northwind
member
ID 54639
08/09/2009
|
TUỔI THƠ DỮ DỘI - PHÙNG QUÁN TẬP 1
VÀI NÉT VỀ TÁC GIẢ
Phùng Quán (1932–1995) là một nhà văn, nhà thơ Việt Nam, bắt đầu viết trong khoảng thời gian của cuộc kháng chiến chống Pháp và khẳng định được văn tài với Vượt Côn Đảo nhưng ông được biết đến nhiều hơn sau Đổi mới. Ông là cháu gọi Tố Hữu bằng cậu, nhưng trong tác phẩm "Ba phút sự thật", thì ông nói rằng gọi "cậu" là do thói quen, thực ra Tố Hữu là bác của Phùng Quán theo cách nói của người miền Bắc.
Phùng Quán, sinh tháng 1 năm 1932, tại quê xã Thuỷ Dương, huyện Hương Thuỷ, tỉnh Thừa Thiên - Huế.
Năm 1945, ông tham gia Vệ quốc quân, là chiến sĩ trinh sát Trung đoàn 101 (tiền thân là Trung đoàn Trần Cao Vân). Sau đó ông tham gia Thiếu sinh quân Liên khu IV, đoàn Văn công Liên khu IV.
Đầu năm 1954, ông làm việc tại Cơ quan sinh hoạt Văn nghệ quân đội thuộc Tổng cục chính trị Quân đội nhân dân Việt nam (tiền thân của tạp chí Văn nghệ quân đội). Tác phẩm đầu tay Vượt Côn Đảo của ông được giải thưởng của Hội Nhà văn Việt Nam năm 1955. Không lâu sau đó, Phùng Quán tham gia phong trào Nhân Văn - Giai Phẩm. Khi phong trào này chấm dứt dưới tác động của nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà, Phùng Quán bị kỷ luật, mất đi tư cách hội viên Hội Nhà văn Việt Nam và phải đi lao động cải tạo ở nhiều nơi. Từ đó đến khi được nhìn nhận lại vào thời kỳ Đổi mới, Phùng Quán hầu như không có một tác phẩm nào được xuất bản, ông phải tìm cách xuất bản một số tác phẩm của mình dưới bút danh khác.
Năm 1988, cuốn tiểu thuyết Tuổi thơ dữ dội của Phùng Quán được xuất bản và nhận Giải thưởng Văn học Thiếu nhi của Hội Nhà văn Việt Nam hai năm sau đó. Ngoài văn xuôi, Phùng Quán còn sáng tác thơ và có nhiều bài thơ nổi tiếng như: Lời mẹ dặn, Hôn, Đêm Nghi Tàm đọc Đỗ Phủ cho vợ nghe...
Ông mất ngày 22 tháng 1 năm 1995 tại Hà nội.
Năm 2007, ông được nhà nước Việt Nam truy tặng Giải thưởng Nhà nước về văn học nghệ thuật, do Chủ tịch nước ký quyết định tặng riêng.
Phùng Quán
Tuổi Thơ Dữ Dội
(Tập một)
Thay lời tựa
Phùng Quán (1932- 1995) Sinh tại Thừa Thiên - Huế, 13 tuổi tham gia Vệ Quốc Quân - chiến sĩ Trinh sát Trung đoàn 101 (tiền thân là Trung đoàn Trần Cao Vân)
Cả cuộc đời ông là một nỗi buồn to lớn, dằng dặc của một tâm hồn yêu nước, thương nòi, ngay thẳng, chân thật mà phải chứng kiến quá nhiều bất công dối trá:
"Tôi muốn đúc thơ thành đạn
Bắn vào tim những kẻ làm càn
Những người tiêu máu của dân
Như tiêu giấy bạc giả!
Tôi đã đến dự những phiên toà
Họp suốt ngày luận bàn xử tội
Những con chuột mặc quần áo bộ đội
Đục cơm khoét áo chúng ta
Ăn cắp máu dân đổi chác đồng hồ
Kim phút kim giờ lép gầy như bụng đói"
"Yêu ai cứ bảo là yêu
Ghét ai cứ bảo là ghét
Dù ai ngon ngọt nuông chiều
Cũng không nói yêu thành ghét
Dù ai cầm dao doạ giết
Cũng không nói ghét thành yêu
Tôi muốn làm nhà văn chân thật
chân thật trọn đời
Đường mật công danh không làm ngọt được lưỡi tôi
Sét nổ trên đầu không xô tôi ngã
Bút giấy tôi ai cướp giật đi
Tôi sẽ dùng dao viết văn lên đá"
"Tôi có quyền gì được no hơn nhân dân tôi một miếng ăn?
Tôi có quyền gì lên xe xuống ngựa
Khi gót chân nhân dân tôi nứt nẻ bụi đường?"
"Một niềm yêu tôi không đổi thay
Một niềm tin tôi không thay đổi,
Viết trên giấy có kẻ giòng
Là nhà văn,
Tôi đã viết suốt 30 năm
Là chiến sĩ,
Tôi là xạ thủ cấp kiện tướng trung đoàn
Tôi có thể viết như bắn
....
Không có gì đẹp hơn
Viết ngay và viết thẳng
Là nhà văn
Tôi yêu tha thiết
Sự ngay thẳng tột cùng
Ngay thẳng thuỷ chung
Của mỗi chữ viết"
"Có những phút ngã lòng
Tôi vịn câu thơ mà đứng dậy"
"...Với một Gavroche, Vitor Hugo đã viết nên những trang bất hủ. Trẻ em của chúng ta đã anh dũng, hồn nhiên tham gia cuộc đấu tranh trường kỳ gian khổ cùng với cha, anh; không kém gì những Gavroche trên chiến luỹ cách mạng Pháp. Thế mà sách vở viết về mặt này còn quá ít. Nhà văn Việt Nam còn mắc nợ các em rất nhiều.
Với TUỔI THƠ DỮ DỘI, Phùng Quán đã bắt đầu trả nợ một cách chính đáng. Sách dày 800 trang mà người đọc không bao giờ muốn ngừng lại, bị lôi cuốn vì những nhân vật ngây thơ có, khôn ranh có, anh hùng có, vì những sự việc khi thì ly kỳ, khi thì hài hước, khi thì gây xúc động đến ứa nước mắt...
Nguyễn Khắc Viện
Phần Thứ Nhất
"Trừ giặc, ba tuổi vẫn còn hiềm là muộn"
Cao Bá Quát
1.
Một tuần trước ngày Huế nổ súng kháng chiến, dân trong thành phố được lệnh tản cư hết về các vùng quê. Nhưng qua mấy ngày đầu đánh nhau, tin tức thắng lợi từ Mặt trận đưa về dồn dập. Tin thắng lợi một đồn mười, mười đồn trăm, nên đồng bào chắc mẩm tụi Tây sắp đầu hàng đến nơi rồi. Do đó, không ai bảo ai, mon men kéo dần về phía thành phố. Họ nóng lòng sốt ruột được mau mau trở về dọn dẹp lại nhà cửa, phố xá, trở về với công việc làm ăn thường ngày.
Cuối cùng họ tụ tập lại đông đúc phía bên này cầu Bao Vinh. Bên kia cầu thuộc khu vực mặt trận A, ai muốn sang phải có giấy phép của Ban chỉ huy Mặt trận cấp.
Như đã thành lệ, tờ mờ sáng là đồng bào túa hết ra đường, kéo đến đứng chen chúc ở đầu cầu, chờ nghe tin tức thắng lợi của Mặt trận đêm qua. Họ chen lấn, ùn ùn mỗi lúc một sát đến chỗ bậc đá bước lên cầu. Nếu không có anh Vệ Quốc Quân cầm ngang khẩu súng trường dài như cây sào chăn vịt đứng gác ngay trước mặt, chắc cả khối người chen chúc này đã tràn qua bên kia cầu như nước vỡ bờ.
Ðồng bào nhao nhao hỏi anh lính gác:
- Ðêm qua quân ta mần ăn có khá không anh?
- Nện tụi Tây ở vị trí mô mà súng, lựu đạn nổ như rang bắp cả đêm rứa?
- Liệu tụi hắn sắp sửa "hô-lê-manh" chưa, cho bà con về dọn dẹp nhà cửa, phố xá?
Bị bà con hỏi tối tăm mặt mũi, anh lính gác chỉ còn biết nhăn nhó đề nghị:
- Xin bà con đứng xê xê ra cho tôi một chút! Ðứng sát vô tui ri còn biết gác xách làm răng?
Sáng hôm đó, từ trong đám đông chen chúc ồn ào ấy, có thằng bé lợi dụng đúng lúc anh lính gác còn mải nhăn nhó đề nghị với đồng bào, luồn ra sau lưng anh và chạy tót sang bên kia cầu. Anh chưa kịp quát gọi lại, nó đã mất vào dãy phố kê đầu cầu bên kia.
Không thể bỏ trống chỗ gác để đuổii theo, anh chỉ còn biết dậm chân dậm cẳng, làu bàu bực tức:
- Con cái nhà ai mà nghịch hơn quỉ!
Có mấy đứa bán kẹo gừng, đậu phộng rang cũng lấp lõm định bắt chước chú bé vừa rồi, nhưng anh lính gác đã nhanh tay tóm cổ áo lôi lại hết.
Một thằng bán kẹo gừng, mắt lác thiên lác địa, trề môi nói với đứa bạn vừa bị tóm cổ lôi lại:
- Tụi bay không bắt chước nổi thằng ni mô! Hắn lanh hơn chuột nhắt. Chơi trốn tìm, ù mọi, thả đỉa ba ba... với hắn chỉ có thua. Ðừng hòng mà sờ được vào người hắn.
- Răng mi biết?
- Tao chơi mãi với hắn còn lạ chi.
- Hắn khoe từ hôm nổ súng, hắn đã tót được qua khu vực Mặt trận ba, bốn lần.- Chú bé bán đậu phụng rang nói chen vào.
- Hắn lọt qua bên đó làm chi?
- Coi chơi!
- Hắn có kể chuyện chi hay không?
- Khối! Nhưng thú nhất là sáng mô hắn cũng gặp một toán Vệ Quốc Ðoàn mà chỉ nhỏ bằng tụi ta thôi, nhiều đứa còn nhỏ hon. Toán ni chạy dọc theo bờ sông, tập quân sự một hai, tập ném lựu đạn, bắn súng...vui ghê lắm. Hắn đứng coi mà thèm rệu cả nuớc miếng!
- Vệ Quốc Ðoàn mà chỉ nhỏ bằng tụi ta thì đánh tây răng được? Hay là hắn nói láo?
- Răng không đánh được? - Thằng bán đậu phụng rang vênh mặt lên nói. - Chánh phủ cứ thử lấy tau vô Vệ Quốc Ðoàn coi, có chết cha tụi Tây không?
Thằng bán kẹo gừng mắt lác cười ngạo:
- Lấy mi vô Vệ Quốc Ðoàn thì thà lấy tau còn hơn! Tau chẳng cần súng đạn gì hết - Nó rút trong túi quần ra một cái súng cao su, kéo căng hai sợi chun. - Có cái ni, tau nhắm trúng mắt tụi Tây, tụi Vê-giê* tau nẻ. Cha con hắn tha hồ mà mù.
* *
Toán "Vệ Quốc Ðoàn con nít" lúc này đang nối nhau thành hàng một, rầm rập lên phía cầu Ðông Ba cũ.
Chạy dẫn đầu là anh Vệ Quỗc Quân chỉ huy. Anh trạc hai ba, hai bốn tuổi, dáng người tầm thước, vai rộng ngực nở, tóc búi kiểu móng lừa, cổ đeo lủng lẳng chiếc còi mạ kền sáng loáng. Sáng hôm đó trời lạnh cắt ruột, anh chỉ mặc độc chiếc may ô trắng và quần đùi xanh ống bó sát đùi.
Còn toán trẻ ăn mặc tạp nham. Quá nửa mặc áo quần Vệ Quốc Ðoàn sửa ngắn lại. Nhiều đứa bơi trong những chiếc áo trấn thủ rộng như áo thụng tế. Có đến hơn chục đứa nai nịt "xanh-tuya-rông" da, có khoá đồng to tướng và đeo cả bao đạn. Có trời biết được trong những cái bao đạn sứt sẹo, méo mó ấy, chúng ních nhét những gì!
Dãy phố ven đường cửa đóng then cài kín mít. Đồng bào khu vực này đã tản cư hết từ đêm đầu kháng chiến. Hàng chục con chó lạc mất chủ, họp thành đàn chạy loăng quăng trên đường, tranh nhau ngửi bới các đống rác kiếm ăn. Con nào con ấy hai hông lép kẹp, xương sườn nhô cao như vừa nuốt hàng chục chiếc cạp rổ vào bụng.
Khi toán trẻ rầm rập chạy qua, lũ chó sợ hãi, tán toạn. Chúng chuồn hết vào các hẻm phố, chõ mõm ra sủa váng. Bọn trẻ dậm chân, vỗ đùi, doạ lại lũ chó.
Con đường ồn ào hẳn lên trong chốc lát.
Lên đến cầu Đông Ba cũ, anh chỉ huy thổi một hồi còi dài lảnh lót. Toán trẻ dừng lại. Nhiều đứa nghịch ngợm vờ mất đà đâm chúi vào lưng đứa chạy trước...
- Tập hợp ba hàng dọc! - Anh chỉ huy quay lại dõng dạc hô.
Toán trẻ lập tức trở lại trật tự. Loáng một cái chúng đã sắp thành đội hình ba hàng dọc, với tư thế rất nghiêm chỉnh.
- Điểm số!
Đáp lại tiếng hô anh chỉ huy, những đứa dừng ở hàng dọc bên trái, nối tiếp nhau đếm to như hét : Một! Hai! Ba! Bốn! Năm! Sáu! Bảy! Tám! Chín! Mười!...Hết.
- Ơ...ơ...Dạ chưa hết...Mười một! - Một đứa đứng lẻ ra một mình ở cuối đội cuống quýt kêu toáng lên. - Báp cáp anh, em bị lẻ hàng ạ!
- Lẻ là thế nào? - Anh chỉ huy hỏi vặn lại, như hoàn toàn không tin cái chuyện vô lý đó. - Toàn đội chúng ta có ba mươi em, tập hợp thành mười hàng ba, làm sao lại lẻ được.
- Dạ rứa mà em bị lẻ thiệt ạ. - Thằng bị lẻ hàng nhớn nhác nhìn ngược nhìn xuôi, nhăn nhó, bối rối trả lời.
- Các em kiểm tra lại xem có hàng nào đứng hai không? - Anh chỉ huy như vẫn tin chắc rằng đây chỉ là trò nghịch ngợm của bọn trẻ mà thôi.
Nhưng cả đội sau khi nhốn nháo kiểm tra hàng ngũ, đồng thanh trả lời:
- Báo cáo anh, hàng mô cũng đứng đủ ba cả ạ!
Anh chỉ huy rời chỗ đứng, đi dọc xuống phía dưới, đưa mắt kiểm tra từng hàng một, miệng lẩm bẩm:
- Quân số dội đang ba mươi bỗng hoá ra băm mốt là nghĩa lý gì?
Nhưng chính anh cũng đâm ngơ ngác. Đứng là hàng nào cũng đứng đủ ba và cuối đội vẫn lẻ ra một đứa.
Anh liền đi ngược trở lên, soát kỹ lại lần nữa. Kết quả anh lôi được một thằng lạ hoắc, không biết từ đâu chui ra đứng lọt vào giữa đội.
Cả đội trợn tròn mắt kêu lên: Ủa!
Hai đứa đứng cùng hàng với thằng bé lạ hoắc này, há hốc mồm vì quá sửng sốt:
- Uơ trời! Rứa mà từ nãy tới chừ tớ cứ tưởng hắn là thằng Hoà-đen! Nước da hắn cũng đen thui có khác chi anh Hoà-đen nhà mình mô các cậu!
Cái đứa có tên là Hoà-đen đứng cách đó hai hàng, nghe vậy liền cau mặt, nói với lên:
- Lầm, lầm cái chi lạ rứa? Tớ đen nhưng chỉ đen vừa vừa!...
Một đứa đứng bên trái vẻ mặt liến láu, đưa tay vuốt vuốt ngực Hoà-đen ngoác miệng ra cười:
- Đưa ta vuốt bớt cục tự ái xuống cho. Hề, hề, hề...đen vừa vừa hay đen thui thì cũng là họ "cột nhà cháy" cả thôi mà.
Thằng bé lạ hoắc chui bừa vào hàng ngũ đội, chính là cái thằng luồn sau lưng anh lính gác, tót qua cầu Bao Vinh lúc nãy. Nó cũng trạc tuổi Hoà-đen, vóc dáng cũng sàn sàn, nhưng nước da, của đáng tội, có đen hơn tý chút, Hoà-đen tự ái kể cũng phải. Cách ăn mặc nó cũng kém xa Hoà-đen. Hoà-đen diện quân phục với áo trấn thủ rộng như áo tế, còn thằng này đánh độc cái áo cộc nâu ngắn hở cả rốn với cái quần đùi xanh bạc phếch, đít vá hai miếng to tướng.
Anh chỉ huy nắm chặt cánh tay nó kéo lại sát trước mặt, hỏi to gần như quát:
- Em ở đâu? Tên là chi? Sao dám cả gan chui bừa vào hàng ngũ Vệ Quốc Đoàn ?
Thằng bé sợ hãi cúi mặt nhìn xuống đường, bàn chân di di một hòn đất, trả lời lý nhí trong cổ họng, chẳng ai nghe được gì. Anh chỉ huy sốt ruột không muốn mất thì giờ thêm, bỏ tay nó ra, nghiêm mặt nói:
- Em phải ra ngay khỏi khu vực này. Đây là khu vực Mặt trận em nhớ chưa?
Anh quay lại nói với cả đội:
- Các em thật lơ là, vô ý thức. Có một kẻ lạ mặt chui vào hàng ngũ mà chẳng hay biết gì hết!
Cả đội thì thào hỏi nhau:
- Không biết hắn lọt vô giữa đội mình lúc mô mà tài rứa hè?
- Chắc cái lúc tụi mình còn mải trêu chọc lũ chó.
- Thằng ấy chui cổng rạp hát rạp xiếc chắc bợm phải biết!
- Tớ cho hắn chơi cú ấy được. Tớ là tớ phục đó! - Cái đứa có bộ dạng liến láu vừa trêu chọc Hoà-đen lúc nãy, vừa nói vừa gật gật đầu.
2.
Anh chỉ huy thổi một hồi còi dài, cắt đứt tiếng thì thào bàn tán. Anh đứng nghiêm, nói:
- Anh báo trước để các em biết, khoa mục tập hôm nay hơi khó, đòi hỏi các em phải gan dạ, bình tĩnh. - Anh cao giọng hỏi to. - Trong đội ta có em nào chưa biết bơi, đưa tay lên anh xem?
Không một đứa nào giơ tay. Trẻ con sinh ra và lớn lên bên bờ sông Hương, không biết bơi lặn là chuyện hiếm.
- Tốt lắm. - Anh gật đầu. - Khoa mục tập hôm nay là nhảy từ trên thành cầu xuống sông. - Anh đưa tay chỉ lên cái thành cầu sắt sơn đen, ngay phía trên đầu bọn trẻ.
Cả đội nhìn theo tay anh chỉ. Tất cả cùng rụt vai, lắc đầu lè lưỡi:
- Đội trưởng chơi cú khoa mục ni coi bộ gay go đây!
- Cao đến ba mét chứ không ít!
- Ba mét răng được! Xoàng xoàng cũng phải năm mét!
Bọn trẻ nhớn nhác hết nhìn xuống sông lại nhìn lên thành cầu, ước lượng chiều cao sắp phải nhảy.
Cả đội nhảy qua các bậc đá xây, chạy lên cầu. Vẫn không quên nghịch ngợm, chúng dẫm chân thật mạnh, làm cho ván cầu kêu rầm rầm.
Mưa phùn đã tạnh, nhưng gió lạnh vẫn thổi từng cơn không ngớt. Bọn trẻ cởi áo quần vắt lên thành cầu. Tất cả rét run, nổi hết da gà. Chúng đứng nép sát vào nhau, miệng xuýt xoa như ăn ớt, hai tay vòng lên ôm cổ, lưng cong lại như lưng tôm.
Đội trưởng trèo đứng lên cái cột bê tông giữa cầu, quay lại nhìn cả đội, nghiêm mặt nói:
- Tất cả các em đứng thẳng lên! Bỏ hai tay ra khỏi cổ. Hiên ngang lên anh xem nào? Đàng hoàng là những Vệ Quốc Quân sắp ra trận giết giặc cứu nước mà sợ gió, sợ lạnh à! Thế thì trước bom đạn như mưa của giặc, các em sẽ còn sợ đến mức nào? Các em có muốn mang tiếng là những chiến sĩ hèn nhát không?
- Không ạ! Không ạ! - Cả đội nhao nhao trả lời. Tất cả lập tức đứng thẳng người, miệng thôi xuýt xoa. Có đứa còn làm bộ hiên ngang, ngực ưỡn ra, bụng thót lại, tay khuỳnh khuỳnh chống nạnh. Nhìn bộ điệu chúng, anh chỉ huy mặt đang nghiêm thế mà phải bật phì cười. Anh rất hiểu, đối với các chiến sĩ nhỏ tuổi của mình, không có lời động viên nào hiệu quả bằng chạm đến lòng tự trọng. Anh nói tiếp:
- Khoa mục hôm nay tuy khó nhưng các em phải gắng tập cho được. Trong hoàn cảnh địa hình chiến đấu của thành phố Huế chúng ta, rất có thể các em sẽ gặp trường hợp phải nhảy từ những vị trí rất cao xuống sông. Do đó, chúng ta cần phải tập trước cho quen. Các em chú ý, xem anh nhảy thị phạm rồi các em tiếp tục nhảy theo sau.
Anh quay mặt ra sông, đứng thẳng tắp trên cột trụ như pho tượng trên bệ, hai cánh tay đưa thẳng trước mặt, đôi cẳng chân vạm vỡ săn chắc những bắp thịt, khẽ nhún nhún rất dẻo. Anh tung người lên cao. Thân hình anh như một mũi tên bay chênh chếch xuống sông, cắp phập vào làn nước xanh ngăn ngắt, lăn tăn gợn sóng. Cả đội chồm hết lên thành cầu nhìn theo. Chúng chặc chặc lưỡi trầm trồ:
- Đội trưởng "lông-giông" * tuyệt đẹp bay hè!
- Còn phải nói trước đây anh từng làm "săm-pi-ông" * bơi của Huế mình mà!
Dưới sông, đội trưởng đã trồi đầu khỏi mặt nước. Anh đưa tay vuốt vuốt mặt, nhìn lên cầu giục:
- Nào các em nhảy đi! Em nào bị chuột rút đã có anh cứu.
Bọn trẻ đứa nọ đùn đứa kia:
- Cậu nhảy trước đi!
- Thì cậu nhảy trước đi!
- Thành cầu chật ri đứng nhảy một lần răng được!
Nhưng rồi chẳng đứa nào dám nhảy trước. Mấy đứa trèo lên thành cầu lại tụt xuống, lè lưỡi:
- Ngợp quá! Cứ như là đứng trên nóc lầu chợ Đông Ba mà nhảy xuống ấy!
- Đội trưởng bày ra chi ra cái khoa mục gay go ri không biết!
- Xê ra, xê ra! - Cái thằng có bộ mặt liến láu ban nãy trêu chọc Hoà-đen đưa tay gạt các bạn ra hai bên, làm điệu bộ hăng hái trèo lên thành cầu. - Không cậu mô dám nhảy thì để tớ nhảy trước cho coi, rồi gắng mà bắt chước nghe! Khó cóc chi mà cứ kêu là khó!
- A, a, anh Tư-dát lại dám xung phong nhảy trước! Chuyến ni e trời sập cái rầm mất thôi. - Cả đội reo ầm lên.
- Anh Tư-dát chuyến ni nhảy được, nhất định tụi mình phải đổi tên là Tư-gan.
- Nhưng gan chi mới được chứ?
- Gan thỏ!
Mặc cho các bạn trêu chọc, Tư-dát mặt vẫn phớt tỉnh. nó đã đứng thẳng lên được trên cái trụ đội trưởng vừa đứng, hai đầu gối va nhau lập cập. Nó nói với các bạn, đầu không ngoái lại:
- Anh em mở to mắt mà coi tài lão gia!
Tư-dát làm điệu bộ in hệt đội trưởng. Hai tay cũng đưa thẳng ra đằng trước, bộ giò như hai ống sậy cũng nhún nhún khá dẻo. Nhưng đội trưởng chỉ nhún vài cái, còn nó thì nhún liền tù tì hàng chục cái, làm các bạn nhìn theo hoa cả mắt.
Tư-dát bất thình lình hô to.
- Hai...ba! Này!
Nó hô dõng dạc đến nỗi làm cho cả đội tưởng là nó đang lao xuống sông. Nhưng bất ngờ nó ngồi thụp xuống cột cầu, nghẹo đầu, méo mồm, trợn mặt làm trò hề. Cả đội bị mắc lỡm ôm bụng cười bò. Hình như cả đội đã quá quen với những trò đùa của Tư-dát.
Đội trưởng chạy lên cầu, hỏi to:
- Em nào dám xung phong nhảy trước làm gương cho cả đội anh xem nào?
Cả đội thin thít đưa mắt nhìn nhau. Cái vinh dự "nhảy trước làm gương cho cả đội" xem ra đứa nào cũng thèm. Nhưng cứ nhìn từ thành cầu xuống sông, cặp dò chúng đã bủn rủn.
Đội trưởng gặng hỏi:
- Không em nào dám nhảy à?
- Dạ em! Em xin nhảy!
Cả đội quay lại. Thật không ngờ. "Em xin nhảy" lại chính là thằng bé lạ hoắc chui bừa vào hàng ngũ đội lúc nãy. Nãy giờ nó vẫn chưa chịu đi mà lén trèo lên cầu, đứng co ro ở lề cầu bên kia, tò mò theo dõi buổi tập.
