh hương. Trong tim Hữu Loan - người lính, người t́nh, người chồng, người con dâng lên những đợt sóng trào. T́nh cảm thiết tha, mănh liệt và nỗi đau sâu thẳm đă sản sinh ra bài thơ "Màu tím hoa sim". Tất cả những t́nh tiết, sự kiện, con người trong bài thơ đều là thật. Có lẽ đây chính là nguyên nhân để bài thơ trở nên bất tử.
Cho đến lúc này, người ta vẫn chưa biết nhà thơ Hữu Loan đă viết tất cả bao nhiêu bài thơ. Nhà thơ, nhà nghiên cứu Vũ Quần Phương th́ khẳng định: Hữu Loan viết tất cả 24 bài. Một số nhà nghiên cứu khác nói ông viết được khoảng 40 bài. Một người con trai của ông đang t́m ṭi, sưu tập bản thảo viết tay tất cả những bài thơ của ông. Anh chưa chính thức công bố v́ chưa hoàn chỉnh, nhưng theo anh, toàn bộ sáng tác của bố anh không quá 60 bài thơ.
Cả cuộc đời dài gần trăm năm của ḿnh, Hữu Loan làm thơ không nhiều, không in tập lớn, tập bé; nhưng chỉ cần với một “Màu tím hoa sim”, ông đă nhuộm tím thi đàn Việt Nam. Cái màu tím b́nh dị của một loài cây mọc lúp xúp ở đồi núi Việt Nam đă trở thành một trong những biểu tượng đẹp của thơ ca.
Chuyện đời mộc mạc
Người ta đă viết nhiều về Hữu Loan và dành cho ông những lời lẽ tốt đẹp nhất. Tôi không muốn làm cái chuyện ấy nữa, chỉ ngồi ngắm nh́n, hỏi chuyện, nghe ông nói, đọc thơ. Ở tuổi 93, vẫn với ánh mắt cười rất hóm, nhà thơ Hữu Loan chậm răi kể cho chúng tôi nghe về cuộc đời ḿnh.
“Tôi sinh ra trong một gia đ́nh nghèo, nhưng rất sùng bái chuyện học hành. Ngày bé, tôi tự học là chính. Năm 1938, tôi ra Hà Nội thi, gặp gỡ Nguyễn Đ́nh Thi từ dạo đó. Trở về Thanh Hoá, tôi làm gia sư, vừa để kiếm sống, vừa để học thêm, vừa có điều kiện tham gia cách mạng.
Khi tôi đến dạy học ở nhà một người quyền quư, cô con gái của gia chủ nh́n tôi bằng ánh mắt rất lạ. Tôi bị ánh mắt và gương mặt đẹp thánh thiện ám ảnh, nhưng không dám nghĩ tới chuyện xa hơn.
Nhưng thật may mắn, tôi là chàng trai nghèo nhưng lại được cô học tṛ xinh đẹp là con của một người sang trọng và giàu có yêu. Chúng tôi đă được yêu nhau và hạnh phúc, tuy rất ngắn ngủi. Sau khi Lê Đỗ Thị Ninh chết, tôi nghĩ là ḿnh chẳng bao giờ lấy vợ nữa, ấy thế mà…”
Ông dừng lời và đưa mắt t́nh tứ nh́n vợ là bà Phạm Thị Nhu ngồi bên cạnh. Đây là người phụ nữ gắn bó với ông suốt cả cuộc đời, sinh cho ông 10 người con. Bà Nhu nói:
“Tôi yêu ông này v́ ngày ấy hay ra nghe trộm ông giảng Truyện Kiều cho học sinh. Trọng tài rồi mê người lúc nào không rơ nữa. Dù ông ấy hơn tôi những 20 tuổi, nhưng tôi vẫn mê ông và khiến ông bỏ ư định không lấy vợ nữa. Ông ấy lại c̣n viết bài thơ ‘Hoa lúa’ nịnh tôi nữa chứ.”
Nhà thơ Hữu Loan nh́n vào xa xăm rồi tiếp lời vợ:
"Màu tím hoa sim" là khóc người vợ đă chết, c̣n "Hoa lúa" là bài thơ viết cho bà đang ngồi đây!”
“Ông ấy nhớ toàn bộ bài này đấy, bảo ông ấy đọc cho mà nghe!” - Vợ thi sĩ th́ thầm, nhưng cũng đủ cho tất cả mọi người trong căn nhà nghe rơ.
Bằng một chất giọng hơi khàn nhưng vẫn ấm, nhà thơ Hữu Loan đọc bài "Hoa lúa". Bài thơ khá dài, nhưng ông đọc thong thả, khi th́ nh́n ra khoảng sân có dàn mướt đơm hoa, kết trái; khi th́ nh́n về phía người đàn bà đă gắn bó cùng ông hơn nửa thế kỷ. Vợ ông ngồi lim dim, măn nguyện. Có hạnh phúc nào hơn khi người ḿnh say mê trở thành chồng ḿnh, làm thơ t́nh tặng ḿnh, thỉnh thoảng lại dồn hết tâm trí vào đó và tha thiết đọc lên.
Sự b́nh dị của nhân cách lớn
Thật khó mà tưởng tượng hết những khó khăn mà Hữu Loan vượt qua để duy tŕ cái gia đ́nh có 12 miệng ăn giữa vùng quê nghèo khó trong những năm chiến tranh ác liệt. Hơn nữa, nhiều người trong bộ máy chính quyền địa phương lúc ấy không hiểu ông, c̣n gây thêm cho ông những khó khăn như tịch thu xe đạp của ông với lư do… phụ tùng không đồng bộ; xúi giục những người khai thác đá không bán cho ông.
Bằng nghị lực và sự dẻo dai hiếm có cả về tinh thần lẫn thể chất, Hữu Loan đă vượt qua tất cả mọi thử thách, tai ương. Ông đă sống, làm việc bền bỉ, trung thực, ngay thẳng để vợ con yên b́nh, vững tâm mà sống, mà lớn. Người ta không bán đá cho ông th́ tự tay ông khai thác và chở đi bán. Một ḿnh ông gần như đă san bằng một ngọn núi. Ông cũng đă trở thành “chuyên gia” ṃ cua, bắt ốc ở nơi những cây cói mọc lên để thành chiếu Nga Sơn nổi tiếng. Có lẽ trước khi khăn gói rời Hà Nội, ông đă lường trước mọi khó khăn nên không điều ǵ có thể làm ông gục ngă.
Nhưng theo ông, t́nh yêu và trách nhiệm với vợ con mới là nguồn sức mạnh lớn lao giúp ông đứng vững giữa cuộc đời. Ông bảo: “Tôi là người ương bướng, hay căi. Ở lại làm trong cơ quan, đoàn thể, khó mà dung hoà với mọi người được. Nếu vậy th́ làm sao nuôi nổi đàn con? Nghĩ vậy, tôi thấy về với vợ con là tốt nhất.”
10 người con của ông đă trưởng thành, có người là giáo viên, có người là kiến trúc sư, có người là nông dân… Bây giờ mọi thứ qua rồi nên ông nhớ lại mọi thứ, nhẹ nhàng, thanh thản. Hữu Loan cho biết, ông vẫn làm thơ nhưng rất ít, và hầu như không in ở đâu. Phần lớn thời gian ông suy ngẫm để t́m ra vế đối của những câu thách đố nổi tiếng kiểu “Da trắng vỗ b́ bạch”. Ông cho biết đă đối khá chỉnh nhiều vế đối của Hồ Xuân Hương, Đoàn Thị Điểm.
Cách đây mấy năm, Công ty Vitek đặt vấn đề xin được chuyển nhượng tác quyền bài thơ “Màu tím hoa sim” 100 triệu đồng. Lúc đầu ông không chịu với lư do “thơ tôi làm ra không phải để bán”, nhưng khi thấy có những người con vẫn c̣n khó khăn về vật chất, ông đă đồng ư. Sau khi nộp thuế 10 triệu đồng, ông mang 60 triệu chia cho các con, chỉ giữ lại 30 triệu cho tuổi già.
Hai vợ chồng nhà thơ Hữu Loan sống trong ngôi nhà nhỏ bé, ấm cúng, xung quanh là vườn cây xanh tốt; không xe hơi nhà lầu, không hội họp, phê b́nh, kiểm điểm, không đọc báo cáo… Hàng ngày ông tṛ chuyện với vợ, đọc thơ, chơi với các cháu và tiếp khách. Người làm tím thi đàn Việt Nam sống b́nh dị giữa làng quê của ḿnh với đôi mắt cười rất hóm.
Hồ Bất Khuất
|
Page
1
2
Xem tat ca
- Xem Tung trang
|
|
Kí hiệu:
:
trang cá nhân :chủ
để đă đăng
:
gởi thư
:
thay đổi bài
:ư kiến |
|
|
|
|