Với vẻ sợ sệt, lo lắng, vừa nói nó vừa hấp tấp bước sang lề cầu bên nay. Không đợi đội trưởng có đồng ý hay không, nó bíu tay trèo phắt lên thành cầu.
- Ai mượn mà cũng làm trạng!...
- Tau đố dám nhảy!
- Chắc lại nhảy kiểu Tư-dát chớ chi!
Như không thèm để ý đến tiếng xì xào khích bác của cả đội, nó đứng thẳng trên thành cầu, quay lại nói với đội trưởng, giọng khẩn khoản:
- Em mà nhảy được, anh cho em vô đội với anh hỉ!
Nghe giọng nói và nhìn vẻ mặt nó, cả đội liền hiểu ngay nó sẽ nhảy thật! Chúng bỗng thấy xấu hỏ và tự ái ghê gớm. Để cho một thằng không biết từ xó xỉnh nào chui ra, đòi nhảy trước làm gương thì thật xấu hổ cho cả đội!
Còn thằng bé không kịp biết đội trưởng có ưng thuận hay không, quay mặt luôn ra sông, nhún khẽ hai chân một cái, và bay thẳng xuống sông. Đội trưởng buột miệng khen:
- Chú này nhảy khá lắm!
- Ui trời! - Nhiều tiếng kêu sửng sốt. - Nó nhảy mà vẫn để nguyên cả quần áo tề!
Mặt sông xanh biếc. Lăn tăn sóng, đón lấy nó, nhẹ nhàng, thân thuộc, chứ không ầm ĩ như đón những anh mới tập nhảy. Thân hình nó uốn cong, luồn sâu xuống nuớc và nổi lên rất nhanh. Nó lắc lắc đầu giũ nước, khoát tay bơi lượn vòng, ngửa mặt nhìn lên cầu và bất ngờ toét miệng cười. Cả đội ức quá, đau giẫy lên như bất thình lình bị ai quất roi mây vào mông.
Thế là quên hết sợ hãi và chẳng cần ai dục, chúng ào ào trèo lên thành cầu thi nhau hét to:
- Hai..ba...này! - Rồi lao ầm ầm xuống sông.
Trên cầu lúc này chỉ còn trơ lại một mình Tư-dát. Vẻ liến láu đã biến đi đâu hết. Nó hết nhìn xuống sông lại nhìn lên thành cầu, điệu bộ luống cuống như gà mắc tóc. Đội trưởng nhìn nó mỉm cười, nhẹ nhàng hỏi:
- Thế nào? Chẳng lẽ em định đeo mãi cái tên Tư-dát sao?
Tư-dát vụt đứng thẳng người, nhìn đội trưởng nói to:
- Dạ không! Lần này em nhất định đổi được cái tên Tư-gan-cóc-tía! Rồi nó trèo phắt lên thanh cầu.
Và chẳng cần nhún nhiếc gì hết, nó nhắm mắt nhắm mũi, nhảy bừa xuống sông.
Bọn trẻ đang bơi lội ì oạp, hò nhau tránh dạt ra hai bên để Tư-dát khỏi nhảy trúng lên đầu. Chúng reo vang cả mặt sông:
- A...a...Anh Tư-dát nhảy dù! Anh Tư-dát nhảy dù!
Tư-dát nhảy không chúc đầu mà hai chân xuống trước. Nó rơi đánh ùm như quẳng xuống sông cả hòn đá tảng. Nước vọt lên đến gần thành cầu. Nó chìm nghỉm khá lâu mới thấy nổi lên. Các bạn bơi xúm lại quanh nó, mừng rỡ nói:
- Ui chao! Cậu làm tụi tớ hết cả hồn...Tưởng cậu đứt hơi ở luôn dưới đó.
Tư-dát thở lấy thở để, khạc khạc nước, hổn hển nói:
- Vừa lặn xuốn đáy sông tớ gặp ngay một anh cá gáy to bằng hai bàn tay xoè. Anh ta lượn qua trước mặt tớ, quệt cả đuôi vô trán. Tớ rượt theo chụp luôn. Chụp năm sáu cú liền, một cú trúng đuôi, một cú trúng vây, hai cú trúng đầu! Rứa mà anh ta vùng thoát được hết! Tiếc quá, không thì trưa ni đội ta được bữa cháo cá lu bù.
Nhiều đứa bị sặc nước phì cười.
3.
Đội trưởng thổi còi báo xong buổi tập. Cả đội bơi vào bờ, rầm rập chạy lên cầu, vơ vội quần áo mặc vào người. Lúc này tất cả mới thấm lạnh. Đứa nào đứa nấy run cầm cập. Chúng nghiêng đầu nhảy cho nước trong tai chảy ra. Ván cầu kêu rầm rầm.
Đội trưởng hô đội tập hợp ngay trên cầu, nhận xét buổi tập. Riêng thằng bé lạ hoắc chui bừa vào hàng ngũ đội, một mình đứng nép vào lề cầu bên kia. Nó cởi quần áo ướt sũng, vắt khô nước rồi giũ phơi lên thành cầu.
Đội trưởng hỏi:
- Em ban nãy đâu rồi?
- Dạ, em đây a. - Nó cầm cái quần cộc đang vắt dở hấp tấp chạy sang, đứng khép nép trước mặt đội trưởng.
Cả đội trố mắt nhìn nó, phá lên cười. Nhiều tiếng xì xào:
- Cậu ni vô phép quá! Ai lại đi ở lỗ ở truồng mà nói chuyện với cấp chỉ huy!
Lúc này nó mới chợt nhớ ra. Nó giũ giũ cái quần ướt xỏ chân vào. Nhưng vì vội và cuống, chú xỏ hai chân vào một ống quần, và ngã chổng kềnh xuống ván cầu. Đội trưởng cũng phải phì cười, cúi xuống đỡ nó dậy, ôn tồn nói:
- Không sao, cứ ở truồng thế cũng được. Đừng mặc quần áo ướt mà lạnh. Anh quay sang hỏi cả đội:
- Có em nào mặc hai áo hai quần, cởi cho em này mượn bớt một.
Lập tức có hơn chục em cởi áo, quần chạy lại dúi vào tay nó.
Nó đứng sững, đưa cả hai tay ôm đầy một ôm áo quần, mặt ngẩn tò te. Tư-dát nhanh nhẹn bước ra khỏi hàng, đến ôm đỡ quần áo cho nó, vừa cười vừa nói:
- Để lão gia giúp cho một tay, chứ coi bộ dạng chú mi chưa quen diện loại "com- lê" hảo hạng ni mô.
Tư-dát vắt cả đống áo quần lên thành cầu: Cầm từng chiếc một ướm thử vào người thằng bé. Chiếc nào coi bộ không vừa, Tư-dát vo viên ném trả lại đứa cho mượn. Chọn hết cả ôm mới được hai cái áo và một cái quần tạm vừa người chú. Tư-dát nói, giọng anh nạt yêu em:
- Mặc ngay bộ "com- lê" ni vô không thì lạnh sưng phổi chết bây giờ. Ai bảo nghịch cho lắm!
Tư-dát vừa giúp nó mặc áo quần vừa méo mồm trợn mắt làm trò hề, chọc cười các bạn.
Khi áo quần coi bộ đã tươm tất, đội trưởng hỏi nó:
- Em tên là gì?
- Dạ, em tên Mừng.
- Em mấy tuổi?
- Dạ, mười hai.
- Nhà em ở mô?
- Dạ, ở dưới Bao Vinh tê...
- Rứa cha mẹ em làm nghề chi?
Mừng ngắc ngư một tý, rồi lý nhí trả lời:
- Dạ...em không có cha mẹ...
Đội trưởng chăm chú nhìn em, ngạc nhiên hỏi.
- Không có cha mẹ thì em ở với ai?
Mừng cúi mặt như cố tránh cái nhìn của anh, giọng ngập ngừng:
- Dạ... em đi ở giữ em,...
- Chủ nhà hay đánh chửi em lắm phải không?
- Dạ...
- Thế em có biết đội này làm công việc chi không mà xin nhập?
Mừng ngây người nhìn anh.
- Dạ...dạ...làm...làm...- Chú đưa mắt nhìn cả đội, như muốn nói: "Các anh bày giúp cho tui với"
Nhiều em bỗng thấy thương hại Mừng, thì thào nhắc:
- Làm trinh sát...Làm trinh sát...
Đội trưởng đưa tay ra hiệu không được nhắc.
Như mở cờ trong bụng, Mừng vội vã đáp:
- Dạ, làm khinh sát!
- Làm chi?
- Dạ làm khinh sát ạ.
Trong hàng có tiếng càu nhàu:
- Nhắc một đàng quàng một nẻo. Làm khinh sát là làm cái cóc khô chi?
Trên môi đội trưởng thoáng nụ cười. Anh nói:
- Thôi được. Nếu quả đúng là em không còn cha mẹ nữa, thì anh đồng ý cho em gia nhập đội. Đội chúng ta không phải làm khinh sát, mà trinh sát. Đội Thiếu niên trinh sát Trung đoàn Trần Cao Vân. Công việc của người đội viên trinh sát, sau này em sẽ được học. Có điều chắc chắn nhất là nay mai đội chúng ta sẽ được ra Mặt trận cùng với các anh lớn, đánh Tây. Em có thích đánh Tây không?
Mừng mắt sáng lên, hăm hở đáp:
- Dạ thích lắm!
- Tại sao thích?
Câu hỏi cắc cớ này mới càng khó trả lời. Mừng ngập ngừng ấp úng mãi. Rồi bất ngờ, chú ngẩng nhìn đội trưởng trả lời khá rành rọt:
- Dạ...dạ...vì tụi Tây hay đá đít người mình.
Cả đội trợn tròn mắt nhìn nó, cứ ngờ là nó nói giỡn. Nhiều em đỏ bừng mặt vì cố nhịn cười. Đội trưởng cũng cố nhịn cười, hỏi:
- Thế em đã trông thấy Tây đá đít ai bao giờ chưa?
- Dạ có chớ! Ở xóm em có bác Húng là cha cậu Ngò chơi thân với em. Bác ấy làm nghề kéo xe. Một bữa, có thằng Tây râu ria xồm xoàm, to chình ình như con bò, thuê xe bác ấy từ ga lớn đến cầu An Cựu mà chẳng trả được cho bác ấy một xu. - Nét mặt Mừng lộ vẻ tức tối - Đã rứa hắn lại còn đá giày vô đít bác ấy, chửi "cô-soong, cô-soong"* bác ấy ngã dúi, va đầu vô cột điện, loã máu.
Bác ấy phải nằm liệt giường, không đi kéo xe được. Rứa là cả nhà cậu Ngò bị đói...
Đội trưởng quay sang hỏi cả đội:
- Theo các em, Mừng trả lời đúng hay sai?
- Dạ, sai, sai!
- Sai toét!
- Em nào trả lời đúng, thử nói anh nghe xem nào?
Một chú đứng ở hàng thứ hai, giơ tay rồi đứng nghiêm, trả lời như đọc bài học thuộc lòng:
- Em đánh Tây vì chúng là bọn thực dân cướp nước. Hơn tám mươi năm chúng đã đô hộ nước ta, gây bao cảnh lầm than đói khổ...
Đội trưởng ngắt lời.
- Em định đọc hết cả bài học chính trị vừa học đêm qua có phải không? Theo anh, em Mừng trả lời không những không sai mà còn rất hay! Tụi Tây là một tụi hết sức tàn ác và láo xược. Đã đi xe quỵt lại còn đá đít cả người kéo xe! Các em phải biết lấy đó làm điều căm tức để nay mai ra trận càng thêm dũng cảm, hăng hái cùng với các anh nện chúng thật đích đáng để trả thù cho bác Húng và còn biết bao nhiêu đồng bào ta bị chúng ức hiếp. Chúng ta nhất định phải tống cổ hết chúng nó về nước, để người Việt Nam ta không còn bị chúng hành hạ nữa.
Mừng mở to mắt nhìn đội trưởng có vẻ như chưa dám tin là anh khen mình thật. Còn cả đội, sau khi nghe đội trưởng nói rõ thêm ý nghĩa câu trả lời của Mừng, đều cảm thấy tức tụi Tây thực dân ứa máu!
- Cố tổ chúng nó chứ! - Nhiều em thầm rủa. - Đã đi xe quỵt không biết nhục lại còn chửi người ta "cô-soong" với đá đít người ta làm loã đầu chảy máu!
Đội trưởng hỏi Mừng:
- Thế em có thể làm được gì để đánh Tây?
- Dạ, bơi ạ. - Mừng hăm hở trả lời.
- Tốt lắm, tài bơi lặn của em thì anh và các bạn đã được trông thấy rồi đấy. Ngoài bơi ra em còn biết làm gì nữa?
- Dạ trèo cây ạ! Cây cao mấy em cũng trèo được!
- Rất tốt, trèo leo là một môn rất cần cho người chiến sĩ trinh sát.
- Dạ nấu cơm ạ!
- Nấu cơm cũng rất cần. Mỗi người chiến sĩ đều phải biết tự nấu lấy ăn lúc cần thiết...
- Dạ..dạ em còn biết bồng em ạ...
- Hơ hơ hơ... - Tiếng Tư-dát cười to. - Hắn bồng em giỏi rứa, nay mai ra trận hễ bắt được thằng tù binh mô là giao ngay cho hắn bồng về nộp cấp chỉ huy!
Mừng tưởng Tư-dát nói thật, lo lắng nói với đội trưởng:
- Nhưng thằng Tây to rứa em sợ bồng không nổi...
- To cũng phải bồng! To cũng phải bồng! Ai khiến cậu khai là biết bồng em làm chi! - Cả đội cười ngất, nhao nhao hét to trêu Mừng.
Đội trưởng xua xua tay, mặt nghiêm lại nói:
- Các em không nên cười. Người chiến sĩ trinh sát cần phải biết bồng em và làm bất cứ việc gì để giúp đỡ nhân dân.
Mừng được đội trưởng khen, đã trở nên hoạt bát mạnh dạn hơn. Nó nhăn nhăn trán, cố nhớ xem mình còn có thể làm được gì nữa. Nó mang máng đoán rằng, nếu mình càng làm được nhiều việc thì cấp chỉ huy càng dễ cho nhập đội.
- Hết rồi phải không? - Đội trưởng đặt tay lên đầu Mừng mỉm cười hỏi.
- Dạ...dạ còn...
- Còn thì kể đi!
- Dạ, chọi dế ạ.
Cả đội lần này phải bò lăn ra ván cầu mà cười. Tư-dát gò lưng ôm bụng cười ngắt ngắt không thành tiến, chảy cả nước mắt nước mũi. Nó nói đứt quãng qua tiếng cười:
- Ối, ối, ối...hắn làm tớ đến đứt ruột mà chết mất thôi các cậu ơi! Ối, ối, ối...
Đội trưởng cũng cười ngất, xoa đầu Mừng hỏi:
- Chú mình chọi dế có khá không?
- Dạ nhứt hạng ạ! Dế em đã lên đài là hạ đo ván hết tất cả dế của tụi bạn em trong xóm!
- Thế thì cho em được sắp vào hàng. Bắt đầu từ giờ phút này trở đi, em được chính thức công nhận là đội viên đội Thiếu niên trinh sát Trung đoàn Trần Cao Vân. Em nhớ chưa?
- Dạ, nhớ rồi ạ! - Mừng đáp như reo, rồi chen luôn vào đứng ở giữa hàng. Có lẽ nó cho rằng có đứng chính giữa như vậy mới chắc chân trong đội.
4.
Doanh trại đội Thiếu niên trinh sát là một ngôi lầu hai tầng kiểu biệt thự, xung quanh có hàng rào sắt bao bọc. Hai cánh cổng sắt đồ sộ mở ra trước cái sân rộng, rải sỏi. Đằng sau là một khu vườn lớn, um tùm những tán cây cổ thụ.
Về đến doanh trại, đội trưởng gọi Mừng vào phòng làm việc. Anh hỏi rõ họ tên nó để ghi vào sổ quân tịch.
- Em họ chi?
- Dạ...dạ em tên Mừng.
- Tên thì anh biết rồi, anh muốn hỏi họ em kia?
Mừng đứng ngẩn nhìn anh ngắc nga ngắc ngứ một lúc rồi đáp:
- Dạ...dạ họ chi chi ấy...
- Họ chi chi là họ gì mới được chứ? - Đội trưởng lạ lùng nhìn nó. - Trần hay Lê, hay Nguyễn, hay Đặng.
Miệng hơi há ra, nó hết nhìn đội trưởng lại nhìn cuốn sổ to giấy trắng mở rộng trước mặt anh. Mỗi lần có ngọn gió lạnh từ ngoài cửa sổ lùa vào, các trang giấy phần phật như cánh con chim trắng vỗ muốn bay.
- Thế nào? Em đã nhớ ra họ gì chưa?
Mừng dựa ngực vào mép bàn, mặt nhăn nhó thiểu não. Nó có vẻ nghĩ ngợi lung lắm.
- Dạ...dạ em không có họ, - nó đột ngột nói.
- Sao lại không có họ được hở chú mình? Ai có tên mà chẳng có họ?
- Dạ, em không có họ thiệt mà... - giọng Mừng gần muốn khóc. - Cả xóm em, ai cũng gọi em là thằng Mừng, chẳng ai gọi họ em cả...
Lý do không có họ của nó lạ đời chưa! Mấy em đang đứng quanh đó đều bụm miệng cố nhịn cười. Tư-dát cười rung cả người, chạy vụt ra khỏi phòng, rầm rĩ loan báo:
- Các cậu ơi, các cậu ơi! Vô mau buồng của đội trưởng mà coi thằng đội viên mới của đội ta không có họ! Không Trần, không Lê, không Nguyễn, không Đặng, không có cóc khô chi hết a!
Gần nửa đội đang chơi trước sân, bỏ hết các trò chơi, xúm quanh Tư-dát hỏi:
- Hắn không có họ thiệt à? Cậu chỉ bịa thôi?
- Tớ mà bịa thì tớ chết không kịp ngáp! Cậu mô không tin cứ chạy vô mà coi.
- Nhưng tại răng lại không có họ được?
- Tại...tại cả cái xóm Bao Vinh ai cũng gọi hắn là thằng Mừng, không thấy ai gọi họ hắn cả! - Tư-dát ôm bụng cười tưởng muốn đứt hơi. - Hắn nói kể cũng có lý! Đi ra đường, gặp ai họ: Ê, Mừng! Chứ không thấy ai gọi: Ê, Lê Mừng, Ê, Trần Mừng hay Ê, Đặng Mừng, thì có tài thánh cũng không biết được họ mình là chi!
Thế là tất cả xô nhau chạy rần rần về phía buồng đội trưởng ngồi làm việc. Tư-dát vừa chạy như ngựa tế vừa reo:
- Mau lên các cậu ơi! Mau lên! Chắc chắn đang còn nói nhiều câu tức cười nữa, không nghe được thì tiếc lắm.
Chúng kéo vào đứng vây kín bàn giấy của đội trưởng, vòng trong vòng ngoài. Tất cả chăm chăm nhìn vào miệng Mừng, hồi hộp chờ nó nói thêm những câu tức khác.
Mừng thì vẫn một mực:
- Em nói thiệt... em không có họ...
Gặng hỏi mãi không được, cuối cùng đội trưởng đành phải ghi cụt lủn độc một chữ: Mừng vào cột "Họ và tên". Anh ghi thêm vào cột "bị chú": "Em này lỡ quên mất họ". Rồi anh duyệt lại danh sách các tiểu đội các tổ, xem nên bố trí chú đội viên mới này vào tổ nào. Du - tiểu đội trưởng tiểu đội một, cúi xuống nói thầm vào tai đội trưởng:
- Anh cho Mừng vào tiểu đội em. Tiểu đội em còn thiếu một...
Đoàn - tiểu đội trưởng tiểu đội hai, đứng ở vòng ngoài, chôm người, vít vai mấy bạn đứng trước xuống, nói chen vào:
- Anh Du khôn nghe! Đề nghị đội trưởng bố trí Mừng vào tiểu đội em. Tiểu đội em còn thừa chỗ nằm.
- Được, được! - Đội trưởng gật gật đầu nói - Để anh còn xem đã.
Mấy phút sau anh ngẩng lên nói với Mừng:
- Anh bố trí em vào tiểu đội ba, tổ bốn, do em Vịnh làm tổ trưởng.
Tư-dát tặc tặc lưỡi:
- Tiếc quá, tiếc quá! Đội trưởng mà cho hắn vô tổ tớ thì tớ chỉ cười cũng đủ no, chẳng cần cơm nước chi hết! - Nó ghé vào tai Mừng thì thầm xúi:
- Cậu xin với đội trưởng về tổ sáu của tớ hơn. Tổ tớ vui nhất đội. Đừng dại mà ở tổ bốn của Vịnh-sưa. Cậu ấy là kỷ luật sắt gớm lắm.
Mừng vẫn dựa ngực vào mép bàn đứng im có vẻ chẳng hiểu đầu cua tai nheo ra sao hết. Tư-dát huých huých cùi chỏ vào sườn Mừng giục:
- Cậu xin đi, xin ngay đi!
Vừa lúc đó đội trưởng ngẩng lên gọi:
- Em Tư!
- Có mặt! - Tư-dát rập hai gót chân nghe độp to như tiếng gót giày đinh rập vào nhau, đứng nghiêm ngay lại.
- Em chạy đi gọi em Vịnh vô đây cho anh.
- Có mặt! - Tư-dát đáp to vang cả gian buồng. Nó làm động tác đằng sau quay rất đúng, rất đẹp và nghiêm chỉnh. Và cũng rất bất ngờ, nó giật cái mũ bêrê tím đội trên đầu, tung lên cao đến tận trần nhà, rồi nhảy phốc lên với điệu bộ người giữ gôn bắt bóng, bắt lấy cái mũ, ôm ghì vào ngực và chạy biến ra khỏi phòng.
5.
Vịnh - tổ trưởng tổ bốn, đang ngồi cạnh bể nước trước cửa nhà bếp, nhặt rau giúp các chị cấp dưỡng. Nó trạc mười bốn tuổi, mặc bộ quân phục màu đất, sửa ngắn lại, với chiếc áo trấn thủ rộng thùng thình. Ngang lưng thắt cái thắt lưng da to bản, một bên hông đeo cái bao đạn da cũ kỹ, méo mó. Nhưng cái khoá thắt lưng và cái nút cài bao đạn bằng đồng được đánh bóng vàng choé; như vàng thật. Đặc biệt hai bàn tay em chẳng có chút gì là bàn tay trẻ con, chúng to, thô, lòng bàn tay đầy chai, và nhiều vết rạn đen trên các móng tay. Đó là bàn tay của những người từng quen công việc nặng nhọc.
Hai hàm răng Vịnh thưa rếch như răng cá voi, nên các bạn trong đội gọi em là Vịnh-sưa.
Cuộc đời của Vịnh-sưa cũng là cuộc đời của khá nhiều đội viên khác trong đội...
Mồ côi cha từ nhỏ, mẹ bỏ đi lấy chồng. Người bác ruột đem nó về nuôi. Bác làm thợ nguội ở nhà máy đèn Huế. Gia đình bác mỗi ngày một thêm túng bấn vì quá đông con, với đồng lương chết đói. Đang học lớp tư, nó phải thôi học ở nhà bồng em, thổi cơm cho bác. Mới chín, mười tuổi đầu, nó đã phải làm việc quần quật suốt từ sáng đến tối. Người bác gái ác nghiệt thường xuyên đánh đập nó chẳng khác gì đứa ở. Bác trai đi làm suốt ngày nên không thấu được hết tình cảnh vợ mình hành hạ đứa cháu nhỏ mồ côi... Còn nó thì cứ nín lặng, sợ bác biết bác buồn, em thương bác lắm. Một lần nó mang cơm trưa đến xưởng cho bác, gặp lúc thằng cai Tây đang cự bác cái gì đó, rồi dang tay tát bác hộc cả máu mũi. Nếu bác không kịp trừng mắt ra hiệu thì suýt nữa nó đã quăng cái cặp lồng cơm vào mặt thằng Tây.
Năm mười một tuổi, bác xin cho nó vào học việc ở xưởng. Nối nghiệp bác, nó học nghề nguội. Bàn tay nhỏ bé của nó biết cầm cái kìm, cái búa, cái dũa... từ đó. Cách mạng tháng Tám thành công: Vịnh-sưa vẫn tiếp tục học nghề ở nhà máy điện. Nhưng bây giờ học nghề vui lăm. Tụi chủ Tây đã bị cách mạng tống cổ đi hết. Bác của Vịnh được bầu vào ban Quản đốc xưởng nguội. Vịnh còn nhớ mãi, hôm bác được bầu, trở về nhà, bác khóc ròng nói với nó: "Ân tình cách mạng to lớn quá cháu ơi! Bác cháu mình cho dù tới chết e cũng không đền đáp nổi!"
Tháng sáu năm 1946, một đơn vị Vệ Quốc Đoàn thuộc tiểu đoàn Tiếp phòng quân, về đóng quân trong khu vực nhà máy. Cũng như bao chú bé khác, gặp dịp may hiếm có này, Vịnh xoắn ngay lấy đơn vị Vệ Quốc Đoàn, và không rời ra nữa. Hễ có phút nào rảnh rỗi là nó từ xưởng máy tót ngay sang với các anh bộ đội. Nó tìm cách giúp các anh những công việc vặt làm vệ sinh doanh trại, tìm giẻ với dầu luyn cho các anh lau súng... Nó còn trổ nghề thợ nguội, chữa giúp các anh bộ phận súng bị hóc. Bàn tay cầm cái dũa, cái cưa sắt, đục sắt... nom cũng ra dáng lắm.
Một hôm, chính trị viên đơn vị đứng ngắm Vịnh-sưa trong bộ quần áo lấm lem dầu mỡ, chăm chú, thận trọng dũa một bộ phận súng bị hóc, tủm tỉm cười nhận xét: "Nhỏ bằng cái đầu đạn rứa mà chú mình nom đã có thớ một tay thợ súng lành nghề". Từ hôm đó, anh gọi Vịnh là "Chú thợ súng nhỏ". Cả đơn vị cũng bắt chước gọi theo.
Dạo đó, đơn vị thiếu một liên lạc chạy công văn giấy tờ. Một hôm, nhân nó sang chơi, chính trị viên đơn vị gọi nó vào buồng làm việc, mời uống nước chè xanh quấy đường, tỉ tê hỏi rõ hoàn cảnh gia đình nó. Sau đó, anh ngỏ ý muốn tuyển nó vào làm liên lạc cho đơn vị. Đang ngồi Vịnh đứng bật ngay dậy. Nó như không còn tin vào lỗ tai mình nữa. Ngay cả trong mơ nó cũng không thấy được một hạnh phúc lớn đến như thế có thể đến với mình. Nó nói không kịp thở: "Em đã muốn xin với các anh từ lâu, nhưng em sợ... em không dám... Đã rứa anh cho em ở lại đây luôn, chiều ni em không về nhà nữa..." Chính trị viên nói: "Em cũng cần phải về nhà để lấy đồ đạc quần áo, với xin phép bác em chứ?". Vinh nói: "Bác em đang làm việc bên xưởng, em chạy ù qua đó xin phép luôn. Còn đồ đạc quần áo, em chẳng có chi, ngoài bộ áo quần đang mặc". Trong bụng Vịnh sợ lúc mình chạy về nhà, các anh thay đổi ý kiến, không đồng ý nhận mình nữa. Còn chính trị viên nghe nó nói mà thương quá. Anh định bụng sau khi Huế giải phóng, anh sẽ đưa nó về nhà mình nuôi, cho đi học.
Chiều hôm đó, Vịnh-sưa chính thức ra nhập Vệ Quốc Đoàn, liên lạc viên của đại đội ba, tiểu đoàn Tiếp phòng quân. Huế nổ súng kháng chiến, đại đội của Vịnh đánh nhau ở Mặt trận khu C. Nó được dự mấy trận đánh mở màn ác liệt nổi tiếng: cầu Kho Rèm, nhà hàng Sáp-Phăng-rông, Trường Thiên Hữu. Trong trận xung phong vô trường Thiên Hữu, chính trị viên bị thương nặng. Vịnh-sưa đi sát bên các anh, khóc suốt từ Mặt trận về đến trạm quân y. Trước khi tắt thở, anh gọi Vịnh lại bên cáng, xoa đầu âu yếm nói: "Lau nước mắt đi em. Em giữ lấy cái áo trấn thủ của anh mà mặc, đừng chôn nó theo anh, phí đi. Ra trận nhìn cái áo của anh thì nhớ trả thù cho anh..." Cái áo trấn thủ rộng thùng thình nó đang mặc chính là của chính trị viên hy sinh để lại.
Sau đó mấy hôm, Vịnh-sưa được lệnh triệu tập về đội Thiếu niên trinh sát trung đoàn vừa thành lập.
Về đội chỉ mấy hôm, em đã được đội trưởng đặc biệt tín nhiệm, cử làm tổ trưởng tổ bốn, kiêm tiểu đội trưởng tiểu đội ba. Hầu hết các bạn trong đội đều yêu và nể nó, có bạn sợ là đằng khác. Học tập, công tác nó đều gương mẫu. Làm bất cứ việc gì dù nhỏ nhặt đến đâu nó cũng làm đến nơi đến chốn.
Chu đáo, tận tuỵ, kỷ luật, đó là những đức tính Vịnh-sưa đã học được của chính trị viên trong những ngày sống cạnh anh. Chết rồi, anh để lại cho nó cuộc sống mẫu mực, trong sạch, tốt đẹp, cùng tình thương yêu của anh qua hơi ấm chiếc áo trấn thủ ngày ngày nó vẫn mặc...
Chỉ cần nhìn cách thức Vịnh-sưa giữ gìn chiếc áo trấn thủ cũng đã biết nó thương nhớ anh đến chừng nào. Trước khi đi ngủ bao giờ nó cũng cởi áo ra gấp vuốt thật thẳng nếp, gối lên đầu. Đi tập về nếu có một vết bùn nhỏ dây vào là nó phải lấy nước gột cho kỳ sạch... Hồi chưa về đội, một lần nó chạy liên lạc, gặp một anh Vệ Quốc Quân cao lớn, mặc cái áo len mới tinh màu rượu chát, vác một khẩu đại liên đui-dờ-xết. Anh ơi ới gọi nó lại, đặt khẩu súng xuống, cởi cái áo len đưa cho nó và nói: "Mặc cái len thượng hạng ni mà khẩu đại liên dầu mỡ đen ngòm thật phí hoài. Em cởi cái áo trấn thủ đưa đây anh, rôi cầm cái áo len ni mà diện". Anh tưởng chú liên lạc chắc phải sướng mê người về sự đổi chác quá lợi này. Nhưng thật bất ngờ, Vịnh-sưa chẳng buồn nhìn cái áo len. Nó lắc đầu nói với anh: "Anh có đem tất cả len dạ của thành phố Huế mình mà đổi lấy áo trấn thủ ni, em cũng không đổi mô". Nói rồi nó chạy biến, để anh Vệ Quốc Quân với cái áo len thượng hảo hạng trong tay, đứng sững nhìn theo kinh ngạc không hiểu làm sao chú ta lại đòi đến mức ấy?
Tuy chỉ mới biết đọc biết viết, nhưng nhờ tập luyện hết sức chăm chỉ nên các khoa mục trinh sát rất khó như vẽ bản đồ, đánh tín hiệu bằng cờ, Vịnh-sưa là một trong mấy đội viên giỏi nhất. Mười lười thề danh dự của Vệ Quốc Đoàn nó "đọc ngược" được, như lời Tư-dát khen.
Riêng tinh thần kỷ luật của nó thì không chê vào đâu được. Đội trưởng phân công tổ nó đào một cái hố rác sâu tám mươi phân. Đào xong, nó lấy thước đo hẳn hoi. Không sâu hơn mà cũng không nông hơn. Nội quy đội đề ra. Những đêm không tập khoa mục trinh sát, mười giờ phải lên giường ngủ. Thế là đúng mười giờ nó bắt cả đội phải lên giường, dù đang chơi vui, rôm rả đến mấy. Trước khi đi ngủ nó không bao giờ quên khám chân các tổ viên. Đứa nào chân bẩn, nó dựng dậy bắt đi rửa cho bằng được. Nếu cù nhầy, cãi lại, lập tức nó lên giọng giải thích: "Kỷ luật quân đội là kỷ luật sắt. Nếu không có kỷ luật thì quân đội không thể chiến đấu được." Đó là những câu nó học được của chính trị viên, và chỉ chờ dịp là đưa ra áp dụng. Tư-dát nói: "Vịnh-sưa là kỷ luật sắt gớm lắm" là do vậy.
- Vịnh-sưa ơi, Vịnh-sưa! Lên ngay, lên ngay! Đội trưởng có việc thượng khẩn gọi cậu! - Từ xa, Tư-dát đã réo gọi ầm ĩ. - Cậu ngồi đây mà tớ cứ chạy quanh tìm bở hơi tai.
Chưa kịp để Vịnh-sưa hỏi, Tư-dát liến láu nói luôn:
- Lên, lên mà nhận tổ viên mới, không nó sổng mất thì tiếc lắm. Hắn tên là Mừng, nhưng không có họ! Không Trần, không Lê, không Nguyễn, không Đặng, không có cóc khô chi hết a, hơ hơ... - Tư-dát lại ôm bụng cười ngất và tin chắc Vịnh-sưa cũng sẽ cười theo với cái tin ngộ nghĩnh đó.
Nhưng Tư-dát chưng hửng. Vịnh-sưa không hề nhếch mép lại còn cau mặt nói:
- Không có họ thì có cái chi đáng cười mà cậu cũng cười? Đã không biết được họ mình là chi, chắc ở nhà hắn phải khổ lắm...
Vẻ liến láu trên khuôn mặt Tư-dát biến mất. Chú ta cứng lưỡi, tảng lờ rút lui êm. Nó đi vào nhà bếp, vờ hỏi cơm đã chín chưa.
Vịnh-sưa đứng lên, bưng rổ rau đã nhặt sạch vào bếp. Nó trở ra bể rửa tay, lau khô, sửa lại quân phục chỉnh tề rồi chạy vào gặp đội trưởng.
6.
Vịnh-sưa dắt Mừng về chỗ nằm của tổ mình. Có đến nửa đội rồng rắn theo sau. Chúng tò mò muốn xem cung cách các bạn tổ bốn tiếp đón tổ viên mới như thế nào.
Chỗ nằm của tổ bốn là hai tấm phản kê liền nhau, sát bên cửa sổ góc trái ngôi nhà. Đầu phản giáp tường hai chiếc chăn đơn gấp vuông vắn, cùng với ba chiếc ba lô nằm thành một hàng thẳng tắp, cự ly rất đều nhau. Vịnh-sưa nói với Mừng:
- Đây là "nhà" của tổ bốn mình. Cậu Bồng nằm ngoài, rồi đến cậu Kim, chừ thêm cậu nữa rồi đến tớ. Cho cậu nằm giữa cho ấm. Có ra vườn cậu nhớ đi lối cửa trước, đừng nhảy qua cửa sổ mà tha hết đất cát vô phản.
Mừng ngoan ngoãn gật đầu.
Vịnh-sưa quay lại chỉ một bạn trạc mười bốn, mười lăm tuổi, mặt mũi xinh trai, mắt một mí:
- Đây là cậu Kim. Còn đây là cậu Bồng - Bồng cũng trạc mười ba, mười bốn, người thấp, mặt vuông, trán ngắn, tóc húi cua.
Vịnh nói với Kim và Bồng:
- Đội trưởng dặn tổ ta phải yêu thương, chăm sóc Mừng như đứa em út trong nhà. Mừng mới vô đội, lại nhỏ tuổi nhất tổ... Thêm nữa, Mừng không có cha mẹ, anh em, nhà cửa chi hết...
Bồng và Kim đứng sát bên Mừng, vẻ lúng túng vì chưa biết nên bắt đầu lời dặn của đội trưởng như thế nào.
Vịnh-sưa lại nói:
- Chừ tổ mình phải kiếm thêm cho Mừng vài bộ áo quần để thay đổi. Đợi cho đến khi được ban Quân nhu Mặt trận cấp phát còn lâu. Với lại phải sửa soạn cho Mừng cái ba lô. Mai kia ra Mặt trận không có ba lô, biết lấy chi đựng quần áo đồ lề?
- Phải đó, phải đó! - Bồng và Kim lập tức hưởng ứng.
Kim nhảy phóc lên phản, lôi cái ba lô con cóc Hướng đạo sinh (Hồi còn ở nhà, Kim đã vào đội Sói Con Hướng đạo sinh) lục lấy ra một cái sơ mi cộc tay vải ca rô và cái quần ka ki xanh còn mới, đẩy tới trước mặt Mừng:
- Cậu lấy bộ ni mà mặc...Mình mặc hơi chật, cậu mặc chắc vừa...
Bồng cũng mở ba lô lôi ra một tấm nhung màu huyết dụ, rộng gần bằng cái mền đơn. Nó giũ rộng tấm nhung ra, rồi gấp lại, đặt vào tay Mừng, giọng hào hiệp:
- Cho cậu đó để làm mền đắp. Ngó bộ mỏng rứa chứ đắp ấm gớm lắm.
Mừng há miệng, mắt mở to nhìn không chớp, tấm nhung đỏ chói trong tay. Chưa bao giờ nó được nhìn thấy một cái gì chói lọi đến thế, rực rỡ đến thế. Nó buột kêu lên khe khẽ, giọng gần như sợ sệt:
- Ui cha, cái chi mà đẹp dữ ri anh?
- Nhung! - Tư-dát đứng ngay phái sau chen vào nói - Chứ mi chưa nhìn thấy nhung khi mô à?
Tư-dát cầm lấy tấm nhung trong tay Mừng, đưa cao lên, ngoẹo đầu bên này ngoẹo đầu bên kia, làm bộ ngắm nghía:
- Thứ nhung ni là đắt tiền gớm lắm đấy. - Nó gật gật đầu làm bộ mặt quan trọng. - Trước Cách Mạng, ở Huế chỉ có Nam Phương hoàng hậu với tớ là hay dùng thứ nhung ni thôi. Hoàng hậu thì để may áo dài, còn tớ thì may quần đùi.
Trước khi về đội, Bồng là liên lạc của tiểu đoàn mười bảy. Trong trận xung phong khách sạn Mô ranh, vị trí kiên cố nhất của bọn giặc trong thành phố Huế, Bồng xẻo tấm nhung này ở cái màn sân khấu rạp chiếu bóng của khách sạn.
Nó cất giữ cẩn thận lắm, trời lạnh cắt ruột cũng không giở ra đắp. Thế mà bây giờ nó lấy ra cho phắt Mừng.
Vừa lúc đó các bạn những tổ khác cũng kéo đến. Hoà-đen mang cho Mừng một cái thìa bạc (cũng lấy được ở vị trí giặc) và một cái chén ăn cơm. Hoà-đen nói với Mừng:
- Đời bộ đội, sau súng đạn, thì hai thứ ni là quan trọng nhất đó nghe.
Châu tổ bảy mang cho Mừng một cái áo len ngắn tay. Hiền tổ một lao sầm sầm từ trên cầu thang gác xuống, tay vung vẩy cái túi dết vải bạt. Nó quàng luôn vô cổ Mừng, lùi lại một bước ngắm nghía:
- Vừa đẹp! Cậu nhỏ người, đeo cái túi dết ni còn tiện gấp trăm cái ba lô. Cậu đừng khinh nó nhỏ. Cứ tọng thử vô đó năm bộ quần áo coi! Lọt thỏm!
Các bạn khác cũng ùn ùn mang đến cho Mừng nào áo, nào quần, nào thắt lưng da, bao đạn, và bao nhiêu đồ vật linh tinh khác. Vịnh-sưa phải xua xua tay kêu lên:
- Thôi các cậu, thôi các cậu! Cho nhiều ri cậu ta tha làm răng cho nổi!
Đồ lề, quần áo, các bạn mang đến trang bị cho Mừng, chất thành đống to tướng trên phản. Mừng đứng sững nhìn đống đồ đạc các bạn cho, miệng cứ mấp máy định nói gì mà không nói được. Hai mắt nó tự nhiên đỏ hoe:
Hoà-đen đứng cạnh, nhìn mắt bạn, ngạc nhiên hỏi:
- Ơ, răng mắt cậu đỏ rứa?
- Không biết có con chi hắn bay vô mắt tui ấy... - Mừng đưa nắm tay lên dụi dụi mắt, ấp úng nói.
- Đưa tớ thổi bụi cho. - Hoà-đen chụm môi ghé vào mắt bạn. Mừng bỏ nắm tay ra, hai mắt ướt nhoà...
Vịnh-sưa ngồi chồm hỗm trên phản, chọn áo quần đồ lề cần thiết xếp vào túi dết cho Mừng. Vừa xếp nó vừa rên rẩm:
- Các cậu ấy cho lăm đồ đạc ri thì ba lô túi dết mô mà đựng cho xuể?
Khi trong phòng chỉ còn lại hai đứa, Mừng ngồi xuống cạnh Vịnh, rủ rỉ nói:
- Được vô Vệ Quốc Đoàn sướng quá anh hè?
Vịnh-sưa ngẩng lên nhìn Mừng, cặp mắt long lanh ấm áp:
- Còn phải nói chi nữa! Sướng nhất hạng...
7.
Sáng hôm đó, đội trưởng được điện của ban Tham mưu Trung đoàn triệu tập có việc khẩn. Anh cho đội nghỉ buổi tập bàn giao cho Du, tiểu đội trưởng tiểu đội hai, làm trực nhật.
Đêm qua, cả hai Mặt trận Khu B và Khu C, tiếng súng nổ rất dữ. Pháo sáng từ các vị trí giặc vọt lên tới tấp, sáng rực một góc trời Nam thành phố. "Ông già bảy lăm" "ho" dồn dập gấp mấy những đêm trước. Lúc ông "ho" cả đội đều thức, nằm im nhẩm đếm theo từng phát một.
Đội trưởng vừa đi khỏi, cả đội ùa hết ra sân mặc dầu trời vẫn lắc rắc mưa. Đứng tụm năm tụm ba trên sân, chúng bàn tán tranh cãi, phỏng đóan về kết quả trận đánh đêm hôm qua. Hiền từ trong nhà chạy ra, nhập vào một nhóm đông nhất đang tụ tập dưới gốc cây mù u, đang tranh cãi rất hăng. Mừng cũng ở trong nhóm này, nhưng nó chỉ đứng im há miệng lắng nghe. Nó hết nhìn bạn này đến bạn khác, vẻ thán phục. Hiền chen vào giữa nói:
- Cãi nhau làm chi cho mệt! Chút nữa đội trưởng về sẽ có thông báo của Mặt trận. Chừ có việc ni là hay hơn cả. Có cậu mô thích tập xiếc thì theo tớ tập cho vui đi! - Không thấy có bạn nào hưởng ứng, Hiền quay sang Mừng, cầm lấy cánh tay Mừng nắn nắn và nói:
- Cậu nhỏ người mà chắc ghê. Cậu tập xiếc nhất định phải mau thành tài. Cậu có thích tập xiếc không? Tớ dạy cho.
Mừng ngơ ngác:
- Xiếc như mấy ông bán dầu cù là ở chợ Đông Ba?
Hiền chưa kịp trả lời, Tư-dát đã chen vào:
- Cậu đừng có nghe hắn dỗ ngon dỗ ngọt, tập xiếc tập xót mà u đầu gãy cổ có ngày. Khối cậu trong đội nghe hắn dỗ ngon dỗ ngọt theo hắn tập xiếc cót, mọc sừng trước trán rồi đó. - Nó cười quay lại nói với Hiền. - Cậu cũng nên dẹp cái môn xiếc xót của dậu đi cho anh em nhờ. Quay đi quay lại cũng chỉ có trò nhào lộn với trò trồng cây chuối...
Hiền đỏ mặt cãi:
- Người ta còn có trò đi trên dây thép...
- Đi trên cây tre gác lên hai cái ghế thì có! - Tư-dát trề môi nói - Nhát gan như tớ cũng chạy trên đó được.
Hiền ức quá, cố chống chế:
- Môn xiếc chính của tớ là môn dạy thú kia. Nếu có gấu tớ cũng dạy được.
Tư-dát càng trêu già:
- Cậu dạy được gấu thì tớ dạy được cả sư tử, tây ngu (Tê giác), bò tót. - Tư-dát quay sang nói với Mừng. - Cậu biết không, hồi mới về đội, không biết cậu ta tròng được ở đâu con chó mực bị lạc mất chủ, lôi về đội dạy đi xe đạp. Cậu ta chăm anh chó hơn mẹ chăm con, nhịn cả phần cơm cho chó ăn. Cậu ta dạy dỗ tài giỏi đến nỗi con chó quay lại đớp cho một cú vô bắp vế, máu chảy ướt cả quần...
- Chừ con chó ấy mô rồi? Mừng nhìn Hiền tò mò hỏi.
- Hắn dựt đứt xích chạy mất từ đời tám hoánh! - Tư-dát trả lời tranh. - Tớ mà nói láo tớ đi đầu xuống đất. Cậu muốn có ngày bị chó dại cắn chết, cứ việc theo cậu ta mà xiếc với xót.
Hiền ức muốn phát khóc, nhưng không làm sao nói lại với cái mồm liến láu của Tư-dát. Nó đưa mắt lườm Tư-dát, rồi định bỏ đi chỗ khác. Nhưng Tư-dát không chịu buông tha, níu tay Hiền lại, chỉ về phía một gốc cây vông đồng ở gần cuối sân:
- Có cậu Vệ mới về đội chiều hôm qua kia kìa. Theo tớ, cậu nên tập xiếc cho cậu ấy hơn. Bộ cậu ấy ngơ ngơ mà hiền như con gái rứa, cứ chịu khó dỗ ngon dỗ ngọt, răng cậu ấy cũng theo.
Vệ là đội viên thứ ba mươi hai của đội. Nó đến nhập đội vào năm giờ chiều hôm qua. Trước đây, nó là liên lạc của trung đội Ca- nông Bảy lăm. Hồi Huế mới nổ súng, nhiều bạn trong đội thỉnh thoảng vẫn gập nó cưỡi con ngựa ô, lóc cóc đi theo sau khẩu Ca- nông, trên đường di chuyển vị trí.
Vệ trạc tuổi Vịnh-sưa, thân hình rất mảnh giẻ cân đối. Gương mặt nó không đẹp nhưng có một vẻ hết sức dễ thương. Cặp mắt to, sáng, dịu dàng như mắt lai, thường ánh lên một vẻ buồn buồn rất lạ. Đặc biệt nó có cái đầu to quá cỡ y như đầu người lớn chắp vào, đội cái mũ ca lô dạ tím rất diện. Những món tóc đen nhánh như lông quạ thò ra ngoài mũ, xoăn xoăn thành búp. Mới về đội chiều hôm qua, nó đã được các bạn tặng luôn cho cái biệt hiệu: Vệ-to-đầu.
Lúc này, Vệ đang đứng khom lưng, hai tay chống gối, chăm chú xem Vịnh-sưa dũa một vỏ đạn đui- xết để làm cán dao nhíp.
- Vệ ơi Vệ! tới đây, tới đây, có việc ni hay lắm. - Tiếng Tư-dát gọi to.
Vệ chạy lại, Tư-dát túm lấy tay, hỏi:
- Cậu có thích tập xiếc không, tớ xin giới thiệu với cậu, - Tư-dát chỉ vào Hiền, - đây là một ông thầy xiếc tài nhất nhì Đông Dương...
Vệ mắt chớp chớp, hết nhìn Tư-dát lại nhìn Hiền như có vẻ lấy làm lạ lắm.
- Trước khi vô Vệ Quốc Đoàn, cậu cũng đi làm xiếc à? - Vệ hỏi Hiền. - Cậu ở gánh nào vậy?
Tư-dát lùi lại phía sau bụm miệng nhịn cười. Bụng chắc mẩm đã cho được cậu đội viên mới vào "xiếc" và nhất định sẽ có những pha cười nôn ruột.
Hiền miễn cưỡng trả lời Vệ:
Mình có ở gánh nào đâu...Hồi còn đang đi học, mình mê xiếc lắm. Bao nhiêu gánh xiếc tới Huế. Mình chẳng bỏ sót gánh nào. Tạ Duy Hiển này, Long Tiên này, Đô-cô-ha-ma này... Mình đi coi nhiều lần rồi về bắt chước tự tập lấy. Khi mô đánh Tây xong, mình sẽ xin đi theo một gánh xiếc...
- Thế cậu đã tập được những trò gì rồi? - Vệ chăm chú hỏi.
- Chỉ mới được có mấy trò... Trồng cây chuối, đi bằng hai tay, đi trên dây thép...
- Cậu ấy còn nhai được cả cơm cháy rau ráu như là nhai mảnh chai bóng điện ấy. Tài ghê lắm Vệ ạ - Tư-dát chêm vào.
Vệ không để ý đến lời trêu chọc của Tư-dát. Nó nói với Hiền, giọng hồi hộp:
- Cậu diễn thử vài trò cho mình xem với. Lâu lắm mình không được xem xiếc:
- Đi, đi lại đằng kia mình diễn cho coi. - Hiền cầm tay Vệ-to-đầu định kéo đi. - Rồi tuỳ cậu chọn, thích tập trò nào mình sẽ dạy cho trò ấy. Không khó lắm đâu.
- Trồng cây chuối với đi bằng hai tay thì ở đâu chẳng diễn được? - Vệ ngạc nhiên hỏi.
- Nhưng ở đây toàn đá với sỏi, đằng kia có bãi cỏ, lỡ ngã đỡ đau hơn. Nhưng mình sợ là sợ cho cậu mới tập, chứ với mình ở đâu chẳng chơi được!
Hiền xắn hai ống tay áo, nhảy lùi lại một bước, chuẩn bị diễn trò trồng cây chuối. Nó định bụng sẽ trổ hết tài, diễn thật xuất sắc, làm cho tay đội viên mới này phải lác mắt, và sẽ nằng nặc xin theo học.
Nhưng bữa nay nó bị xúi quẩy quá! Sau khi đã nhặt hết những viên đá nhọn. Hiền cẩn thận chúi đầu xuống đất, gắng sức tung hai chân để dựng ngược người. Nhưng hai chân lại nặng nề rơi xuống cứ y như bị buộc đá vậy. Sỏi đá ấn vào đầu nó đau điếng người. Mặt nó đổ bừng vì gắng sức.
Tư-dát liền bước lại, túm lấy hai cổ chân Hiền vui vẻ dựng ngược lên, cười nói:
- Để tớ trồng giúp cho. Chuối trông cứ bổ xiêu bổ sấp mãi rứa thì đứt hết rễ còn chi!
Hiền đứng lên vừa ức vừa ngượng. Nó xoa xoa hai đầu gối, chống chế:
- Tại mấy bữa ni chân tớ hơi bị đau, chứ mọi lần tớ chỉ hự một cái là lên ngay.
Vệ-to-đầu nãy giờ vẫn chăm chú theo dõi Hiền diễn xiếc. Khi Hiền đứng lên, Vệ đưa tay phủi phủi những sợi rác trên tóc bạn. Nó bỗng lột cái mũ ca lô dạ tím ra khỏi đầu và cẩn thận luồn vào giữa cầu vai áo quân phục. Các bạn ngạc nhiên thấy trên đầu nó, giữa những món tóc xoăn xoăn đen nhánh như lông quạ, có ba bốn cái sẹo to dài nhẵn bóng như những vết chém.
Vệ nhỏ nhẻ nói với các bạn đang đứng xung quanh:
- Mình cũng biết ít trò xiếc...
Trước những cặp mắt nghi ngờ của các bạn, Vệ đột ngột hét lên một tiếng nghe rất lạ tai. Và nhanh không kịp chớp mắt nó chúi người lộn nhào hai vòng rồi đứng lên người thẳng tắp. Chưa kịp để cho các bạn ngạc nhiên, nó chống hai tay xuống đất, dựng ngược người, và cứ thế đi bằng hai tay, rất nhanh về phía ngôi nhà khi còn cách tường chừng hai bước, nó làm một động tác nhào lộn hết sức đẹp mắt trước khi đứng thẳng lên. Bức tường trước mặt có một khuôn cửa sổ hình tròn, không có cánh cửa. Nó lại thét lên một tiếng chói tai, tung người bay lọt qua khuôn cửa sổ, vào bên trong nhà.
Các bạn định ào vào bên trong nhà để xem Vệ có việc gì không. Nhưng bên trong đã nghe tiếng Vệ thét lên và cả người đã bay vọt ra bên ngoài. Chớp mắt nó đã đứng thẳng trước mặt các bạn, người không hề chao đảo ngả nghiêng.
Tất cả cứ tròn xoe mắt nhìn theo Vệ, miệng kêu: "Ơ...ơ", rồi tất cả cùng một lúc, nhảy lên như choi choi, vỗ tay rôm rốp:
- Đúng là xiếc chính cống! Đúng là xiếc chính cống! Bờ-ra-vô Vệ-to-đầu! Bờ-ra-vô Vệ-to-đầu.
Trước sự tán thưởng nồng nhiệt của các bạn, gương mặt đỏ hồng lên. Vì cao hứng, vui thích, nó dẫn các bạn đi thẳng đến chỗ sợi dây thép phơi quần áo ở góc bên trái sân. Sợi dây to bằng đầu đũa, cao quá tầm tay với, căng từ hai gốc cây mù u cách nhau chừng mười thước. Trên dây đung đưa nào áo trấn thủ, khăn mặt, quần sơ mi... Tư-dát đoán là Vệ sắp diễn trò đi dây thép, nó liền chạy tới trước, vơ tất cả áo quần cuộn lại thành một bó và quăng lên thành bể nước cạnh đó.
Vệ nhảy lên níu sợi dây thép, gần sát chỗ buộc và gốc cây, rồi nhún người đu lên. Loáng một cái nó đã đứng lên sợi dây thép, người hơi lúng liếng một chút. Nhưng nó dang thẳng hai tay, lấy được thăng bằng một cách dễ dàng. Khoan thai nhẹ nhàng nó bước từng bước ngắn, vững, đi sang đầu dây thép bên kia, dưới những bước chân sợi dây thép hơi võng xuống, khẽ đung đưa... Khi còn cách gốc cây chừng non một bước, nó bỗng trượt chân, nhào nghiêng nười. Các bạn kêu rú, sợ hĩa, chậy xô hết cả lại, giơ tay ra định đỡ. Nhưng hai kheo chân nó đã lẹ làng ngoặc vào sợi dây thép, treo ngược người, đầu dốc xuống đất. Té ra nó làm động tác giả để doạ các bạn chơi. Vẫn treo người trên dây thép, nó ngẩng lên nhìn vẻ lo lắng sợ hãi của các bạn với ánh mắt dịu dàng như mắt nai, và mủm mỉm cười rất dễ thương.
Vừa lúc đó đội trưởng đi họp về. Anh đến ngay trước mặt Vệ lúc nào không hay. Vệ chợt nhìn thấy anh, mỉm cười bối rối. Nó vội vàng vịn tay vào vai Hiền, nhẹ nhàng buông mình xuống đất.
Đội trưởng gọi Vệ vào phòng làm việc. Cả đội ùa vào theo, đứng chật gian phòng. Đội trưởng quyết định bổ xung Vệ vào tổ Hiền. Sau đó anh hỏi chuyện nó tại sao biết làm xiếc, và tập xiếc từ bao giờ.
Té ra trước khi gia nhập Vệ Quốc Đoàn, Vệ là diễn viên nhào lộn của một gánh xiếc rong. Nó kể:
... Gánh xiếc rong của nó do một ông Khách (Người Tàu) to lớn, có cặp mắt xếch ngược như mắt tướng hát bội, làm chủ gánh. Ông này trước là diễn viên trụ cột của một đoàn mãi võ Sơn Đông, chuyên bán thuốc cao, rất có tiếng tăm ở Sài Gòn- Chợ Lớn. Sau vì một chuyện xích mích gì đó với người trưởng đoàn, ông ta tách khỏi đoàn và lập một gánh xiếc rong để sinh sống. Gánh xiếc này vẻn vẹn có năm diễn viên: Chủ gánh, Vệ, một anh lùn, một con khỉ và một con gấu. Gánh xiếc rong nhỏ bé của nó từng đi diễn khắp lục tỉnh Nam Kỳ, sang cả Nam Vang. Lúc này cả đội mới hiểu ra vì sao giọng nói của Vệ lơ lớ đá giọng Sài Gòn.
8.
Lần đầu tiên Hiền và nhiều bạn khác trong đội mới được biết cuộc đời của người làm xiếc rong chẳng mê ly vui thú như chúng vẫn thường tưởng tượng. Trái lại, đó là một cuộc sống gian truân, vất vả, cực nhục đến ghê người. Cuộc sống ấy đã để lại trong trí nhớ chú bé có cặp mắt dịu dàng như mắt nai này biết bao kỉ niệm hãi hùng...
Chính người Khách mãi võ Sơn Đông vừa làm chủ gánh vừa dạy xiếc cho các diễn viên. Ông ta dạy anh lùn tung hứng ném dao, dạy con khỉ, con gấu múa thanh long đao, đi xe đạp, dạy Vệ nhảy qua vòng lửa có cắm dao cùng các trò nhào lộn, đi trên dây thép... Về các môn xiếc, ông ta tuyệt giỏi, không một môn nào ông không đạt đến mức điêu luyện. Nhưng ông cũng ác vô cùng. Lúc dạy, tay ông ta không bao giờ rời cây roi da. Con khỉ, con gấu, anh lùn và Vệ, mỗi lần làm sai, làm hỏng, ông ta quất không tiếc tay, lại còn phạt nhịn đói. Nhìn ông ta đánh con khỉ với con gấu mới thương! Dưới những trận mưa roi da, hai con vật ôm mặt kêu rú lên, lăn lộn dưới đất, chắp tay lạy ông rối rít...
Để cạnh tranh với hàng trăm gánh xiếc rong hồi đó, ông chủ bắt anh lùn và Vệ diễn những trò hết sức ghê rợn, làm người xem phải dựng tóc gáy. Lên mười tuổi, Vệ đã phải phi thân bay qua vòng lửa cháy rần rật có cắm mười hai lưỡi dao nhọn hoắt. Phải đi trên dây thép căng cao hai thước, và bước tới đâu, ông chủ đẩy theo tới đó một bàn gỗ có bốn bánh xe, bên trên cắm ngược mười hai lưỡi dao như sẵn sàng chờ nó ngã xuống... Nhưng khủng khiếp hơn cả là trò nó phải làm bia sống cho anh lùn ném dao.
Người diễn viên có tài tung hứng và ném dao tuyệt vời này xấu xí dễ sợ. Anh ta cao chỉ hơn một mét nhưng đôi vai rất rộng nên trông cứ như người vuông. Anh có cái đầu to hết cỡ. Trong biển quảng cáo, anh thường được trưng là "Người lùn nhất thế giới về tài tung hứng và ném dao"
Làm bia sống cho anh lùn ném dao, Vệ phải cởi trần, mặc quần cộc thun bó sát người. Nó đứng dựa lưng vào một tấm ván mỏng dựng trên cái giá gỗ, hai tay dang thẳng, hai chân xoạc rộng, toàn thân không nhúc nhích, như đã bị đóng đinh vào tấm ván. Anh lùn đứng cách xa nó chừng mười bước, tay cầm một nắm dao găm sáng loáng. Sau một hồi đánh phèng phèng cổ động, ông chủ hô lên một tiếng như sấm "Tả lớ này!". Lập tức anh lùn cầm từng con dao một ném phầm phập vào quanh người Vệ. Dao cắm sát đỉnh đầu, sát hai vai, luồn dưới hai nách, hai bên hông, hai bên bạn, cuối cùng là dưới hai bàn chân. Vừa đúng mười hai lưỡi. Lưỡi nào cũng cắm cách người nó chỉ vài ba phân, có lưỡi dính sát da... Và càng ném cắm sát dao càng được người xem tung tiền thưởng. Lúc Vệ bước ra khỏi tấm ván, mười hai lưỡi dao cắm trên ván vẽ thành một hình người nho nhỏ...
Mặc dầu đã đứng làm bia sống hàng mấy trăm lần, nhưng Vệ không làm sao quen được. Kể đến đây, bất giác nó rùng mình. Thật khủng khiếp! Lúc đó hai mắt nó nhắm nghiền nên nghe càng rõ tiếng dao rít quanh mình. Mỗi lần lưỡi dao bay đến cắm phập vào ván, rung lên bần bật, chất thép lạnh chỉ chạm khẽ vào da thịt mà nhói thấu đến tận óc. Một cảm giác kinh hoàng không sao tả xiết làm cho khắp người nó mồ hôi vã ra như tắm. Mồ hôi chảy ròng ròng suốt từ chân tóc đến hai gan bàn chân. Nhiều lần căng thẳng quá, nó tưởng có thể ngã gục xuống chết ngất. Nhưng nó đã cố hết sức để đứng vững, không run. Nếu run và chỉ cần một li leo xê dịch, dao sẽ cắm vào người như chơi.
Những vết sẹo dài như chém trên đầu Vệ chính là những vết dao anh lùn lỡ ném hơi quá tay...
Ngồi nghe Vệ kể chuyện làm xiếc, hai thái dương đội trưởng mồ hôi rịn lấm tấm. Anh sững sờ kêu lên:
- Thế cha mạ, quê quán em ở đâu mà phải lưu lạc vô tận Sài Gòn làm xiếc rong? Nó kể:
... Nó theo gánh xiếc từ ngày còn nhỏ lắm, nó không nhớ là năm lên mấy nữa. Cha mạ quê quán thì chỉ còn nhớ là cả nhà nó sống chui rúc dưới một cái gầm cầu sắt to lắm. Người gồng gánh, ô tô, tàu hoả đi lại rầm rập trên đầu suốt ngày, suốt đêm. Cha nó thường mặc bộ áo quần xanh, rách rưới, nồng nặc mùi vôi. Nó không nhớ mặt cha nhưng cái mùi vôi nồng nặc trên áo quần cha sau mỗi buổi chiều đi làm về, thì cho đến tận bây giờ nó vẫn như còn ngửi thấy... Cứ chiều đến nó lại trèo lên mặt đường nhựa đón cha. Thấy bóng cha từ xa, nó chạy ào đến. Cha bồng nó lên tay, hôn hít rồi móc móc túi... Cha bắt nó nhắm mắt, há miệng thật to, rồi lẹ làng đút vô miệng, khi cái kẹo cau, khi cái kẹo bi, ngọt cho đến tận bây giờ... Một buổi chiều, nó đứng đón cha hoài, đón đến tối câm tối mù cũng không thấy cha về. Chiều hôm sau, rồi chiều hôm sau nữa, cũng không thấy cha về. Má nó thì cứ lăn lóc dưới đất, đầu tóc rũ rượi, khóc gào như đã hoá điên. Má ôm ghì nó, vùi nó vô trong đống tóc rối bời, bê bết đất bụi, rồi lại lăn lóc, lại kêu khóc... Rồi một buổi sáng, những người chèo đò vớt má nó từ dưới sông lên. Tóc má trét đầy bùn. Người ta xúm lại đào một cái hố to giữa bãi bắp, bó má xuống hố, lấp đất lại. Nó đói quá, cả ngày đứng trên đường xin ăn. Người cho miếng bánh, người cho cục cơm... Một hôm có một ông mặt mũi dữ tợn như ông tướng cầm gươm trước cửa đền hiện ra trước mặt nó. Ông đứng chống nạnh, không nói, không rằng trừng trừng ngó nó một lúc lâu. Nó sợ co rúm người lại. Ông này bất thình lình chụp lấy bàn tay nó đang ngửa chìa ra xin ăn, dắt đi gần như kéo. Nó sợ quá nên chẳng dám kêu, cũng chẳng dám khóc. Hai chân lết quết chạy theo ông. Ông ta đưa nó đến một quán cơm, cho ăn cùng với một con khỉ, một con gấu, và một anh lùn tịt, đầu rất to... Lúc đầu nó sợ người lùn này lắm, còn sợ hơn cả cái ông kéo nó đi. Nhưng anh lùn cười với nó hiền khô, dỗ: "Đừng sợ, đừng sợ em ạ. Anh chỉ lùn thôi. Mà người lùn thì hiền hơn cả con nít". Anh gắp miếng thịt trong bát đang ăn bỏ vào bát nó.
Sau đó cái ông mặt mũi dữ tợn ấy đưa nó lên tàu cùng với anh lùn, con khỉ, con gấy. Con tàu chạy suốt ngày suốt đêm, đến một nơi nào đó rất xa... Ông ấy chính là người Khách mãi võ Sơn Đông, chủ gánh xiếc rong...
Câu chuyện của Vệ làm nhiều bạn nổi hết gai ốc, lo sợ thay cho bạn và thương bạn quá chừng. Nhiều đứa quay mặt đi giấu vội nước mắt. Mừng thì khóc thật sự, nó gục đầu vào vai Bồng, khóc nấc lên thành tiếng. Bồng cũng khóc nhưng chỉ nấc lên khe khẽ và ngước mắt chảy lặng lẽ trên hai gò má thô ráp. Tư-dát giả bộ cười nhưng miệng méo xệch thành mếu. Vịnh-sưa đưa ống tay áo dụi cặp mắt đỏ hoe, lắp bắp, tức tối hỏi Vệ:
- Khổ đến nước ấy răng cậu không bỏ trốn quách, cứ đèo queo mãi với cái thằng cha chủ xiếc ấy làm chi?
- Nhưng biết trốn đi mô được? - Vệ hỏi lại như muốn nói với tất cả các bạn có mặt ở đó. Cặp mắt to dịu dàng như mắt nai của nó ánh lên một vẻ buồn sâu thẳm.
- Hồi đó làm chi đã có Vệ Quốc Đoàn như bây giờ cho mình trốn theo? - Vệ khẽ thở dài - Thêm nữa mình cũng thương anh lùn lắm. Anh ấy tuy thân mình mặt mũi xấu xí hết chỗ nói nhưng tốt bụng như ông Bụt. Anh ấy thương mình, thương cả con khỉ, con gấu, như má thương con. Mỗi lần chúng bị chủ đánh hoặc diễn trò bị thương chảy máu, anh ấy pha nước muối rửa vết thương cho chúng, tìm mua lá dấu, thuốc cao dịt vết thương... Anh lén ông chủ, lấy đường pha nuớc cho chúng uống. Anh nựng dỗ chúng khác chi mạ dỗ con. Mình mà ốm, anh ấy ngồi cạnh bên đầu giường suốt đêm, xúc bón cho mình từng thìa cháo nhỏ... Mình trốn đi, không có ai đứng làm bia sống cho anh ấy ném dao, lão chủ sẽ đuổi anh mất. mà anh ấy không làm xiếc thì còn biết làm chi mà ăn?
Đội trưởng hỏi:
- Thế em gia nhập Vệ Quốc Đoàn trong trường hợp nào?
- Cách Mạng Tháng Tám thành công, gánh xiếc của em đang diễn ở Nha Trang. Ít lâu sau đó, bọn Pháp trở lại, tấn công vào thành phố. Đại bác chúng đặt dưới tàu biển, rót lên trúng cái quán gánh xiếc chúng em đang trọ. Lão chủ và anh lùn bị trúng mảnh đạn chết ngay tại chỗ. Còn con khỉ, con gấu, hoảng loạn dựt đứt xích chạy biến. Sau đợt đại bác, các anh Vệ Quốc Quân một đơn vị Nam tiến đóng quân gần đó chia nhau đi tìm cứu những người bị nạn. Các anh tìm thấy em nằm chết giấc dước cái hố rác cạnh quán. Em không bị thương, chỉ bị sức ép. Các anh bế em về cứu chữa. Đơn vị Nam tiến này toàn người Huế, vừa đánh nhau ở Mặt trận Nam Trung Bộ rút về đây, chuẩn bị lên tàu trở ra Huế. Các anh thay phiên nhau săn sóc em và đặt cho em cái tên mới là Vệ, tức Vệ Quốc Đoàn. Hồi còn ở gánh xiếc, lão chủ đặt tên cho em là Tiểu La Thành. Còn tên ba má đặt thì em không còn nhớ nữa. Ra đến Huế anh chỉ huy đơn vị được Ban chỉ huy Trung đoàn điều động về chỉ huy trung đội ca nông bảy lăm ly. Anh ấy đem em theo làm liên lạc cho đơn vị từ đó đến nay.
Hiền hỏi:
- Rứa cậu không nhận được lệnh của Ban tham mưu Trung đoàn triệu tập về đội Thiếu niên trinh sát hay răng mà mãi chiều hôm qua cậu mới đến?
- Có... nhưng các anh ở trung đội ca nông không chịu cho mình đi. Các anh ấy nói: "Chú mi ở đây rồi các anh dạy cho làm pháo thủ, oách bằng mấy tụi Thiếu niên trinh sát, đi làm chi!". Mình khóc hết nước mắt các anh cũng không cho. Mình ức qua, bỏ ăn hai bữa liền... Mãi đến chiều hôm qua, anh trung đội trưởng thương mình đói mới chịu ký giấy cho mình về nhập đội.
Tư-dát lúc này đang ngồi vắt vẻo ở khung cửa sổ. Nó bỗng nhảy phốc xuống đất và kêu lên với giọng ngạc nhiên thật sự
- Ơ tề! Rứa là đội mình lại thêm một thằng nữa không có họ!
9.
Trời sập tối. Bầu trời đêm thấp nặng lạ thường. Từ phía cửa Thuận An mây đen xám xít, tầng tầng lớp lớp cứ ùn ùn kéo mãi về như muốn lấp cho bằng kín khoảng trời thành phố.
Góc trời phía Nam thành phố chợt loé sáng. Đó là ánh chớp từ miệng "Ông già bảy lăm" đặt ở lưng núi Ngự Bình, khạc đạn xuống khu vực Pháp, mở đầu cho đợt tấn công của quân ta đêm nay, đêm thứ hai mươi sáu của cuộc chiến đấu bao vây thành phố.
Theo lệnh của đội trưởng, toàn đội Thiếu niên trinh sát đã tập họp thành đội hình chữ U ở gian buồng giữa.
Im lặng. Chờ đợi. Hồi hộp.
Ngọn đèn bão đặt trên bàn kê sát tường, chiếu sáng những bộ quân phục thùng thình, những cái mũ ca lô, bê rê, mũ cứng Tiếp phòng quân... Chiếu sáng những cặp mắt long lanh, những cái mũi hếch lên chờ đợi, những cái miệng hé mở sốt ruột...
Cốp! Cốp! Cốp! Đội trưởng từ ngoài cửa chính bước vào vững chãi trong bộ quân phục màu xám. Lưng thắt xanh-tuya-rông da, chân dận giày đinh cao cổ. Dáng anh thật đẹp. Anh đội mũ ca lô dạ màu rêu, hơi lệch một tí, để lộ nửa mái tóc chải mượt.
Trước mặt các chiến sĩ nhỏ tuổi của mình, đội trưởng bao giờ cũng ăn mặc, đi đứng, nói năng rất đúng tác phong kỷ luật quân đội.
Toàn đội rất hãnh diện về người chỉ huy của mình.
Nhiều đứa còn cố bắt chước anh từ cách đi, đứng, hô khẩu lệnh, đến tất cả những cử chỉ đưa tay đưa chân. Có đứa còn chú ý nhận xét đội trưởng bao giờ bước đi cũng bước đi cũng bước chân trái trước, và tập làm theo.
Tối hôm đó, Vịnh-sưa làm trực nhật. Nó cũng gọn gàng chững chạc không kém gì đội trưởng, chỉ mỗi tội bộ quân phục khá rộng, nên không được oai cho lắm.
Từ trong hàng bước ra, Vịnh hô toàn đội đứng nghiêm. Giọng nó sang sảng, rất đúng quy cách khẩu lệnh. Bắt chước đội trưởng, nó đứng yên lặng mấy giây, đưa mắt nhìn bao quát cả đội, kiểm tra hàng ngũ khi đã thật ưng ý, mới rắn rỏi tiến lại trước mặt đội trưởng với những bước đi đều. Nó dừng lại cách đội trưởng ba bước, giật mạnh cánh tay đưa lên ngang vành mũ chào, dõng dạc báo cáo quân số:
- Toàn đội tập họp ba mươi hai chiến sĩ. Đủ! Hết!
Đội trưởng đưa tay chào lại, cho đội trở về tư thế nghỉ và ngồi xuống. Anh nhìn chiến sĩ trực nhật, nhìn toàn đội với ánh mắt âu yếm khác hẳn mọi hôm.
Anh bước đến cạnh bàn, rút cuốn sổ tay trong túi ngực, đặt xuống ngọn đèn bão. Anh báo cáo với đội:
- Đêm qua quân ta, cả hai Mặt trận khu B và khu C đã đồng loạt tiến công quyết liệt các vị trí của giặc như ga-ra La-cờ-roa, Viện Dân Biểu, nhà Dây Thép, lầu Công Chánh... Một đơn vị cảm tử thuộc Mặt trận khu B đã khiêng bốn quả bom vào chính giữa khách sạn Mo-ranh giật sập một tầng lầu, giết gần năm mươi tên giăc, thu tám súng trường, một tiểu liên, thiêu huỷ một kho xăng và nhiều lốp ô tô... Trên con đường trước cửa hàng Ngân Hàng, một chiếc xe tăng của giặc có gắn đại bác bô-pho, bắn dồn dập vào một đơn vị quân ta bố trí gần đó. Vừa bắn chiếc xe tăng vừa chồm lên, lao thẳng vào giữa đội hình quân ta, định chà nát cả đơn vị dưới xích sắt. Tính mạng mấy chục chiến sĩ ta chỉ còn treo trên sợi tóc. Ngay lúc đó, một chiến sĩ đứng phắt ngay dậy, ôm một trái bom ba càng, xông thẳng đến trước mũi chiếc xe tăng. Anh lao cả người cùng trái bom vào khối thép đồ sộ như hòn núi. Chiếc xe tăng giặc nổ tung, xích sắt đứt lìa, nằm bẹp dí một đống như đống bùn. Người chiến sĩ cảm tử hy sinh nhưng đơn vị đã được cứu thoát...
Cả đội gần như nín thở, miệng há ra, mắt không chớp, nuốt lấy từng lời của đội trưởng. Nhiều tiếng xuýt xoa bật lên, cả đội vỗ tay rần rần, hoan hô chiến công tuyệt vời của người chiến sĩ cảm tử. Đội trưởng đứng lặng một phút nhìn các em. Chính anh cũng lây nỗi xúc động bồng bột của các em. Một câu văn có lần anh đọc trong một cuốn sách nào đó, lúc này vụt chói ngời trong trí nhớ anh: "Những hành động anh hùng, những tình cảm cao cả, những sự tích phi thường, là món ăn tinh thần tốt nhất, để nuôi dưỡng tuổi thơ."
Tư-dát ngồi ở hàng phía sau, nhúc nhích cựa quậy liên tiếp như bị kiến đốt, nó quay sang bên phải, bấm khẽ vào đùi Vịnh-sưa, ghé sát miệng thì thầm vào tai bạn:
- Lao chứ cậu?
- Lao cái chi? - Vịnh-sưa cau mặt hỏi.
- Còn lao cái chi nữa! Lao cả người với bom ba càng vô xe tăng tụi Tây ấy? - Tư-dát thì thầm trả lời với vẻ mặt đặc biệt nghiêm trang ít khi thấy ở nó. - Nếu gặp trường hợp như anh cảm tử quân đội trưởng vừa kể, cậu có dám lao bom như anh ấy không?
- Rứa cậu?
- Nhứt định là tớ lao! - Cặp mắt Tư-dát loé sáng hăm hở - Chết là cùng chớ chi? Một mình chết cho bao nhiêu người sống, chết như rứa mới sướng!
Vịnh-sưa từ trước đến nay vẫn cho Tư-dát chỉ được cái giỏi làm hề chọc anh em cười chứ chẳng làm được cái gì ra trò. Nhưng lúc này, nhìn vẻ mặt và nghe giọng nói khác lạ của bạn, Vịnh-sưa bỗng tin là cậu ta có thể lao cả người và bom ba càng vào xe tăng giặc thật.
Mừng ngồi phía sau Vịnh-sưa, dỏng tai nghe hai bạn trò chuyện. Nó chợt ghé sang hỏi Tư-dát:
- Anh Tư này, rứa trái bom ba càng to ước chừng mô anh? Có nặng lắm không?
- To nhỏ thì việc chi đến cậu? - Tư-dát hỏi lại Mừng. Mừng rụt rè nói:
- Tui sợ trái bom to quá tui na (ôm, mang vác, bưng) răng nổi mà lao?
- Ủa, cậu mà cũng đòi lao cả bom ba càng nữa kia à?
- Anh lao được thì tui cũng lao được!
- Ban chỉ huy Trung đoàn sáng nay đã quyết định.- Tiếng đội trưởng cất cao, cắt ngang câu chuyện của hai đứa. Anh rút tờ giấy đánh máy có dấu son đỏ, kẹp trong cuốn sổ tay, ghé bên ngọn đèn bão, dõng dạc đọc: "Do tình hình khẩn trương của Mặt trận, Đội thiếu niên trinh sát của Trung đoàn tạm dừng đợt huấn luyện. Đúng tám giờ sáng ngày... tháng 12 năm 1946, toàn đội phải có mặt đầy đủ tại Chỉ huy sở Mặt trận khu C để nhận nhiệm vụ chiến đấu.
Cả đội ngồi lịm có đến một phút. Im lặng đến nỗi nghe rõ tiếng con thạch sùng tặc lưỡi trên trần nhà. Bất thần vọt lên như những chiếc pháo thăng thiên, cả đội vụt đứng dậy. Các em lột mũ, tung tới tấp lên trần nhà, vừa nhảy như choi choi vừa vỗ tay hoan hô đến muốn vỡ cả ngôi lầu doanh trại. Như để hưởng ứng nỗi vui mừng cuồn nhiệt của các chiến sĩ nhỏ tuổi, đúng lúc đó, phía mặt trận tiếng súng đủ các cỡ, tiếng lựu đạn, bom mìn... rộ lên từng đợt dài không ngớt.
Và những phút như thế này không thể làm sao không hát!
Tất cả chẳng đợi ai bắt nhịp, cùng một lúc vươn thẳng người, căng lồng ngực, cất cao giọng rập ràng hát vang:
"Đoàn Vệ Quốc Quân một lần ra đi.
Nào có mong chi đâu ngày trở về
Ra đi, ra đi bảo tồn sông núi
Ra đi, ra đi thà chết không lui..."
Khi đội đã trở lại trật tự, đội trưởng nói giọng mềm hẳn đi:
- Anh hết sức xúc động và cũng hết sức vui mừng thấy các em náo nức đến thế khi được tin sắp ra Mặt trận! Những ngày sắp tới đối với người chiến sĩ trinh sát chúng ta sẽ là những ngày tuyệt đẹp, nhưng đồng thời cũng đầy gian khổ hiểm nghèo. Trong chiến đấu các em có thể bị thương, bị giặc bắt, thậm chí có thể hy sinh. Nhưng chưa lúc nào như lúc này, anh thấy tin tưởng một cách sâu sắc rằng, những ngày sắp đến dù vấp phải gian khổ hiểm nghèo đến đâu, nhất định các em cũng sẽ làm đúng được như lời các em vừa hát: "Ra đi, ra đi thà chết không lui..."
Giọng anh bất chợt vang to lên như đang nói trước cả một đoàn quân:
-...Chúng ta quyết định ra đi thà chết không lui, để góp phần cùng các anh lớn đánh đuổi bọn thực dân cướp nước ra khỏi bờ cõi TỔ QUỐC thân yêu của chúng ta. Khi đất nước đã tự do, TỔ QUỐC đã hoàn toàn độc lập, thì nhất định người Việt Nam chúng ta sẽ được hưởng một cuộc đời sung sướng, hạnh phúc gấp trăm nghìn lần hôm nay... Lứa tuổi các em sẽ không còn phải đi ở, đi làm xiếc rong, đi bán kẹo, bán báo để kiếm miếng ăn hàng ngày như các em trước đây đã phải chịu đựng. Tuổi nhỏ ai ai cũng được cắp sách đến trường, được ca hát vui chơi... Đến tuổi khôn lớn các em sẽ được thoả sức đem hết tài năng sức lực của mình cống hiến cho Nhân Dân, TỔ QUỐC. Người già lão sẽ được vào an dưỡng đường an dưỡng tuổi già. Những người ốm đau, bệnh tật sẽ được vào nhà thương không mất tiền, có đầy đủ thuốc men chữa cho lành bệnh...
Từ trong hàng bỗng có một đứa rụt rè đưa tay lên, làm đội trưởng phải ngừng lời. Anh cầm cây đèn bão đưa cao nhìn xem em nào.
- Mừng đấy à? - Đội trưởng hỏi, hơi nheo mắt lại - Em muốn hỏi gì à?
Mừng bối rối đứng lên. Nó rụt chân xuôi hai tay đứng nghiêm, chớp chớp mắt ấp úng hỏi:
- Dạ... dạ thưa anh... dạ đến lúc đó thì người bị mắc bệnh hen suyễn khinh niên có chữa được lành không ạ?
Cả đội ngoảnh lại nhìn Mừng. Như mọi bận chắc nhiều em đã phá lên cười vì cậu hỏi ngẩn ngẩn ngơ ngơ của Mừng. Nhưng lúc này không em nào cười. Nhiều tiếng suỵt suỵt ra hiệu cho Mừng không được hỏi ba láp như thế nữa.
Vịnh-sưa hớt hải nhớn người lên, túm lấy thắt lưng Mừng kéo rị xuống, khẽ gắt:
- Cậu không thấy đội trưởng đang nói chuyện quan trọng đánh Tây cứu nước... cậu lại đi hỏi chuyện bậy bạ ho suyễn kinh niên?
Vịnh nhìn lên đội trưởng như có ý xin lỗi về sự thiếu sót của tổ viên mình: "Mừng nó mới vô Vệ Quốc Quân, nó còn dại lắm, anh tha lỗi cho nó" cặp mắt nó như muốn nói vậy.
Đội trưởng vẫn không rời mắt nhìn Mừng. Anh đang tự hỏi:
"Làm sao chú bé không nhà cửa, không mẹ không cha không có cả họ này lại đặc biệt quan tâm đến người mắc bệnh hen suyễn?". Anh chợt nhớ cách đây dăm hôm. Lúc đó cũng đã đến mười, mười một giờ đêm, anh đang ngồi soạn khoa mục cho buổi tập sáng mai. Chợt Vịnh-sưa đẩy cửa bước vào đứng nghiêm báo cáo: "Báo cáo anh, Mừng nó rất vô kỷ luật. Em vừa bắt gặp nó trèo tót lên tận ngọn cây bút bút đằng sau doanh trại, cái cây cao nhất vườn mà anh có lệnh cấm không được ai trèo lên ấy...". Anh phải sợ hãi kêu lên: "Trời! Cái thằng! Đêm hôm khuya khoắt thế này nó trèo lên làm gì trên ấy? Ngã một cái thì tan xương còn gì". Vịnh nói: "Dạ, nó trèo để hái lá tầm gửi đậu cheo leo trên cái ngọn chót vót nhất ấy. Hái cả một ôm tướng". Em gọi nó xuống hỏi: "Cậu hái làm chi cái thứ lá ba láp đó mà trèo cây giữa lúc nửa đêm, lỡ ngã mần răng?" Nó cãi lại em: "Thứ lá tầm gửi ni quý lắm chứ anh tưởng! Cắt nhỏ, phơi khô, sao vàng, hạ thổ, rồi sắc lên mà uống thì mắc bệnh hen suyễn kinh niên nặng mấy cũng lành". Em tức quá hỏi: "Ai bày bậy bạ cho cậu rứa mà cũng dại dột nghe theo?" Nó nói: "Cụ Ba trà già nhất trong xóm tui bày. Đây là môn thuốc gia truyền quý nhất của cụ. Cụ thương tui lắm cụ mới bày cho. Chứ người khác a, có thuê vàng, cụ ấy cũng chẳng bày cho mô"...Chắc trong cuộc đời chú bé này có một uẩn khúc gì đây?" Anh nghĩ vậy rồi ôn tồn hỏi:
- Em muốn biết sau khi đã đánh đuổi hết bọn thực dân, nước ta đã được hoàn toàn độc lập, thì những người bị mắc bệnh hen suyễn kinh niên có thể chữa lành được không, có phải thế không em?
- Dạ phải ạ... - Mừng trả lời, giọng hồi hộp.
- Vậy thì anh xin cả quyết nói với em rằng, không những chỉ bệnh hen suyễn kinh niên, mà cả những bệnh hiểm nghèo khác, cũng sẽ được chữa khỏi. Vì lúc đó mọi thứ thuốc men tốt nhất, mọi thứ máy móc dụng cụ chữa bệnh công hiệu nhất, đều được dành để chữa cho nhân dân lao động, trong đó có các em, cha mẹ, ông bà các em. Những thứ này, dưới thời nô lệ, chỉ dành riêng cho bọn thực dân, vua quan, bọn giàu có, lắm tiền nhiều của mà thôi, những người như anh em chúng ta đừng có hòng mà rờ đến! Em còn muốn hỏi gì thêm nữa không?
- Dạ thôi ạ. - Mừng vui sướng đáp to. Cặp mắt của em ngời lên, long lanh dưới bóng sẫm vành mũ cứng đội sụp quá nửa mặt, ngước nhìn đội trưởng cảm kích, biết ơn.
Rồi như không sao kiềm giữ nổi niềm sao xuyến, bồng bột trong lòng, Mừng chồm qua vai Vịnh-sưa thì thào nói với Tư-dát:
- Anh Tư nì, độc lập sướng quá anh hè?
Tư-dát cho câu hỏi của Mừng là thừa. Nó đáp, không thèm quay đầu lại:
- Chuyện! Độc lập mà không sướng thì tội vạ chi cả nước lăn lưng ra Mặt trận nện nhau với tụi Tây, bể đầu chảy máu!
10.
Phía mặt trận tiếng súng thưa dần. Một vài tràng nổ rời rạc trước khi tắt hẳn. Đêm đã khuya lắm, bên ngoài trời vẫn rả rích mưa...
Trong ngôi lầu "doanh trại" đã im hẳn tiếng rì rầm chuyện trò của các chiến sĩ nhỏ tuổi.
Từng tổ một, nằm úp thìa trên những tấm phản, những mặt bàn kê liền nhau, ôm nhau ngủ ngon lành. Nhiều chiếc chăn bị đạp tung, mấp mé tụt xuống đất. Có đứa nằm xoay ngang đầu lộn xuống chân, chân gác lên bụng bạn nằm bên cạnh. Có đứa bật lên cười khúc khích, ú ớ nói mê... Có lẽ đây là giấc ngủ ngon lành bình thản nhất của những chiến sĩ trước giờ ra trận.
Ngôi lầu chìm nghỉm trong bóng tối sâu thẳm, ướt át mưa đêm. Chỉ còn một khoảng sáng rất nhỏ ở tầng gác hai. Đó là gian phòng làm việc của đội trưởng. Anh đang ngồi cắm cúi viết dưới ánh sáng tù mù của ngọn đèn bão. Anh chuẩn bị giấy tờ cho các tổ sáng mai đến nhận nhiệm vụ ở các đơn vị. Anh nghiên cứu sắp xếp phiên chế lại các tổ, để làm sao mỗi tổ đều có đội viên đã từng được tham gia chiến đấu, và đội viên mới; đội viên giỏi chuyên môn, nhanh nhẹn, tháo vát và đội viên chậm, ít sáng kiến...
Sau khi soát lại danh sách đội viên và đọc kỹ lý lịch của các em, anh phát hiện ra rằng quá hai phần ba số đội viên đã nhập ngũ rất sớm. Các em Du, Phát, Chà, Nghĩa- kỳ, Ba, Châu, Lượm, Quỳnh, Tề, Dật... có em nhập ngũ tháng 12 năm 1945, có em tháng 1 năm 1946. Hơn một nửa số đội viên đã tham gia chiến đấu từ ngày đầu nổ súng.
Trường hợp nhập ngũ của nhiều em thật đặc biệt và khá tức cười, hiếm thấy trong lý lịch các chiến sĩ lớn tuổi. Nếu Cách Mạng là một dòng sông, và cuộc đời của mỗi chiến sĩ là một con suối đổ vào dòng sông đó, thì các em lại là những tia nước nhỏ bé, bất ngờ vọt ra từ một kẽ đá, một vết nứt trên thân cây, hoặc trút xuống từ một đài hoa gió thổi nghiêng... Nhưng cái điều kỳ thú là những tia nước mỏng manh nhỏ bé ấy đã tự len lỏi hoà vào dòng sông Cách Mạng hùng vĩ, lúc nào không ai hay.
Trước khi vào Vệ Quốc Đoàn, Hoà-đen làm nghề bán đậu phụng rang nóng dòn.
Em Bồng lại chuyên nghề "bánh mì mới ra lò" từ năm mười hai tuổi. Những buổi sáng mùa đông mưa dầm lạnh cắt ruột, trong lúc những đứa trẻ khác bằng tuổi nó còn nằm cuộn tròn trong chăn ấm, mếu máo với quà sáng, Bồng phải mong manh áo cộc, quần đùi, đứng run lập cập trước lò bánh chờ đến lượt đếm bánh. Đếm xong, nó khoác cái bị bánh to che khuất cả người lên vai, đi vòng hết phố này sang phố khác. Nó cố lấy hơi để rao cho những người đang cuộn tròn trong chăn ấm nghe tiếng: "Bánh mì nóng giòn mới ra lò đê...ê...ê". Hồi bọn Tàu Tưởng còn đóng ở Huế, một hôm, nó thừa cơ nẫng luôn của một tên lính Tàu say rượu, khẩu súng "tôm- sơn" nước thép còn xanh biếc. Nó tuồn khẩu súng vào bị bánh mì, rồi đàng hoàng khoác lên vai lảnh lót rao: "Ai... bánh mì nóng mới ra lò đê...ê..." Nó đi thẳng đến đơn vị Vệ Quốc Đoàn đang ở Cung An Định mà sáng sáng nó vẫn thường bán bánh cho các anh. Nó nộp các anh khẩu súng mà báng và nòng còn nóng sực vì bị vùi giữa đống bánh mì nóng mới ra lò. Nó ủng hộ luôn cả bị bánh mì để các anh "thời" cho ấm bụng. Nó nói: "Bị bánh là của nhà chủ. Mất bớt một bị, lão ta chẳng nghèo đi mô mà các anh lo. Còn khẩu súng là của em. Các anh phải thưởng công cho em, cho em được vô Vệ Quốc Đoàn. Em chán cái kiếp đi ở tớ cho người ta lắm rồi!"
Tư-dát, cái chú đội viên miệng liến láu suốt ngày, lúc nào cũng làm trò hề chọc cho cả đội cười, và nhát gan thì không ai bằng, thế mà đã từng làm một việc liều lĩnh nhất đời. Trên đường đi học về - nó học năm đệ nhất trung học trường Khải Định - Nó ghé vào Ga Lớn xem tàu hoả đỗ lại. Đúng hôm đó, cả đoàn tàu chở Vệ Quốc Quân nam tiến. Các anh ngồi trên các toa tàu căng đầy khẩu hiệu, biểu ngữ: "Nam bộ là máu của máu Việt Nam, là thịt của thịt Việt Nam!" "Thà chết không quay lại đời nô lệ!..." Các anh rập ràng vỗ tay hát vang: "Xếp bút nghiên lên đường tranh đấu... Xếp bút nghiên coi thường công danh..." Nó liền liệng luôn cái cặp sách xuống sông, lén nhảy lên tàu, trốn theo đoàn quân Nam tiến. Tàu đến ga Truồi, nó mới bị phát hiện và giữ lại. Người ta nhờ chuyến tàu ra Huế gửi trả chú về nhà. Nhưng nó cứ bíu chặt lấy các anh Vệ Quốc Quân Nam tiến mà khóc: "Các anh mà trả em về nhà thì cha mạ em tuốt xương em ra. Cha mạ em dữ đòn lắm!" Các anh hỏi: "Nhưng chú mình nghĩ ngợi cách răng mà đang đi học lại nhảy bừa lên tàu trốn vô thấu đây?" Chú liến láu nói: "Chỉ tại các anh hết. Các anh cứ vỗ tay mà hát rầm trời: Xếp bút nghiên lên đường tranh đấu... làm em không nhịn nổi, phải xếp bút nghiên theo các anh...", - "Rứa bút nghiên chú mình xếp vô mô cả rồi?", - "Dạ em xếp hết xuống sông Hương với cả cái cặp da mới nữa... Bởi rứa chừ mà về nhà thì cha mạ em tuốt xương em ra...". Chú cứ vừa mếu, vừa khóc vừa liến láu làm các anh không nhịn được cười. Cuối cùng các anh đành phải cho chú nhập đơn vị. Đơn vị chú vào đến ga Lăng Cô, được điện của Ban chỉ huy trung đoàn chỉ thị ở lại đây bổ xung cho tiểu đoàn Mười Tám lúc này đang đóng ở vùng Nước Ngọt, Cần Hai. Tư-dát trở thành liên lạc viên của tiểu đoàn Mười Tám từ đó.
Rồi trường hợp nhập ngũ của các em Lượm, Châu, Ba, Kỳ, Quỳnh... Của Vệ-to-đầu...Và gần đây nhất là trường hợp nhập ngũ của Mừng... Mà mỗi lần chợt nghĩ đến anh lại phải bật cười: Cái thằng...
Đội trưởng Lê Thắng trước cách mạng Tháng Tám là học sinh trường Kỹ Nghệ thực hành Huế. Ngay sau ngày Cách mạng thành công, anh ra nhập Vệ Quốc Đoàn và được đề bạt làm Trung đội trưởng chỉ huy một trung đội Tiếp Phòng Quân. Mấy tháng sau, anh được điều động về ban Tham mưu trung đoàn công tác ở Phòng Tình báo. Huế nổ súng. Ban Tham Mưu quyết định tập trung tất cả các em liên lạc của trung đoàn, thành lập đội Thiếu niên trinh sát. Tham mưu trưởng chỉ định anh về phụ trách Đội. Thật tình lúc được trao nhiệm vụ, anh chẳng lấy gì làm phấn khởi. 'Một sĩ quan tình báo lại về chỉ huy một sắp trẻ con hỉ mũi chưa sạch, thật chán chết!". Anh thầm nghĩ vậy. Nhưng chỉ sau một thời gian sống gần gũi các em, để tâm tình tìm hiểu hoàn cảnh gia đình và trường hợp tham gia bộ đội của mỗi em, anh trở nên gắn bó, yêu mến cái đơn vị nhỏ bé này biết bao.
Thật ra, khi chưa tiếp xúc với các em, anh đã nghĩ về các em với kinh nghiệm cuả bản thân. Đời anh cũng có một quãng tuổi thơ như các chiến sĩ nhỏ tuổi mà anh đang phụ trách, chỉ huy. Nhưng đó là một tuổi thơ tầm thường. Chẳng có gì đáng ghi nhớ... Những trò nghịch ngợm ranh mãnh, những trận đòn của bố mẹ, những lo lắng hồi hộp trước các kỳ thi.... Quãng tuổi thơ đó lướt qua cuộc đời anh không để lại dấu vết gì, như dòng nước lặng lẽ chảy qua một khoảng trời bằng phẳng và dốc. So với tuổi thơ các chiến sĩ bé nhỏ anh đang phụ trách, khác xa biết bao! "Trong tương lai - anh thầm nghĩ - các đội viên của anh, qua cuộc chiến đấu vĩ đại này, sẽ hổi tưởng lại tuổi thơ của mình. Ôi, tuổi thơ của đời ta đẹp đẽ biết bao! Nó đã được gắn liền với vận mệnh, với sự sống còn của đất nước và của Cách Mạng từ thuở còn trứng nước!"
11.
Đội trưởng mải mê chìm đắm trong công việc và suy tưởng, nên không nghe thấy tiếng cánh cửa kẹt mở và tiếng chân rón rén bước vào phòng.
Một ngọn gió lạnh thổi thốc vào làm ngọn đèn dầu trên bàn lung lay, chao đảo. Anh vội đưa bàn tay khum khum che chỗ thủng trên bóng đèn và ngẩng lên.
Vịnh-sưa đang đứng trước mặt anh. Anh ngạc nhiên, đặt bút xuống hỏi:
- Sao em chưa đi ngủ? Có việc gì thế em?
Vịnh-sưa đứng nghiêm lại:
- Báo cáo anh, Mừng nó bỏ trốn khỏi đội!
- Trốn à? Trốn từ bao giờ? - Đội trưởng hỏi như có vẻ không tin chuyện đó. - Đầu đuôi ra sao em kể anh nghe xem nào.
- Cách đây khoảng nửa giờ, em đang ngủ bỗng choàng tỉnh dậy. Em đưa tay sờ thì không thấy Mừng nằm cạnh em. Em tưởng nó ngủ mê lăn rớt xuống đất như mấy lần trước. Em nhảy xuống đất, sờ khắp cả buồng cũng không thấy. Em đoán hay là nó đau bụng ra vườn đi ca-bi-nê. Em nằm chờ một lúc lâu không thấy nó trở vô. Em lo quá, lỡ nó đang dâu gặp phải gió lạnh rồi ngất luôn ở ngoài đó. Rứa là em chạy ngay ra vườn để tìm. Vườn tối quá lại thêm mưa lắc rắc. Em tìm quanh tìm quẩn mãi. Chợt nghe có tiếng khóc thút thít ở chỗ góc cuối vườn. Em chạy lại hỏi: "Có phải mi đó không Mừng?" Nó không nói chi hết, cứ ngồi thu lu ở gốc cây mà khóc to hơn. Em hỏi chi nó cũng không nói, cứ khóc hoài. Tức quá, em nói: "Được, cậu cứ ngồi đó mà khóc cho chán đi. Tớ vô báo cáo với đội trưởng là đang nửa đêm cậu bỏ trốn khỏi đội" Rứa là nó đứng ngay dậy, níu lấy tay em van vỉ: "Đừng, anh đừng báo cáo với đội trưởng mà tội tui... Anh tha cho tui lần ni, lần sau tui không dám làm rứa nữa mô..."
- Thế bây giờ Mừng đâu rồi?
- Dạ nó đã đi vô đứng trong mái hiên gần bếp. Mà nó cứ khóc, em dỗ chi nó cũng không nín.
- Nhưng em căn cứ vào đâu mà cho là Mừng định bỏ trốn khỏi Đội?
- Nó không định bỏ trốn thì can chi nửa đêm lại mò ra ngoài vườn ngồi khóc một mình dưới trời mưa? Em chắc nó nghe tin ngày mai Đội ra mặt trận, nó sợ, định bỏ trốn. nhưng ra đến ngoài vườn trời tối quá, không biết đường mô mà mò đi, nên đành ngồi khóc... Em không ngờ nó hèn đến nước ấy! Nó làm xấu mặt cho cả tổ em! Vịnh-sưa kết thúc câu chuyện với giọng tức tối, phẫn nộ.
- Em xuống gọi Mừng lên đây anh gặp.
- Rõ! Vịnh-sưa đưa tay lên ngang mày chào anh, quay ra với động tác đằng sau quay. Đội trưởng nhìn theo cái dáng nhỏ bé của Vịnh, khuất dần dưới các bậc cầu thang, thầm nghĩ: "Chú bé này tương lai sẽ là một chiến sĩ kiểu mẫu trong sinh hoạt cũng như trong chiến đấu. Và nếu chú ta được đề bạt làm chính trị viên, chắc chắn sẽ là một chính trị viên rất cừ".
Lát sau, Vịnh-sưa dẫn Mừng vào phòng. Vịnh đứng lùi lại khuất sau cái bệ lò sưởi. Mừng bước đến giữa phòng đứng sững lại, nhìn đội trưởng với đôi mắt của người sẵn sàng nhận tội. Cái mũ cứng và bộ quân phục rộng thùng thình của nó thẫm lại từng mảng lớn vì thấm ướt nước mưa. Chắc nó ở ngoài trời đã khá lâu, hai má và mắt nhoè nhoẹt nước mưa lẫn nước mắt. Cả gương mặt nó có một vẻ gì buồn khổ khôn tả. Nhìn nó đội trưởng bỗng thấy nhói trong tim.
- Lại gần đây anh hỏi. - Đội trưởng nói giọng đặc biệt dịu dàng.
Mừng rụt rè bước lại, tì ngực vào mép bàn:
- Tại răng đang nửa đêm em lại ra ngồi ngoài vườn mà khóc?
Mừng vừa nói vừa nấc nhè nhẹ:
- Dạ... Em lỡ lần ni... Anh tha cho em... Lần sau em không dám rứa nữa...
- Có phải em định bỏ trốn khỏi Đội không?
Mừng cúi đầu khẽ gật:
- Dạ...
- Tại sao em lại trốn? Có phải em sợ ra mặt trận không? Nếu sợ, em cứ việc báo cáo với anh, anh sẽ cho em ra ngay khỏi Đội, việc gì phải trốn?
- Dạ... em có sợ chi cái chuyện ra mặt trận... - Mừng nấc to, một giọt nước mắt rơi xuống mặt bàn, nó vội đưa tay chùi đi và nói tiếp, giọng thổn thức.
- Dạ, em chỉ trốn đi một lúc rồi em lại quay về thôi mà...
- Em định trốn đi đâu mà chỉ trốn có một lúc?
- Dạ... dạ... em trốn về thăm mạ em...
- Thăm mạ à? - Đội trưởng sửng sốt. - Sao hôm xin nhập đội em khai là không có cha mạ chi hết, đi ở giữ em cho người ta?
- Dạ em nói rứa bởi sợ anh không cho em nhập Đội, bắt phải về xin phép mạ...
- Rứa mạ em làm nghề chi? Ngoài mạ ra nhà em còn ai nữa không? Em ngồi xuống đây kẻo mỏi chân.
Đội trưởng kéo Mừng ngồi xuống cái ghế đẩu cạnh anh. Anh dở mũ ướt thẫm nước trên đầu nó, đặt vào góc bàn, và rút mùi xoa lau mắt cho em. - Hãy kể cho anh nghe chuyện nhà em đi. - Giọng anh như giọng mẹ dỗ con.
Mừng biết là không thể giấu đội trưởng được nữa. Không kể cho anh nghe hết mọi chuyện, e chắc anh đuổi mình ra khỏi đội mất, nó tự nhủ thầm vậy.
Tranh cái nhìn dò hỏi của đội trưởng, hai mắt nó nhìn chăm chăm vào cái mũ ướt thấm nước mưa để ở góc bàn nó kể không mạch lạc, chốc chốc phải ngừng lại, cặp môi run rẩy cố nuốt tiếng khóc nấc chực trào lên cổ...
... Nhà em ở cuối đường kiệt nhớp nhúa nhất xóm Bao Vinh. - cái xóm ngoại ô nghèo khổ phía bắc thành Huế.
Mỗi lần trời mưa to, nước chẩy tứ tung trong nhà, mạ em phải lấy mo nang mà dọi. Dọi được chỗ ni lại dột qua chỗ khác. Nhiều bữa ngồi trong nhà mà hai mạ con phải đội nón. Trong nhà chỉ có bức phản mọt gãy mất một chân, phải kê thay chồng gạch. Với thêm cái chõng tre vừa hai mạ con nằm. Cái sân trước nhà rêu phủ xanh lè lè, trời mưa, vô ra không bấm chân là vồ ếch ngay...
Mạ em là chị Niệm, làm nghề bán bún bò gánh. Bún bò của mạ em ngon mà rẻ nhất chợ Bao Vinh. Buổi sáng, ai cũng hong hóng chờ "Gánh bún bò chị Niệm" mới ăn.
Trước tê nhà còn có cha em. Cha em tên là Năm, mặt rất dài nên cả xóm gọi là ông Năm-ngựa. Cha em cao to mà dữ tợn ghê lắm, ngực xăm đầy rồng rắn. Cha em rất giỏi võ, trong người lúc mô cũng dắt dao. Cả vùng Bao Vinh ai cũng kiềng. Đã có hai tay anh chị ngoài bến Bao Vinh bị cha em chém xả cánh tay....
Cách đây đã lâu, cha bỏ mạ em, đi lấy vợ hai bên Phú Cam rồi ở luôn bên đó. Nhưng cứ năm bữa nửa tháng, cha em lại mò về nhà, hạch sách hành hạ mạ em. Bắt mạ em phải mua rượu, lòng heo, nước mắm ngon về cho ăn, ăn xong lại quệt miệng đi. Gặp bữa mạ mua phải lòng heo không béo, không ngon, cha co chân đá phốc hết xuống đất, rồi chửi, đập mạ em tối tăm mặt mũi. Nhiều lần cha còn lột hết áo quần của mạ. Cột tóc mạ vô chân cột nhà, rồi cầm thanh củi mà phang. Đánh chán, cha cứ để mặc mạ nằm đó, bỏ đi. Em phải tháo tóc ra cho mạ, đỡ mạ em ngồi dậy. Đầu mạ em loà lên những máu... máu bết tóc lại thành nắm... Tóc mạ trước kia dài lắm, thả ra chải gần chấm gót. Rứa mà chừ rụng gần hết, búi lại chỉ còn lọn nhỏ hơn nắm tay em...
Mỗi lần thấy bóng cha về thấp thoáng ngoài ngõ là em lủi ngay xuống bếp hay chui rào tót ra ngoài đường. Rồi cứ đứng đó khóc nghe cha mắng chửi đánh đập mạ trong nhà. Chờ cho cha đi khuất, em mới dám chạy vô, ôm mạ mà khóc. Có lần em tức quá hỏi mạ: "Cha đã đánh đập mạ hoài rứa, lại bỏ mạ mà đi, răng mạ còn cứ mua rượu, lòng heo với nước mắm ngon cho cha ăn làm chi cho uổng?". Mạ em ôm em khóc mà nói: "Đời mạ đắng cay cực khổ lắm con ơi...! Cha hành hạ đánh đập mạ chừng đó chứ hơn nữa mạ cũng phải cắn răng mà chịu. Mạ mắc ơn cha con nặng lắm con ơi...". Em thắc mắc: "Ơn chi rứa mạ?". Nhưng mạ em chỉ ôm chặt em hơn khóc nấc không thành tiếng, nhìn em với cặp mắt buồn rười rượi: "Con còn nhỏ dại quá... mạ làm răng nói cho con hiểu thấu được lòng mạ con ơi!"
Một bữa, em ra sông tắm, lúc chạy về đến đầu ngõ thì nghe tiếng cha quát tháo trong nhà. Em liền vòng ra lối sau chui rào, rón rén đi vô hè nhà, ghé mắt nhìn qua lỗ phên thủng. Cha em đang ngồi trên phản, trước mặt là cái mâm gỗ đặt một đĩa lòng heo, chén nước mắm, chai rượu. Nhưng không thấy cha ăn uống chi hết. Cha ngồi một chân co trên phản mắt trừng trừng ngó mạ. Mạ ngồi xệt dưới đất, ngước lên nhìn cha. Cha dằn giọng quát: "Không có lôi thôi, mi có đưa đây không thì nói cho tao biết!". Em thắc mắc: "Không biết cha đòi mạ đưa cái chi mà gắt gao rứa?" Mạ khóc mếu máo, nói: "Tui lạy anh trăm lạy, nghìn lạy. Anh thương lấy mạ con rui, cả đời rui chắt bóp, nhịn đói nhịn khát, mới để dành cho con được một chút đó. Chừ anh mà lấy đi thì cực mạ con tui quá anh ơi! Thân tui đây, anh muốn hành hạ, đánh đập chi tuỳ ý, nhưng xin anh đừng lấy... Tội nghiệp tui lắm anh ơi...". Cha em hừ lên một tiếng hung tợn: "Đánh mi chỉ thêm nhớp tay! Đánh một con đĩ thì thà đánh con chó còn hơn!" Nghe cha nói, em suýt kêu to lên: "Ui chao! Răng cha lại nỡ nhiếc mắng mạ cái tiếng xấu xa đó?" Mừng chợt nhớ có một lần, cùng với tụi bạn trong xóm, nó chạy đuổi theo một người đàn bà, quần áo xốc xếch, mặt mũi son phấn loè loẹt. Nó cùng với các bạn cùng hò reo, vừa ném lõi bắp, vỏ chuối vô lưng, vô đầu tóc người đàn bà: "Con đĩ! Con đĩ!" Có một đứa ném hòn đá trúng đầu người đàn bà, máu rịn ra ướt đỏ cả chân tóc. Nó không biết "con đĩ" là con chi, chỉ ham vui hùa theo tụi bạn và một số người lớn, để hành hạ người đàn bà tội nghiệp đó. Trong trí tưởng tượng của nó "con đĩ" là một loại người xấu xa gớm ghiếc cũng như con chó dại, con rắn độc... Mặt bừng bừng vui thích, nó chạy một mạch về nhà, gọi mạ từ ngoài ngõ: "Con đĩ! Mạ ơi con đĩ". Mạ từ trong bếp bước ra đứng chôn chân nhìn em mặt tái xanh như tàu lá. Nó nhìn mạ, tự nhiên phát sợ, lo lắng hỏi: "Mạ đau hay làm răng rứa mạ?" Mặt mạ vẫn tái xanh run rẩy hỏi: "Con vừa kêu mạ cái chi rứa con?" Nó khoe: "Ngoài phố có con đĩ mạ ạ. Tụi con chạy theo quăng vỏ chuối, cùi bắp, như mưa! Quăng sướng tay thôi! Con quăng cho con đĩ cái cùi bắp trúng bốp giữa lưng!" Nó tưởng mạ sẽ cười khen: "Con của mạ quăng giỏi thiệt!" Nhưng mạ không cười. Môi mạ tự nhiên trắng nhợt như tờ giấy. Cặp mắt mạ nhìn nó lúc đó sao giống hệt cặp mắt con chim nhỏ lúc người ta bóp cổ cho chết để làm thịt! Nó níu vạt áo mạ hoảng sợ kêu: "Mạ, mạ! Làm răng rứa mạ?". Mạ đặt bàn tay lên đầu nó, nói giọng run run: "Răng con lại đi ném người ta làm chi con? Lần sau con không được làm như rứa mà tội chết đó con". Nó nói: "Nhưng là con đĩ mà mạ?" Mạ bỗng như bị kiệt sức, không đứng vững được nữa, ngồi thụp xuống đất, kéo vào lòng. Giọng mạ như sắp khóc "Người ta cùng đường kiệt lối mới đến nông nỗi đó con ơi.... Phải thương xót lấy họ... Con còn nhỏ dại quá... con đã hiểu chi việc đời". Câu chuyện cũ hiện lên như một cái dằm lớn đâm suốt trí nhớ nó. Nó thấy ruột đau quặn lạ kỳ, hai bàn tay phải bíu chặt vào cái cột mái hè, mới đứng vững.
Mừng nức nở kể tiếp:
... Bên trong nhà, mặt mạ bỗng đanh lại, nhìn cha với cặp mắt của người cùng đường. Mạ nói: "Anh có giết tui thì giết, chứ tui không đưa cho anh mô!" Cha em trễ môi phì một tiếng, nói: "Giết mi làm chi cho thêm nhớp tay. Mi mà không đưa, tao ngồi đây chờ thằng con mi về tao sẽ nói rõ ngọn ngành cho hắn biết mi là một con đàn bà nhơ nhớp như răng. Thằng con mi sẽ khinh mi chẳng khác chi con chó!" Như bị cha đập một búa trúng giữa thóp, mạ kinh hoàng ngồi dật lùi lại, kêu to:" Ui chao ôi, răng mà anh độc ác đến nước nơ! Anh róc xương hút tuỷ cả một đời tôi chưa đủ, mà anh lại còn nỡ lòng mô?..."
Mạ chống tay run rẩy đứng lên, vịn vịn dọc theo phên đi vô buồng, lát sau mạ trở lại, một bàn tay nắm chặt khư khư cái gì đó. Đi đến trước mặt cha, mạ mở xoà bàn tay ra. Giữa lòng bàn tay mạ là đôi bông tai vàng. Đôi bông tai mà mạ thường cất trong cái hộp diêm nhét đầy bông gòn, thỉnh thoảng lại lấy ra cho em coi và nói: "Mạ cất để dành khi mô con lớn mạ cưới vợ cho con...". Mạ em nói, mặt rúm ró. Giọng lào thào như người bị hụt hơi: "Còn một chút đây, anh lấy luôn đi, rồi anh đi đi, đi luôn đi cho khuất mắt tui! Xin anh đừng về đây mà hành hạ mạ con tôi..." Như con cọp thấy mồi, đang ngồi, cha chồm ngay dậy, chộp lấy đôi bông tai vàng trong tay mạ đút liền vô bọc. Mạ vẫn đứng sững, ngó trân trân lòng bàn tay trống rỗng, cặp mắt dại hẳn đi. Bất ngờ mạ kêu to một tiếng xé ruột, rồi ngã vật xuống đất như bị chặt lìa ngang chân. Cha em bước qua người mạ, cắm đầu đi thẳng ra ngõ...
"Đời mô con dám khinh mạ, mạ ơi!" Mừng bỗng nức nở tưởng như trước mắt không phải là đội trưởng mà là mạ đang nằm vật dưới đất, đầu tóc rũ rượi. Nó oà khóc, nước mắt chan hoà trên hai má, nhỏ liên tiếp xuống bàn. Đội trưởng phải đứng lên, ôm chặt nó vào lòng. Hai mắt anh cũng đỏ hoe...
- Nín đi em, nín đi... Anh không ngờ em lại khổ đến thế!
"...Mạ em bị mắc bệnh hen suyễn nặng. - Mừng lau nước mắt, kể tiếp. - Thêm vô đó cha em cứ nhè vô giữa ngực mạ mà đá, mà đạp, nên càng ngày càng nặng hơn, hễ động trời là cơn hen suyễn lại hành hạ mạ. Có khi hai ba ngày liền, mạ ngồi gò lưng ôm ngực mà ho khan, khò khè kéo suyễn, em không sức nào chịu nổi. Em thấy ngực em cũng tức ran theo như bị ai dìm lâu xuống nước. Thương mạ, em khóc hết nước mắt. Em rang muối, bọc vào cái vạt áo rách, chườm ngực cho mạ. Em chườm cho đến tận đêm khuya, hai tay mỏi rời, các nhà hàng xóm đã tắt đèn đi ngủ hết, vẫn còn chườm... Mạ em cứ giục hoài: "Con đi ngủ đi, mạ thấy đỡ nhiều rồi!" em vẫn không chịu đi. Đến lúc mệt quá, em gục vô lòng mạ ngủ thiếp lúc mô không hay...
Một bữa, cụ Ba Trà già nhất xóm, mách cho em: "Thứ lá tầm gửi đậu trên ngọn cây bút bút thật cao, chữa bệnh hen suyễn còn hay hơn thuốc tiên. Nhưng phải hái vào lúc nửa đêm, lúc lá đang ăn khí trời, uống sương móc, thì mới công hiệu. Lá phơi khô, sao vàng, hạ thổ, bỏ vô nồi đất, đổ năm chén nước trong, sắc lấy một chén. Chỉ uống chừng năm chén là bệnh rút, chục chén là bệnh khỏi".
Từ bữa đó, nó quyết đi tìm thứ lá thuốc tiên đó, chữa bệnh cho mạ. Khắp cả một vùng Bao Vinh, Bãi Dâu, không có ngọn cây bút bút nào nó chưa trèo lên tìm lá tầm gửi. Nhưng không tìm thấy. Nó tìm lần lên các ngọn cây bút bút ở vùng Đông Ba, Gia Hội. Tìm hết cả vùng ni rồi mà cũng không thấy, nó qua bên tê sông Hương, tìm từ Đập Đá, qua trường Khải Định, lên đến Ga Lớn. Rồi vòng về Bến Ngự, lên miệt Nam Giao...
Đi tìm lá thuốc nó phải dấu mạ. Mạ mà biết, đời nào mạ để cho đi. Mạ sợ nó trèo cao, lỡ ngã chết tan xương mất giống. Đã biết bao nhiêu lần nó ngồi khóc một mình dưới các gốc cây bút bút, sau khi đã trèo lên tụt xuống, sầy hết cả da bụng...
Trước ngày Huế nổ súng chừng một tháng, tình cờ nó phát hiện được, trên ngọn cây bút bút cao nhất trong khu vườn đằng sau doanh trại này, có đậu một tán lá tầm gửi rất to. Nó mừng quá. Nhưng khó cái là dạo đó ngôi lầu doanh trại có Vệ Quốc Đoàn đóng đông lắm. Ngoài cổng sắt lúc nào cũng có các anh cầm súng đứng gác. Rào sắt vây xung quanh vườn tuy cao, lại có mũi nhọn nhưng nó thừa sức trèo vào. Nó chỉ sợ các anh nghi là Việt gian, trèo rào vô ăn cắp. Đã hàng mấy chục lần nó đi vòng quanh hàng rào sắt ngôi lầu này, mắt hong hóng ngó vô vườn... Các anh lính gác liền sinh nghi, một lần nó đã bị một anh gọi lại, nghiêm mặt hỏi: "Làm chi mà ngày mô tôi cũng bắt gặp chú loanh quanh lẩn quẩn ở đây, hả? Tôi mà còn bắt gặp một lần nữa tôi sẽ cho chú vô tù nghe chưa?" Sau cái lần đó, nó không còn dám bén mảng đến gần ngôi lầu này nữa. Chỉ dám đứng từ xa mà ngó lại.
Sau ngày Mặt trận Huế nổ súng, nó đoán chắc ngôi lầu bỏ trống, vì bộ đội phải ra Mặt trận, ở lại đó làm chi? Nó tìm cách lọt qua cầu Bao Vinh, chạy một mạch đến ngôi lầu, bụng mừng khấp khởi, chuyến ni răng cũng tìm được thuốc cho mạ. Nhưng ai ngờ bộ đội người lớn rút đi rồi, lại có bộ đội con nít tới đóng. Nó buồn phát khóc lên lúc đó ở nhà mạ lại đang lên cơn hen suyễn. Nó về nằm nghĩ mãi, cuối cùng tìm ra được một mẹo: "Vọt qua cầu Bao Vinh thật sớm, chạy theo toán bộ đội con nít đó, rồi lừa lúc không ai để ý lén chui vào giữa hàng mà về ngôi lầu. Khi đã vào được bên trong rồi, nó sẽ lẻn ra vườn, trèo tót lên ngọn cây bút bút, nằm chờ trên đó cho đến lúc nửa đêm... Chờ cho đến lúc lá tầm gửi ăn no khí trời, uống no sương móc, như lời cụ Ba Trà dặn. Nó sẽ hái một ôm thật to, đủ cho mạ uống được mấy chục lần rồi trèo rào ra ngoài, trở về. Cái mưu mẹo hay ho đó, làm cho nó thao thức hoài không ngủ được. Nó tin chắc lần này công việc răng cũng trót lọt. Nhưng nó còn lo bộ áo quần. Nó để ý cả đội không ai mặc áo quần như mình. Đứa nào áo quần cũng rất oai như bộ đội người lớn. Mặc áo quần xấu xí như nó chui vô hàng e không khéo lộ mất... Hồi đầu năm, mạ có may cho nó một bộ áo quần rất đẹp. Cái áo "thơ- mi" có cổ tai chó với cái quần "soọc" vải xanh, hai bên có hai cái túi, mỗi túi đựng được một lon đầy bắp rang. Quần không có dải rút mà xung quanh cạp có những cái quai để luồn nịt da. Nhưng mạ nó chưa mua được nịt. Lấy áo quần ở thợ may về là mạ cất luôn vô rương. Nó xin mặc mạ nói: "Cất đó khi mô đến Tết hoặc con được vô Đội Thiếu nhi đánh trống cà rùng như mấy đứa trên phố thì mạ lấy cho mà mặc. Chứ bây giờ con mặc chỉ nhảy mấy bữa là rách tan thôi. Mình là con nhà nghèo, phải ăn mặc tùng tiệm con ạ!". Nó liền tung chăn chạy xuống bếp, nói với mạ: "Mạ ơi, sáng mai mạ cho con mặc bộ áo quần mới mạ hí!". Nó không dám nói lộ cho mạ biết chuyện "Ngoài phố, tụi bạn con đứa mô cũng mặc áo quần mới cả. Mạ cũng cho con mặc chứ cất hoài làm chi mạ?" Mạ nói: "Mạ đã nói rồi, mình là con nhà nghèo, ngày thường ăn mặc tùng tiệm răng xong thì hôi. Bộ áo quần đẹp đó phải để dành khi mô có lễ lạt rồi hẵng mặc." Nó nối dỗi "Rứa thì thôi, con không mặc nữa. Mạ cứ cất cho đến mục thì thôi!" Mạ nổi tức, quay lại phát cho nó một cái vào mông: "Không mặc thì tao cho đứa khác mặc! Đi lên đi ngủ". Nó leo lên giường nằm khóc tấm tức mãi...
Sáng hôm sau, nó lọt qua cầu Bao Vinh, chạy theo Đội lên đến cầu Đông Ba rồi chui bậy vào hàng...
Đội trưởng hỏi:
- Thế cái hôm đầu tiên nhập đội em có ra vườn trèo lên cây bút bút hai lá tầm gửi không?
- Dạ có...
- Sao em không trèo rào trốn đi như đã định mà ở lại?
- Tại... anh với các bạn thương em quá. Với thêm anh Vịnh nói với em: "Không chi xấu xa bằng đã vô bộ đội lại đào ngũ". Sau đó em còn được nghe anh giảng đánh đuổi hết tụi Tây cướp nước, giành được độc lập rồi thì ai ai cũng được sung sướng. Những người cực khổ như mạ em dù có mắc bệnh chi nặng mấy cũng được Chính phủ chữa cho lành... Em muốn theo các anh đánh Tây cho nước nhà được độc lập, để sau ni lỡ mạ em có mắc bệnh chi còn nặng hơn cả bệnh hen suyễn, cũng được Chính phủ chữa cho lành..."
Đội trưởng gật gật đầu, mỉm cười:
- Em biết lo xa như thế là rất phải. Thế bó lá tầm gửi hái được em có còn giữ không?
- Dạ còn chớ!... Tối ni em định trốn về một lúc để mang bó lá thuốc đó về cho mạ em. Em sợ mai lên mặt trận lỡ bom đạn làm cháy mất thì tiếc lắm...
- Em để nó ở đâu rồi?
- Em giấu trong cái hốc dưới chân cầu thang. Em sợ anh biết, anh la...
- Em xuống lấy lên đây cho anh coi thử. Anh cũng chưa được biết mặt mũi thứ lá thuốc quý đó.
Nét mặt Mừng vụt tươi hẳn lên. Em ngước nhìn anh như còn chưa thật tin. Rồi bất ngờ, em đứng lên chạy vụt ra khỏi phòng. Mấy phút sau, em chạy voà, tay ôm một cái gói. Em rụt rè đặt nó lên bàn cạnh đèn bão. Cái gói khá to, bọc bằng một miếng vải bạt nhem nhuốc xé bằng dây điện thoại. Đội trưởng mở ra, bên trong còn hai lớp giấy báo cũ nữa. Những cành lá khô màu xám nhạt, rất dài, được bẻ gập lại thành nhiều đoạn: thoảng bốc lên mùi nắng và hương nồng đắng của lá cây phơi khô.
- Em phơi từ bao giờ mà khô được thế này?
- Dạ, em phơi từ bữa lâu rồi... Hễ hôm mô có nắng là em đem ra phơi, em phải trèo lên nóc nhà trải phơi trên mái ngói.
- Trời đất! - Đội trưởng kêu lên, giọng không giấu được sợ hãi. - Mái nhà lầu ba tầng trơn tuột, lỡ trượt chân một cái thì còn gì là người!
- Dạ!... Phơi trên đó cao, nhiều nắng, nhiều gió, lá mau khô... với lại em sợ phơi ở dưới các bạn không biết, lỡ nghịch vứt đi...
- Nếu gặp phải một cây bút bút cao gấp hai gấp ba ngôi lầu ni liệu em có dám trèo lên hái không?
- Dạ cao mấy em cũng trèo... Miễn sao cho mạ em được lành bệnh...
Nghe giọng nói và nhìn vẻ mặt chú đội viên nhỏ của mình, đội trưởng bỗng thấy tin một cách lạ lùng rằng, chú ta sẽ sẵn sàng trèo tuốt lên bất kỳ một cây nào trên trái đất để tìm thuốc cho mẹ.
Anh cẩn thận bọc bó lá tầm gửi lại như cũ, đặt vào tay Mừng và nói:
- Có dịp anh sẽ cho em về phép, mang về cho mẹ, còn bây giờ em phải xuống đi ngủ. Đã quá nửa đêm rồi, mà sáng mai chúng ta còn phải lên Mặt trận sớm.
Mừng đứng lên, đội mũ, đứng nghiêm chào anh rồi cùng với Vịnh-sưa bước ra khỏi phòng.
Anh cũng đứng lên, nhìn hút theo em, tim đau nhói, thầm nghĩ:
- Nhỏ nhoi thế kia, mà chú ta đã phải chịu đựng những nỗi khổ nhường ấy!
* * *
Đang ngủ rất say, Vịnh-sưa vụt choàng tỉnh dậy. Có tiếng khóc thổn thức ngay cạnh tai em. Nó ngồi hẳn lên. Hoá ra Mừng khóc, vừa khóc, vừa nói mớ (nói mê, nói mơ). Vịnh đưa tay sờ má bạn, ui chao, cả hai má nó ướt đẫm nước mắt nóng hổi. Nước mắt chảy xuống thấm ướt cả vạt áo trấn thủ cậu tra đang gối đầu. Vịnh phải lay gọi một hồi lâu, Mừng mới tỉnh ngủ.
Vịnh cúi xuống thì thào hỏi:
- Mi nằm mơ chuyện chi mà khóc dữ rứa?
- Tui nắm mê được Đội trưởng cho phép về thăm mạ. - Giọng Mừng còn ướt nước mắt. - Tui mặc bộ áo quần Vệ Quốc Đoàn rất oai, lại còn đeo trên vai khẩu súng mới vừa cướp được của tụi Tây. Tui vừa bước vô đến sân, mạ tui đang ngồi nấu xáo bò dưới bếp, chạy ra đon đả chào mời: "Anh vô nhà xơi nước, ăn bún bò". Mạ tui tưởng tui là anh Vệ Quốc Đoàn mô. Tui bỏ mũ ra, ngó mạ, mà cười. Rứa là mạ tui đứng sững, ngõ tui trân trân rồi kêu oà lên: "Úi chao ôi, con ơi! Rứa chớ mấy lâu con bỏ mạ con đi mô, làm mạ khóc hết nước mắt nước mũi rứa con ơi là con ơi!". Tui nói: "Con đi Vệ Quốc Đoàn đánh Tây cho nước được độc lập chớ đi mô nữa mạ. Nước được độc lập thì sướng lắm mạ nờ. Lỡ mạ có mắc bệnh chi nặng mấy cũng được chính phủ cho vô nhà thương chữa cho lành hết mạ ạ. Mạ ơi, con đã tìm được lá tầm gửi đậu trên chót ngọn cây bút bút, chỗ Đội con ở. Thứ lá ni chữa bệnh hen xuyễn là hay nhất hạng mạ ạ. Hay hơn thuốc tiên! Để con vô lấy nồi sắc ngay cho mạ uống mạ hí!". Mạ tui liền cầm bó lá tầm gửi, chạy long tong khắp xóm, gặp ai cũng níu lại khoe: "Thằng con tui nó chưa chết. Nó đi Vệ Quốc Đoàn đánh Tây. Nó kiếm được lá tầm gửi hay hơn thuốc tiên về chữa bệnh cho rui... E chỉ nay mai là tui lành bệnh bà con ạ... Bà con mừng cho tui đi..."
Vừa lúc tui vô nhà tìm được cái nồi đất để sắc thuốc cho mạ, thì anh gọi thức tui dậy... Tiếc quá!
Chú thích:
* Việt gian
* Plongeon: nhảy (tiếng Pháp)
* Champion: vô địch (tiếng Pháp)
* cochon: con lợn (lời xỉ vả, tiếng Pháp)
Phần Thứ Hai
1.
Sáng hôm sau.
Không đợi còi báo thức của đội trưởng, cả Đội đã hò nhau thức dậy từ lúc trời chưa tờ mờ sáng. Ngôi lầu doanh trại lập tức ồn ào nhốn nháo tưởng như có cả một tiểu đoàn bộ đội đóng, chứ không phải chỉ có ba mươi hai đội viên thiếu niên.
Các em gấp chăn, giũ chiếu, buộc ba lô, tìm ca bát, tìm mũ... đi lại, chạy lên chạy xuống chóng cả mặt, gọi nhau í a í ới. Quỳnh, quản ca của đội, được các bạn đặt cho biệt hiệu là Quỳnh-sơn-ca, vai khoác ba lô cóc, nhảy đứng lên trên cái bàn kê chính giữa phòng, nó trạc tuổi Mừng, tóc óng mượt như tơ, da trắng mịn như trứng gà bóc, môi đỏ như son tươi. Nó là đội viên độc nhất trong đội biết đọc các bản nhạc, biết chơi đàn măng đô lin, pianô. Nó là con viên quan tuần Phủ, có ngôi biệt thự hai tầng đẹp nhất ở vùng Vĩ Dạ. Trước Cách Mạng, những người trong vùng thường kính cẩn gọi cha mẹ nó là cụ Tuần Vi. Ngày đó, Mừng còn đi lang thang tìm thuốc cho mạ, nhiều lần đã đi qua ngôi biệt thự của Quỳnh. Mỗi lần ngang qua đây, thế nào nó cũng dừng lại một lúc, nép mình bên hàng rào sắt sơn xanh, lắng nghe tiếng đàn thánh thót vọng qua khung cửa sở trên tầng gác hai. Khung cửa sổ mở rộng, trên thành cửa có đặt những chậu hoa hồng nở đầy hoa. Thỉnh thoảng tiếng đàn chợt ngừng lại và Quỳnh bước tựa ngực vào thành cửa sổ nhìn xuống đường... Mừng vội nép kín dưới chân rào nhìn lên. Nó tưởng như Quỳnh là một hoàng tử hiện ra từ các chuyện đời xưa mà cụ Ba Trà thường kể, và không hiểu sao lúc đó một cảm giác buồn tủi không cùng dâng lên nghẹn cả cổ, làm nó muốn khóc... Bây giờ Quỳnh và Mừng trở thành đôi bạn thân. Những buổi nghỉ tập hai đứa thường rủ nhau chơi bi, chơi dế... hoặc chơi trốn tìm đuổi bắt, khoác tay nhau đi tha thẩn trong khu vườn đằng sau doanh trại. Nhiều buổi tối, hai đứa ôm nhau ngủ trên cái bàn, đắp chung nhau chiếc chăn trấn thủ... Cái ba lô cóc của Quỳnh rất to, nhưng chỉ đựng vài bộ quần áo trẻ con nên lép kẹp như quả banh xì hơi. Nó nhún nhún thử mấy cái xem ba lô đã chắc chưa, rồi bất ngờ nó vươn thẳng người lên, hơi đưa ngực về phía trước, cất cao giọng hát:
"Bao chiến sĩ anh hùng..."
Giọng Quỳnh trong vắt, cao vút, vang ngân... Ôi, từ giọng hát đến dáng điệu của nó lúc này sao giống hệt con chim sơn ca đang lao thẳng lên giữa bầu trời lồng lộng chớm hồng, cất tiếng hát theo đà bay, để chào mừng những tia nắng đầu tiên...
Thế là đội từ bốn phía góc nhà, ngừng tay, đứng yên, cùng ưỡn ngực vươn cổ hát tiếp theo Quỳnh:
"...Lạnh lùng vung gươm ra sa trường... Quân xung phong, nước non đang chờ..."
Cả ngôi lầu phút chốc tràn ngập tiếng hát tươi non mà không kém phần hùng tráng của đoàn quân tí hon sắp lên đường ra trận.
"Bao chiến sĩ anh hùng" là bài hát tủ của Đội. Không ngày nào các em không hát năm bảy lần. Nhưng chưa bao giờ chúng hát say sưa, hào hững như sáng nay. chúng tưởng như những lời sục sôi nghĩa khí, hào hùng, quyết liệt, chúng đang hát, chính là để nói về mình.
"... Là trang nam nhi... Quyết chiến sa trường... sống thác coi thường..."
Tiếng còi của Đội trưởng giục giã nổi lên.
Toàn đội tập họp ngay ngắn trước sân doanh trại. Tất cả đều gọn ghẽ, chỉnh tề, mũ trên đầu, ba lô trên lưng, túi dết bên vai.
Đội trưởng hô đội đứng nghiêm, đọc danh sách các tổ mới được sắp xếp, phiên chế lại. Đội được chia thành tám tổ, mỗi tổ bốn đội viên. Tổ của Vịnh-sưa bây giờ gồm có: Vệ to đầu, Quỳnh và Mừng.
Một hồi còi dài. Đội từ giã doanh trại, dàn thành hàng một, đi về phía Mặt trận.
Trời mưa bụi lất phất. Bầu trời lớp lớp mây chì.
Càng đi gần về phía Mặt trận đường sá càng bừa bộn ngổn ngang, như thành phố vừa trải qua trận bão năm Thìn. Cây to, cột điện, quân ta hạ gục nằm chồng chất lên nhau kín cả mặt đường để ngăn chặn xe tăng giặc. Dây điện từng búi lớn loằng ngoằng như tóc rối. Những ụ súng xây bằng bao cát, những chướng ngại vật làm bằng giường tủ, chum vại, cánh cửa, sắt đường tàu... Phải đi vòng, phải trèo qua.
Con sông Hương thân thiết xanh ngăn ngắt hiện ra trước mắt, mờ ảo trong màn mưa bụi như bột rây. Hai nhịp cầu Tràng Tiền chính giữa bị chặt đứt, gục xuống sông, sắt cầu vặn xoáy vỏ đỗ. Cả đội tự nhiên đi chậm lại. Đứa nào cũng cố nhón chân, nghểnh cổ nhìn cái cầu thân quen gãy gục. Chúng đều tặc lưỡi xuýt xoa nhưng không phải vì tiếc chiếc cầu đẹp bị phá huỷ. Hũng chỉ trầm trồ thán phục sức mạnh trái bom đã "chơi" nổi cái "anh cầu" sắt thép đồ sộ kia.
Mừng quay lại hỏi Tư-dát đi đằng sau:
- Quả bom ni chắc phải to lắm anh hè?
- To cóc chi! Hai trăm cân chứ mấy!
Tiếng anh đội trưởng đi cuối hàng hô vọng lên.
- Tản khai thành hàng một, cự ly cách nhau mười bước.
Bọn trẻ vội vàng xa nhau ra, đúng cự ly quy định, men theo hè phố, qua Phu Văn Lâu, qua cửa Thượng Tứ, Cột Cờ... đi về phía cầu Bạch Hổ.
Cầu sắt Bạch Hổ bắc ngang sông Hương là chiếc cầu độc nhất của Huế chưa bị giật sập. Nhưng hai mái cầu đã được bố trí sẵn hai quả bom, chỉ chờ lệnh là nổ.
Khi cả đội đi đến đầu cầu, một trong hai anh Vệ Quốc Quân công binh phụ trách cầu bước ra khỏi công sự đào sát mép sông. Anh cao lớn lực lưỡng, nước da đen cháy, mặt vuông chữ điền, lông mày mũi mác, miệng rộng đến mang tai. Hai ngón tay kẹp điếu thuốc lá quấn kiểu xì gà, to bằng ngón chân cái. Một tay chống nạnh, anh cười cười hỏi:
- Mấy chú em đi mô mà kéo đoàn kéo lũ đi đông rứa?
Tư-dát liến thoắng chỉ tay sang bên kia sông đáp:
- Bọn em qua bên tê sông chơi nhau với tụi Tây mũi lõ coi ai được anh ạ.
Anh công binh nheo mắt nhìn Tư-dát cười để lộ hai hàm răng bàn cuối vàng kè nhựa thuốc lá.
- Nhất định là các chú mình được rồi!- Anh nói. - Các chú chỉ cần hỉ mũi, bốc ghèn (Rỉ mắt) mà quăng, tụi Tây cũng đủ chết lăn cu quay, chứ cần chi đến bom đạn như các anh đây!
Cả đội cười rân:
- Ha ha ha! Chuyến ni Tư-dát bí rồi nghe! Cậu ta tự cho mình là tay mồm mép đối đáp ghê nhất đội đó anh ạ.
Anh công binh đua điếu thuốc lá lên hút, điếu thuốc cháy ngờ ngợ như bó đuốc. Anh phà khói thuốc, nháy mắt nói:
- Vỏ quýt dày gặp móng tay nhọn!
Đội trưởng đi đến chào anh công binh, nói:
- Đề nghị đồng chí cho đội chúng tôi qua cầu.
- Các đồng chí cứ việc qua. Các đồng chí thuộc đơn vị mô mà coi bộ to lớn, già lụ khụ rứa?
- Chúng tôi là đội Thiếu niên trinh sát của Trung đoàn.
- Hay! - Anh công binh tự nhiên buột miệng khen. - Lúc qua cầu các đồng chí nhớ cúi thấp người xuống, mà đi xa xa nhau ra nghe. Tụi tây đóng bên trường Thiên Hữu mà ngó thấy là câu móoc chê qua liền. Lúc đó thì cũng hơi mệt!
Tư-dát bị anh chơi cho câu ''bốc ghèn mà quăng"! ức từ nãy đến giờ, chỉ lăm lăm chờ dịp trả miếng. Nó nói:
- Anh đừng chơi xỏ chúng em, chờ cho chúng em ra đến giữa cầu giật bom nghe?
Anh công binh trả lời mặt tỉnh khô:
- Đây mà ngứa tay thì cũng chưa biết chừng!
Mừng từ nãy tới giờ đứng nhìn anh công binh không chớp mắt. Nó bất chợt kêu to"
- Ui chao, anh So!
Anh công binh quay lại, mắt trợn lên nhìn Mừng như doạ, rồi bước lại đưa bàn tay to như lưỡi xẻng nâng cằm nó lên hỏi:
- Mi đó à Mừng? Chao, cái thằng ! Mi đi đây vui thú ra ri mà ở nhà thì mạ mi đập đầu đập óc khóc hết đêm hết ngày. Mạ mi cứ đinh ninh là mi chết trôi mất xác ngoài sông Đông Ba rồi. Ngày mô mạ mi cũng cắm cơm với trứng đi dọc bờ sông, về tới Mậu Tài, Dương Nỗ hú hồn vía mi. Trong nhà, mạ mi lập cả bàn thờ có bài vị để tên mi...
Mừng đứng sững nghe anh kể, mặt tái nhợt. Nó lắp bắp hỏi không thành tiếng.
Thiệt à anh...
Anh công binh nhìn Mừng giọng anh tự nhiên nhỏ lại:
- Trúng bữa đó anh xin được phép đơn vị tạt về thăm nhà. Anh ghé vô mạ em định làm vài tô bún bò cho đỡ thèm. rứa mà mạ em túm luôn lấy anh, năn nỉ anh ra sông lặn mò xác em để đem về chôn cất. "Em làm ơn làm phước giúp chị. Chim mà còn sống trên đời ni là cũng vì con mà sống. Chứ con chết mất xác, không có lấy được một nấm mồ mà hương khói cho con... Cay đắng cho đời chị quá em ơi!" Mạ em nói với anh như rứa đó, làm anh cũng khóc luôn. Trời bữa đó lạnh thấy mệ nội mệ ngoại, rứa mà anh cũng phải hụp lặn suốt cả một buổi dưới sông để mò xác em. Tối hôm đó về đơn vị, anh bị cảm lạnh tưởng chết...
Đội trưởng hỏi anh So:
- Đồng chí có biết gia đình em Mừng?
Anh So kéo Mừng đứng sát vào mình, đặt bàn tay nặng quá đá tảng lên vai nó, nói:
- Chú ni là con chị Niệm, bán bún bò giò heo ngon nhất chợ Bao Vinh. Trước tui làm cu li bốc vác ở bến chợ, chuyên ăn chịu bún bò của chị... nên cũng có biết sơ qua.
Những đội viên đi trước đã đặt chân lên đầu cầu.
Đội trưởng vội xốc lại ba lô, nói với anh So:
- Bữa ni tôi bận, nên không nói chuyện lâu với đồng chí được. Nhưng hôm nào có dịp, thế nào tôi cũng xin được gặp đồng chí để hỏi chuyện về gia đình em Mừng. - Anh quay sang nói với Mừng. - cho em ở lại đây một lúc nữa nói chuyện với anh So, rồi cố chạy nhanh đuổi theo cho kịp đội. thôi chào đồng chí. - Anh bắt tay anh So, chạy nhanh lên phía trước để điều khiển đội qua cầu.
Anh So như sực nhớ, lục tìm khắp túi áo túi quần, lôi ra được một thỏi chocolate dính đầy bụi và sợi thuốc lá. Anh đưa lên miệng thổi phù phù, dúi vào tay Mừng:
- Ăn miếng cho thơm miệng em, chiến lợi phẩm anh lấy được trong trận tấn công nhà hàng "Sáp-Phăng-rông" tối bữa tê đó. Mai mốt anh có công tác về Bao Vinh đây, em cần nhắn chi với mạ, anh nhắn cho.
Vẻ mặt thần thờ, bối rối, Mừng nói mà nước mắt chảy vòng quanh:
- Em chỉ nhờ anh nói răng cho mạ em đừng giận em cái tội bỏ trốn đi Vệ Quốc Đoàn... Mai mốt đánh Tây xong, cấp chỉ huy răng cũng cho phép em về thăm mạ...
- Được, được rồi, anh nói cho. Chắc mạ không giận mô em ạ. - Anh quàng tay ôm riết em vào lòng, bàn tay to lớn vụng về xoa xoa lưng em như dỗ dành. - Thì ra anh em mình cùng họ nhà "trốn" cả. Anh đây cũng phải trốn vợ mới đi được Vệ Quốc Đoàn đấy chứ em!
- A chút nữa thì em quên, - Mừng mở vội cái túi dết đeo bên hông, lôi bó lá tầm gửi đưa cho anh So. - Nhờ anh mang bó lá tầm gửi ni về cho mạ em. Nhắn mạ em sắc ngay mà uống. Trước khi sắc nhớ sao vàng hạ thổ, đổ năm chén nước trong sắc lấy một chén... chỉ uống chừng ba bốn lần là khỏi bệnh hen suyễn...
Anh So mở bó lá ra coi, lật qua lật về nhìn, đưa lên mũi ngủi, có vẻ lấy làm lạ lắm:
- Lá chi ri mà chữa lành ngay được bệnh hen suyễn rứa em?
- Lá tầm gửi đậu trên ngọn cây bút bút đó anh ạ. Em phải trèo lên ngọn cây bút bút cao hơn cả ngôi lầu ba tầng, nằm chờ trên đó cho đến nửa đêm mới hái. Cụ Ba Trà nói hái được như rứa thì chữa bệnh suyễn còn hay hơn thuốc tiên. Em chắc mạ em răng cũng lành được bệnh... - Nước mắt Mừng bỗng ứa ra. Em quệt nước mắt, thổn thức nói tiếp. - Làm răng anh cũng cố đưa được cho mạ em anh hí. chừ anh cho em chạy theo cho kịp đội...
- Ừ, đội em qua hết khỏi cầu rồi đó, em chạy ù lên... còn chuyện em nhờ thì khỏi lo. Anh mà còn sống trên đời thì bó lá tầm gửi ni răng cũng đến tay mạ em.
Mừng hối hả chạy lên phía trước. anh So cầm bó lá tầm gửi bọc bằng mảnh áo súng và buộc chằng dây điện thoại, đứng như cột trụ sắt trồng bên mép sông. Anh nhìn dõi theo cái dáng bé bỏng của thằng em lính trinh sát như bơi trong bộ quân phục, đang chạy băng băng qua cái cầu sắt giăng giăng mưa bụi...
Anh nhìn cho đến lúc bóng em khuất hẳn trong màu mưa bụi trắng trời trắng đất phía bờ bên kia, phía Mặt trận.
Cái miệng rộng ngậm điếu thuốc lá to bằng ngón chân cái đã tắt từ lúc nào, tự nhiên méo hẳn đi như mếu, anh chép miệng:
- Chao cái thằng! Chừng nớ tuổi đầu mà đã biết lo cả việc nhà lẫn việc nước! Ngày mình bằng tuổi hắn mình đã biết cóc khô chi?
2.
Vượt qua cầu Bạch Hổ, đội trưởng dẫn đội đi vòng lên phía dốc Nam Giao, theo con đường đá đến chùa Từ Đàm, nơi Chỉ huy Sở Mặt trận khu C đóng.
Vừa đặt chân sang đây, cả đội đều thấy lòng bồn chồn náo nức khác thường. Mặt trận đã ở ngay sát nách, chỉ cách con sông đào An Cựu và mấy dãy phố hẹp.
Từ chùa Từ Đàm xuống hết một quãng đường dốc ngắn sẽ thấy chiếc cầu bê tông gãy sập. Bên kia mố cầu có một ụ súng lớn xây bằng bao cát và sắt tà vẹt. Bên trong ụ súng ló lên thụp xuống những chiếc mũ ca lô, mũ sắt của các anh Vệ Quốc Quân. Khẩu đại liên Chiêu Hoà hai nòng của Nhật chĩa thẳng theo con đường rải nhựa, đâm thẳng vào khu vực bọn Pháp. Cuối đường, một chiếc xe gíp bị bom của quân ta giật đổ, chổng bốn bánh lên trời. Xa xa, thấp thoáng sau những đám cây um tùm, những ngôi lầu vị trí giặc. Đứng bên này mố cầu, nhìn bằng mắt thường cũng thấy những bao cát chất bịt kín cửa sổ cửa lớn. Qua lại trên những con đường trong khu vực này phải cẩn thận, rất dễ ăn đạn những tên giặc bắn lén núp sau những bao cát im lìm kia.
Tất cả những cái đó đối với các đội viên Thiếu niên trinh sát hấp dẫn lạ thường. Tất cả như đang nói với các em: “Đây chính là Mặt trận! Đây chính là nơi các em sẽ sống, chiến đấu, lập công; và có thể bị thương hoặc chết. Nhưng đó là một cuộc sống, cái chết khác thường, chưa từng có trước đây, làm náo nức sôi sục lòng người bởi vẻ đẹp cao cả của nó...”
Dọc đường các em gặp nhiều toán Vệ Quốc Đoàn đêm qua vừa xung phong vị trí giặc, rút về chỗ nghỉ ngơi. Anh nào áo quần cũng lấm lem bùn đất, gương mặt mệt mỏi, mắt sâu hoắm vì mất ngủ nhưng đều ánh lên vẻ kiêu hãnh và niềm vui. Nhiều anh đầu, tay quấn đầy băng trắng loang lổ thuốc đỏ và những vệt máu khô bầm. Có anh bước tập tễnh bên người bạn xốc nách. Từng toán, từng toán dân quân, tự vệ từ các miền làng quê rẩm rập kéo về chuẩn bị tối nay tham chiến. Họ mang vác, khiêng nào bom, mìn, rơm, chai xăng ngâm cờ rếp, thang tre... để xung phong đốt vị trí giặc. Họ gọi nhau í ới, chuyện trò bô bô, cười ha hả... Người nào cũng dắt, đeo lủng củng nào dao găm, mã tấu, trường kiếm, dây dừa để trói tù binh...
Các chị, các mệ, các o từ vùng quê tấp nập gánh quà lên uỷ lạo Mặt trận, đi thành từng đoàn dài. Thôi thì đủ thứ: bánh tày, bánh tét, bánh ít, bánh khô, gà vịt, heo... cục cục, cạc cạc, eng éc, váng cả óc. Dọc các con đuờng dẫn về mặt trận, cứ một quãng lại có một trạm “uỷ lạo chiến sĩ “ dựng ngay bên đường bằng cót, phên tre... Trạm nào cũng lửa khói nghi ngút, sôi sùng sục những nồi lớn chè đậu đen, đậu xanh, cháo gà, cháo vịt, bún bò giò heo, với những rá xôi cao như núi. Hễ là Vệ Quốc Quân cứ việc ghé vô ăn uống thả xăng, không mất tiền.
Tốc độ hành quân của đội Thiếu niên trinh sát chậm hẳn lại. Bởi ngang qua trạm uỷ lạo nào các em cũng xin phép đội trưởng vô nếm thử. Cái đơn vị Vệ Quốc Đoàn tí hon này lại được các mệ các chị đặc biệt yêu chiều. Họ ra đón tận giữa đường, kéo cả đội vào trạm. Muốn vòi chi được nấy. Cháo gà, cháo vịt thì hai phần thịt một phần cháo. Chè đậu đen chỉ húp lấy nước.
Bòng bụng như trái bí đao, ăn khoẻ có tiếng thế mà mới ghé vô hai trạm đã no thở không ra hơi. Cả đội em nào cũng lén nới thắt lưng hai ba lần...
Trời vừa hửng nắng, bầu trời thành phố đã vang ầm tiếng động cơ máy bay giặc, máy bay cổ ngỗng nhào lôn, gầm rít ra oai, yểm hộ tụi máy bay Đa kô ta thả dù tiếp tế cho bọn giặc bị bao vây.
Tình hình bọn giặc bị bao vây lúc này đã hết sức khốn đốn. Lương thực chúng đã cạn. Nhiều vị trí, đạn chúng bắn bắt đầu dè xẻn. Chúng đã giết chó béc giê để ăn thịt. Máy bay chúng phải thường xuyên đến thả dù tiếp tế. Mỗi lần như vậy khắp Mặt trận lại ran lên tiếng súng. Súng quân ta bắn chặn không cho chúng ra lấy dù tiếp tế, và súng của chúng bắn yểm trợ nhau liều chết xông ra...
tình hình Mặt trận đang hết sức khẩn trương. Có tin viện binh giặc từ Pháp đưa sang đã gần đến bờ biển Thừa Thiên. Trong mấy ngày gần đây quân ta quyết dốc hết sức hy vọng tiêu diệt được chúng trước khi viện binh chúng đến kịp. Bọn địch cũng liều chết cố thủ để chờ quân cứu viện.
Chưa lúc nào quân dân Thừa Thiên lại sôi sục quyết tâm tiêu diệt giặc như lúc này. Từ các miền quê trong tỉnh, trai gái già trẻ, cả các cụ, cả con nít, ngày đêm rầm rập kéo về Huế. Họ tìm đến gặp các cấp chỉ huy, nằng nặc đòi được ra trận. Họ tình nguyện được làm đội viên quyết tử, lấy mạng mình đổi mạng giặc. Cấp chỉ huy không đồng ý là họ làm ầm lên: "Cụ Hồ đã kêu gọi "Thà chết không quay lại đời nô lệ!" Rứa mà các anh lại ngăn trở không cho bày tui "thà chết", bày tui kiện ra thấu Cụ Hồ cho coi!"
Đội Thiếu niên trinh sát đến sở chỉ huy Mặt trận Khu C đúng lúc có hơn một chục cụ già thuộc đội Bạch đầu quân làng Thanh Thuỷ - một làng cách Huế chừng năm cây số - bị cấp chỉ huy từ chối không cho "thà chết". "Việc ni nặng nhọc, nguy hiểm lắm. Xin các cụ vui lòng để phần cho các con cháu gánh vác..." Các cụ ấm ức không chịu về. Vừa thấy các đội viên Thiếu niên trinh sát ba lô, túi dết, bao đạn... thành hàng ngũ chỉnh tề từ ngoài cổng đi vào, thế là các cụ xúm lại la ầm lên:
- Mấy đứa con nít đâầ chưa sạch cứt trâu ni, còn nhỏ hơn sắp cháu nội, cháu ngoại tui ở nhà, rứa mà cấp chỉ huy còn cho tụi nó đi quyết tử! Còn bày tui thì cấp chỉ huy lại mời về nhà nghỉ là ý nghĩa làm răng?
Các em tò mò xúm quanh các cụ hỏi chuyện. Một cụ râu ba chòm, tóc búi củ hành, đầu quấn khăn nhiễu tam giang, mặc áo đoạn vải đà, tay cầm cây mác lào lưỡi mài sáng quắc, hỏi các em:
- Rứa các cháu cũng được cấp chỉ huy tuyển vô đội Quyết tử à?
Tư-dát liến láu đáp:
- Thưa ông, tưởng vô cái chi ghê hơn chứ vô cái quyết tử thì chúng cháu vô lâu rồi.
Một cụ lưng mã tấu, đội mũ rộng vành, kêu:
- Cha cha! Mới chừng nớ tuổi thì đã làm được cái chi mà cũng đuợc Chính phủ cho vô quyết tử với quyết sanh!
Lượm có cái răng cửa sứt nên cả đội gọi là Lượm sứt, nghe cụ nói vậy, liền nổi tự ái, đáp:
- Ông ơi, rứa mà có người còn nhỏ hơn tụi cháu nhiều cũng đã quyết tử đánh cho tụi cướp nước tơi bời khói lửa đó ông ạ.
Ông cụ trợn tròn mắt, hỏi:
- Chớ ai rứa cháu?
- Dạ, Thánh Gióng!
Ông cụ phá lên cười ha hả, làm rung cả thanh mã tấu dắt bên lưng:
- Khá lắm! Khá lắm! Đúng là khẩu khí của con nít thời đại cụ Hồ Chí Minh! - Rồi cụ cao hứng, gật gù ngâm nga:
- Trưừừ... tặặặc... đản hiềm tam tuêếế... vãn (Trừ giặc ba tuổi đời vẫn còn hiềm làm muộn)
3.
Chiều hôm đó, Chỉ huy trưởng Mặt trận khu C đến gặp đội tại ngôi chùa nhỏ cạnh chùa Từ Đàm, nơi đội tạm trú quân.
Chỉ huy trưởng Mặt trận khu C kiêm Tham mưu trưởng Trung đoàn Phùng Quý Đông (ông quê xã Thủy Dương thuộc thành phố Huế. Dã hy sinh trong kháng chiến chống Pháp, được Chính phủ truy tặng Huân chương Quân công) là người đã ký quyết định thành lập đội thiếu niên trinh sát.
Ông trạc ba mươi tuổi, dáng người cao, xương xương.
Đặc biệt ông có cặp mắt rất sâu. ông mặc bộ ka ki màu cỏ úa, lấm láp đất bụi, ủng da trát đầy bùn, đội cái mũ cát rộng vành màu đất sét, quai mũ buông xuống bọc quanh cái cằm vuông có góc cạnh như đẽo bằng đá. Hình như ông vừa ở ngoài chiến hào về thì đi thẳng đến đây.
Các em để ý thấy chỉ huy trưởng bên hông không đeo súng lục như phần đông các cấp chỉ huy khác. Trên vai ông khoác một khẩu súng hai nòng, nước thép xanh biếc báng súng bóng loáng màu hổ phách có chạm trổ rất đẹp.
Ngang lưng ông thắt một cái thắt lưng da to bản, dắt kín những viên đạn to bằng ngón chân cái, đầu đạn màu trắng chì.
Vịnh-sưa đứng trong hàng, mắt không rời khẩu súng trên vai chỉ huy trưởng, khẽ nói với Mừng đứng sát bên cạnh:
Khẩu súng ni trước của vua Bảo Đại dùng để săn voi đạn nó có thể bắn thủng cả xe bọc thép. Ta lấy được khi vô chiếm An Định cung.
Nhiều em trong đội đã được nghe các anh lớn kể nhiều chuyện về chỉ huy trưởng trước khi gặp ông.
Là một người chỉ huy gan dạ, nghiêm khắc, nhưng biết yêu thương binh sĩ không ai bằng. Không đêm nào ông không lặn lội ngoài mặt trận với khẩu súng săn voi. ông đến từng đơn vị, từng chiến hào, từng ụ súng để kiểm tra đôn đốc bàn bạc giúp đỡ các đơn vị tổ chức chiến đấu. Gặp lúc cần thiết ông cũng cầm ngay lấy súng và chiến đấu dũng mãnh như một con sư tử. Ông sử dụng thành thạo tất cả các loại vũ khí: súng trường, tiểu liên, trung liên, đại liên, móc chê, và cả đại bác. Tài bắn súng lục của ông được truyền tụng khắp Mặt trận: Ông có thể bắn rụng cái đầu thuốc lá đỏ lập lèo trên miệng người đang hút...
Nhưng ông thích dùng hơn cả là khẩu súng săn voi của Bảo Đại. Từ hôm lấy được về, hầu như không mấy khi thấy ông rời khỏi vai. Đi ngủ ông cũng dựng súng cạnh đầu nằm. Với khẩu súng này ông đã hạ ít nhất là mười tên giặc và bắn đổ một chiếc xe bọc thép ở khu vực trường Kỹ Nghệ...
Đối với những chiến sĩ gan dạ, anh dũng lập công, thế nào ông cũng tìm đến tận nơi thăm hỏi, khen ngợi. Nhưng với những kẻ hèn nhát, không chấp hành đầy đủ mệnh lệnh chiến đấu, thì thái độ ông trở nên rất nghiêm khắc.
Với tất cả những điều truyền tụng đó về Chỉ huy trưởng, các đội viên Thiếu niên trinh sát đã đợi chờ cái phút ông đến gặp, lòng hồi hộp, nôn nao... Hệt như tâm trạng những thí sinh sắp bước vào buồng thi có vị giám khảo hết sức nghiêm ngặt.
Mười lăm phút trước khi ông đến, đội đã tập họp trước sân chùa để đón ông. Các em nhắc nhau sửa sang lại quân phục thật chỉnh tề. Vừa nhìn thấy cái dáng cao cao, xương xương của ông bước lên những bậc cổng Tam quan, tự nhiên mặt em nào cũng hơi tái đi.
Đội trưởng hô nghiêm, chạy ra chào ông và báo cáo quân số. Ông đưa bàn tay có những ngón rất dài như bàn tay người chơi dương cầm lên vành mũ chào lại. Động tác chào của ông mạnh và thật đẹp.
Ông bước đến, nhìn khắp đội một lượt, đầu như có vẻ bằng lòng tác phong đàng hoàng chững chạc của các chiến sĩ nhỏ bé của ông. Nhưng nét mặt ông không hề thoáng ánh tươi cười hoác lộ vẻ âu yếm như thường tình người lớn lúc nhìn trẻ con. Cả đội, em nào cũng thấy gai gai sống lưng khi cặp mắt sâu và sáng lạnh của ông lướt chậm qua người. Nhưng chính cái vẻ nghiêm lạnh khô khan đó của người chỉ huy nổi tiếng này lại làm cho các em cảm động Vì qua cái vẻ đó, các em nhận cảm rất rõ rằng: Trước mắt ông mình không phải là những đứa con nít thò lò mũi xanh, mà là những Vệ Quốc Quân thật sự.
Mình có đầy đủ trách nhiệm và vinh dự như tất cả các chiến sĩ lớn tuổi khác dưới quyền ông chỉ huy. Nếu mình gan dạ, dũng cảm trong chiến đấu cũng sẽ được ông khen thưởng xứng đáng, và nếu mình hèn nhát cũng sẽ bị ông xử phạt nghiêm khắc không một chút chiếu cố.
Chỉ huy trưởng cho đội về tư thế nghỉ.
Ông nói chuyện với đội, giọng nói cũng nghiêm, không khác gì vẻ mặt. Ông nói tóm lược tình hình chiến sự của toàn Mặt trận Huế trong một tuần vừa qua. ông thông báo tin tức kháng chiến của Thủ đô Hà Nội, của thành phố Sài Gòn và những tỉnh miền Nam TỔ QUỐC. Những thắng lợi mà quân ta đã giành được, những tổn thất và những khó khăn lớn lao mà quân ta đang phải đương đầu...
Ông im lặng giây lát rồi nói tiếp, giọng nhỏ lại như thổ lộ một lời tâm sự:
- Các em ạ, cuộc chiến đấu của chúng ta sắp bước vào một thời kỳ vô cùng gay go và quyết liệt. Rất có thể không phải một tháng, hai tháng mà phải nhiều tháng, nhiều năm nữa, chúng ta mới đánh đuổi được hết bọn giặc nước, giải phóng được TỔ QUỐC, giải phóng thành phố thân yêu của chúng ta. Nhưng dù sống, dù chết, chúng ta, những chiến sĩ Vệ Quốc, nhất quyết làm tròn lời kêu gọi thiêng liêng của Chủ tịch Hồ Chí Minh: "Hãy quyết tử cho TỔ QUỐC quyết sinh". Nếu thế hệ chúng tôi chưa làm xong được sứ mệnh vĩ đại này, thì thế hệ các em phải nối tiếp xốc tới, hoàn thành cho bằng được.
Vừa lúc đó một liên lạc viên xuống ngựa trước cổng Tam quan, nhảy ba bậc thềm một, chạy vào chào ông và báo cáo:
Báo cáo Chỉ huy trưởng, có điện thoại của Trung đoàn trưởng gọi:
Ông đưa tay lên vành mũ, chào đội.
- Chúc các em lên đường thắng lợi. Tôi sẽ còn nhiều dịp gặp các em ngoài Mặt trận.
Chỉ huy trưởng vừa đi khỏi, đội trưởng mở sổ tay phổ biến nhiệm vụ:
- Theo lệnh của Ban chỉ huy Mặt trận, ngay chiều hôm nay đội chúng ta phải có mặt tại các đơn vị chiến đấu.
Một tổ ở lại chỉ huy sở cùng với anh, làm nhiệm vụ liền lạc chung. Các tổ khác sẽ về tham gia chiến đấu ở các đại đội thuộc mặt trận khu B và khu C. Ngay sau đây, các em tổ trưởng gặp anh để nhận giấy giới thiệu và sửa soạn lên đường cho kịp.
4.
Tổ của Vịnh-sưa được đội trưởng chọn gửi về tham gia chiến đấu ở đại đội quyết tử trấn giữ khu vực cầu Kho Rèn.
Buồi đầu tiên đến nhận công tác, cả đại đội hầu như không một ai tin tưởng bốn chú bé "đầu chưa sạch cứt trâu" này lại có thể giúp ích được gì cho nhiệm vụ nặng nề mà đơn vị họ đang đảm nhiệm. Cấp trên đã giao xuống thì cũng phải miễn cưỡng mà nhận thôi.
Bởi vậy, hai ba hôm đầu, Ban chỉ huy chỉ giao cho bốn em những công việc vặt như chạy liên lạc về các trung đội, đưa công văn thư từ lên Chỉ huy sở... Đêm đến, cho các em đi theo các tiểu đội yểm trợ "để làm quen dần với súng đạn". Và mỗi lần thấy bốn em trở về, đại đội trưởng lại hỏi: "Có chú mô đái ra quần không đó?".
Không thể nhịn thêm được nữa, Vịnh-sưa đã đứng nghiêm lại nói:
- Báo cáo đại đội trưởng, cái việc xấu xa đó chỉ có tụi Tây mới quen làm, chứ chúng em chưa khi mô biết đến.
Đại đội trưởng Nguyễn Thới trước Cách mạng là thợ rèn ở nhà máy xe lửa Huế. Dáng người thấp đậm, vạm vỡ, xù xì như một thỏi gang đúc. Tính ông nóng như lửa nên cả đại đội gọi ông là Thới Trương Phi. Lúc nghe Vịnh-sưa nói, ông hơi chững người lại nhìn em. ông không ngờ chú bé này lại đối đáp với mình bằng một giọng gay gắt đến thế. ông nheo một mắt lại như lúc bắn súng, nhìn Vịnh-sưa, rồi bất chợt phá lên cười ha hả. ông vỗ vai em một cái làm cho em gần sụn vai, nói:
- Ăn nói như rứa mới gọi là biết ăn nói. Rứa thì được, tối nay tôi sẽ cho các chú đi chơi nhau với tụi Tây một trận, cho tụi hắn biết cái gan của con nít Huế mình.
Cả ngày hôm đó, các em rất hồi hộp, chỉ sợ đại đội trưởng quên mất lời hứa. Nhưng không, khoảng bốn giờ chiều, ông đi đến gian phòng ở của các em, gọi các em lên buồng làm việc của Ban chỉ huy. Và thật tai hại, ông bước vào phòng đúng lúc bốn em đang say sưa chọi dế. Các em hốt hoảng dúi vội những con dế cưng, dế nòi, dế cụ vào các xó xỉnh trong buồng. Các em lo lắm: Chuyến ni răng cũng bị đại đội trưởng xạc cho một trận ra trò đây. Cũng có thể vì chuyện chọi dế mà ông không cho đi chiến đấu cũng nên. Vệ Quốc Quân mà còn chơi chọi dế, nhất định là khuyết điểm to rồi. Với cương vị tổ trưởng, Vịnh-sưa lo lắng hơn cả. Em đâm cáu với Mừng: Chỉ tại hắn đầu têu hết! Hắn bày đặt ra cái trò chơi chọi dế làm cả tổ đâm ham. Mà không biết hắn moi ra được ở mô con dế đầu si chọi khỏe đến rứa? Bao nhiêu dế của mình, cậu Vệ, cậu Quỳnh lên đài đều bị con dế nòi của hắn cho "nốc ao" hết.
Tức không chịu được...
Nhưng cũng thật bất ngờ. Khi lên đến buồng làm việc, đại đội trưởng lại hỏi chúng về chuyện chọi dế và nghe rất chăm chú. Ông cười, gật gật đầu nói: "Khi mô rỗi các em đem dế lên đây chọi cho anh coi với. Ngày nhỏ bằng các em, anh cũng là một tay chọi dế sừng sỏ nhất xóm". ông mở ngăn kéo lấy cho mỗi em một cục đường phèn to như quả trứng vịt: "Ăn cho vui các em".
Ông vừa lau khẩu "pạc hoặc" vừa nghiêng nghiêng lai lắng nghe tiếng nhai đường lóc cóc của bốn chiến sĩ.
Gương mặt thợ thuần phác của ông phảng phất một nụ cười trìu mến của người cha. ông chợt dừng tay lau súng hỏi:
- Trong bốn em, có em mô biết ngôi lầu thằng Lơ-bờ-rít không?
Dạ em. - Mừng suýt vọt nước bọt và ngậm nhanh viên đường phèn vào một bên má, trả lời.
- Em có thuộc đường trong khu vực ngoắt ngoéo ni không?
Dạ thuộc làu làu. Bịt mắt em thả em vô trong đó em cũng tìm được đường ra... Bởi trong khu vực ni nhiều cây bút bút lắm. Trong vườn nhà thằng Lơ-bờ-rít cũng có hai cây bút bút rất cao. Mấy lần em đã trèo qua rào sắt, lẻn chui vô vườn, trèo lên ngọn cây...
Đại đội trưởng Nguyễn Thới lạ lùng nhìn Mừng, hỏi:
- Em trèo lên ngọn cây bút bút mà làm chi rứa?
Vịnh-sưa kể vắn tắt cho đại đội trưởng nghe chuyện Mừng đi tìm thuốc cho mẹ và trường hợp Mừng gia nhập Vệ Quốc Đoàn... Đại đội trưởng cười ngất. Ông đặt khẩu súng pạc hoặc lên bàn, bàn tay thợ to lớn đen nhọ dầu súng, nâng cằm Mừng lên nhìn sâu vào đôi mắt em:
- Chú em khá lắm! Tối ni tôi giao cho chú dẫn đường trung đội cảm tử mang bom vô choảng nhà thằng Lơ-bờ-rít, liệu chú có dám làm không? Mà chú phải nhớ tối nay là tối ba mươi, tối ngửa bàn tay không thấy đó nghe. Dẫn đường mà lạc là coi như trật hết kế hoạch.
Mừng liền đứng bật ngay dậy, nhìn thẳng vào mắt ông trả lời:
- Anh cứ giao cho em. Em mà dẫn lạc hướng, về anh cứ chặt đầu em đi.
Đại đội trưởng nheo nheo một mắt như lúc bắn súng nhìn Mừng, nói giọng không có chút gì là đùa cợt:
- Chú phải nhớ đã hứa là tôi chặt thật đấy! - Rồi ông mỉm cười đặt bàn tay nặng trĩu lên đầu em, giọng trở nên âu yếm khác thường:.
- Anh tin chắc là em sẽ hoàn thành được nhiệm vụ. Dẫn đường cho bộ đội đi tiêu diệt bọn giặc nước cũng là đi tìm thuốc cho mẹ phải không em?
- Dạ... - Mừng đáp, môi run run. Câu nói của đại đội trưởng vang vọng rất lâu trong trí nhớ của em.
Vịnh-sưa cũng đứng lên, hồi hộp nói:
- Dạ rứa còn mấy đứa em?
- Cho cả mấy chú cùng đi theo trung đội cảm từ đánh bom. Các chú có nhiệm vụ liên lạc, trinh sát, phát hiện các mục tiêu bí mật của địch. Chú nào lập được công sẽ có phần thưởng lớn.
Các em mừng rơn suýt nữa nhảy hết cả lên. Các em bỗng tin chắc rằng trên đời ni không ai tốt bằng đại đội trưởng Thới Trương Phi.
5.
Lúc trời gần sâm sẩm, Quỳnh-sơn-ca bỗng gặp phải chuyện không may. Em và Mừng rủ nhau đi ngoài, lúc nhảy qua giao thông hào phía sau doanh trại, em dẫm phải mảnh chai nhọn hoắt. Em kêu lên một tiếng, rồi ngã qụy xuống đất. Mừng hốt hoảng chạy lại, nâng bàn chân bạn lên. Mặt em tái ngắt. Cái mảnh chai màu xanh đâm ngập khá sâu đúng giữa gan bàn chân bạn. Em lấy hết can đảm rút mảnh chai ra, mình sởn hết gai ốc. Máu chảy chan hòa ướt đỏ cả bàn chân Quỳnh, giọt giọt xuống đất.
Lần đầu tiên Mừng thấy máu chảy nhiều như thế, mà là máu của đứa bạn thân nhất đời. Em bối rối đến mụ cả người. Chính Quỳnh lại bĩnh tỉnh hơn, mặc dầu em đau lắm. Em lột cái mũ ca lô trên đầu đưa cho Mừng: "Cậu lau sạch đất với máu rồi kiếm cái gì băng lại cho mình. Mừng lau gần ướt hết cái mũ ca lô mà máu vẫn chảy ra không ngớt. Em chợt nhảy lên như ngồi phải lừa, kêu to: "Suýt nữa thì tớ quên'". Không kịp để bạn hỏi, em lao về phía cuối vườn, nơi có những bụi chuối um tùm. Em tìm vít một đọt chuối cuộn tròn như cây gậy xanh, ghé răng cắn một khúc ngắn nhai ngấu nghiến. Em nhả miếng đọt chuối đã nhai nát ra lòng bàn tay, quỳ xuống nâng bàn chân bạn lên, và đắp miếng nhai vào vết thương. Vết thương quả nhiên cầm máu. Mừng dứt cái khăn quàng cổ bằng vải dù pháo hiệu mà chiều nay em vừa xin được của một anh ở trung đội hai, bằng vết thương cho bạn. Em hỏi, giọng hồi hộp, xót xa: cậu có thấy đỡ đau không?" "Có, đỡ nhiều rồi". Quỳnh mím mím môi trả lời.
"Thuốc chi của cậu mà hay dữ rứa?".
- Thuốc của cụ Ba Trà bày cho mình đó. Cụ nói đây là thuốc dấu của tụi ăn trộm tài danh. Đọt chuối non nhai nhỏ đắp vô, vết thương to mấy cũng cầm máu ngay. Có thêm mấy hột muối nhai lẫn vô nữa thì thuốc tiên cũng không hay bằng. Chỉ mấy bữa là kín miệng ngay. Cụ còn bày cho mình nhiều môn thuốc dấu hay lắm. Thuốc trị rắn cắn, chó cắn, bò cạp, rết cắn, rồi thuốc trị hắc lào, ghẻ lở.
- Tại răng cụ hay bày cho cậu rứa?
- Tại mình hay qua nhà cụ chơi, xách nước tưới vườn giúp cụ, cụ thương cụ mới bày. Chứ người khác có trả tiền nhiều mấy cụ cũng không bày mô.
Quỳnh vịn vai bạn, run run đứng lên, xuýt xoa:
- Nếu không đi Vệ Quốc Đoàn, cả ngày ở trong nhà lầu, chân lúc mô cũng đi giày đi dép thì làm răng mà biết được môn thuốc dấu hay ri cậu hè?
- Ừ. Mà da chân cậu mềm thiệt, như... như là thạch ấy. Cái mảnh chai đó mà đâm vô chân mình thì chắc không sâu đến rứa mô.
Em cúi lưng xuống trước mặt bạn:"Coi bộ cậu đau lắm. đi một mình không được mô. Để minh cõng cậu vô nhà...".
- Đừng, - Quỳnh lắc đầu, - để mình tự đi lấy thôi.
Cậu mà cõng, Vịnh-sưa nó biết mất.
- Biết cái chi?- Mừng ngạc nhiên nhìn bạn.
- Biết là mình đạp phải mảnh chai ấy. Biết thì đời mô cậu ấy chịu để cho mình đi tấn công nhà thằng Lơ-bờ-rít tối nay. Vịnh-sưa là kỷ luật sắt gớm lắm.
- Nhưng chân cậu sắp què ri thì đi làm răng được? - Mừng kêu lên lo lắng.
- Mình biết ngay mà, - Quỳnh phụng phịu giận dỗi - Cả cậu cũng không muốn mình đi... Các cậu chỉ muốn sướng lấy một mình, còn mình thì bắt phải nằm đèo queo ở nhà... - Cặp mắt trong veo đen ngời của Quỳnh rơm rớm như sắp khóc.
Yêu bạn quá, chỉ sợ bạn giận, Mừng gãi đầu bối rối:
- Chừ biết làm răng hè...
Cậu phải giấu không cho Vịnh-sưa biết là mình đạp phải mảnh chai. Biết, răng hắn cũng báo với đại đội trưởng bắt mình phải ở nhà.
Được rồi, được rồi, - Mừng ôm vai bạn dỗ dành, - mình sẽ giấu... Nhưng chân cậu còn đau lắm không, chỉ lo cậu không theo kịp được đơn vị thôi...
- Đỡ lắm rồi, mình sắp hết đau rồi. Thuốc dấu của cậu hay hơn thuốc tiên. Chưa chừng hắn liền miệng rồi cũng nên.
Quỳnh chỉ tay xuống bàn chân đau cố nhoẻn cười.
Đôi môi em đỏ như son tươi ngời lên trong ánh chạng vạng khu vườn um tùm bóng cây. Và để chứng tỏ vết thương đã sắp liên miệng, Quỳnh nhảy lên một cái.
Nhưng chân vừa chạm đất em bật rên một tiếng khe khẽ, mặt tái nhợt. Mừng không nhanh tay đỡ kịp chắc em đã ngã khuỵu xuống đất.
- Không việc chi, không việc chi... - Quỳnh hấp tấp nói - Mình giả đò đau để dọa cậu chơi ấy mà. - Em quay mặt thật nhanh để giấu bạn nước mắt ràn rụa vì đau.
6.
Trung đội Cảm từ tập họp trước sân doanh trại chuẩn bị xuất phát. Lúc này khoảng mười giờ đêm. Trinh sát của Mặt trận cho biết một bộ phận tham mưu quan trọng của giặc hiện đóng trong ngôi lầu kiên cố của thằng thực dân cáo già Lơ-bờ-rít. Từ ngày nổ súng quân ta đã bốn lần tổ chức tấn công nhưng không hạ nổi. Đêm nay là trận tấn công thứ năm.
Mừng - chiến sĩ liên lạc dẫn đường đứng trước hàng quân "Liên lạc dẫn đường là người quan trọng nhất của trận đánh tối nay. Dẫn trúng đường, không lộ, là coi như trận đánh đã thắng một nửa" Đó là lời của đại đội trưởng lúc giao nhiệm vụ cho em. Thấp bé nhất đơn vị, em đứng chỉ cao đến ngực anh chiến sĩ vác trái bom đứng sát sau em. Em đội mũ Tiếp Phòng Quân, quai mũ buộc chặt dưới cằm, lưng thắt xanh tuya- rông, dắt hai trái lựu đạn OF, tay cầm một quả lựu đạn mỏ vịt, quần xắn quá đầu gối. Nhìn em đã ra dáng là chiến sĩ lắm, nhưng là chiến sĩ trong câu chuyện cố tích. "Đội quân tí hon đi đánh nhau với bọn khổng lồ hung ác". Cuối hàng quân là Vịnh-sưa, Vệ-to-đầu, Quỳnh-sơn-ca. Chân trái Quỳnh được quấn to sù như viên tướng đi hia trong tuồng cổ. Em lấy cái áo sơ mi mới tinh bằng thứ hàng len mỏng mà ngày ấy chỉ con cái nhà giàu mới mặc để quấn bàn chân đau. Vịnh-sưa ngạc nhiên hỏi: "Cậu quấn chân quấn cảng làm chi rứa?" Quỳnh nói mặt tỉnh khô:
Để lúc vô trinh sát vị trí giặc được êm, có đi sát bên tai tụi hắn, tụi hắn cũng không biết, cứ ngáy khò khò".
Nghe cũng có lý nhưng Vịnh-sưa thắc mắc: "Tại răng cậu chỉ quấn có một chân thôi"? - "Tại tớ bước nặng về bên chân trái" Mặc dầu đã quấn kỹ như vậy, nhưng bước chân đi lỡ chạm phải vật gì cứng, vết thương vẫn làm em buốt nhói đến tận óc. Em phải nghiến chặt răng mới có thể đi thẳng người được để giấu không cho Vịnh-sưa biết.
Đơn vị lên đường, tiến sâu vào khu vực giặc. Đi trước đơn vị, chốc chốc Mừng lại đặt tay lên ngực. Bàn tay đen đủi nhỏ bé bấu chặt lấy áo trấn thủ như muốn ghì giữ trái tim trong lồng ngực. Trời ơi, nó đập dữ quá!
Tiếng đập của nó mới vang to làm sao? Mừng cảm tưởng cả đơn vị đều nghe tiếng tim mình đập. Nhiều lần chỉ chực bật lên khóc vì không sao kiềm chế giữ nó trở lại nhịp đập bình thường. Em xấu hổ thầm nhủ: "Các anh mà nghe tiếng trống ngực mình đập chắc các anh sẽ cho là mmh sợ'! Thật ra thì em không sợ mà lo. Lần đầu tiên trong đời, vào lúc vừa tròn mười ba tuổi, em cảm nhận được sức nặng lớn lao của hai tiếng:"Trách nhiệm chiến sĩ". Lúc đứng trước mặt đại đội trưởng, em hăm hở nói: "Em mà dẫn lạc đường, anh cứ chặt đầu em đi" Em chưa hình dung được hết tất cả sự nghiêm trọng của lời nói đó. Nhưng bây giờ bắt tay vào việc thực hiện lời hứa, gánh nặng của nỗi lo càng lớn mãi và cơ hồ muốn đè em quỵ xuống.
Lạ lùng thay, trong bóng tối, không hề nhìn thấy mặt mà anh trung đội trưởng Cảm tử như thấy hết tận gan ruột Mừng. Anh bước lên đi cạnh Mừng, đặt tay lên vai em và nói nhỏ: "Em cứ bình tĩnh, không phải lo lắng gì hết. Càng lo người ta càng dễ rối trí và dễ quên hết những điều mình vốn thuộc lòng...". Anh nói có vậy mà tự nhiên Mừng thấy vững lòng, nhịp tim đập bình thường trở lại. Em bật lên thì thầm như một lời cầu khấn: "Mạ ơi, mạ dắt con đi trúng được con đường con đi tìm thuốc cho mạ trong đêm tối ni mạ ơi!" Không biết có phải để thử thách Mừng chăng, mà đêm nay trời tối ghê gớm, tưởng như bóng tối của một ngàn đêm trước được đêm cô đặc lại mà làm ra bóng tối đêm nay...
Nhưng càng tiến sâu vào khu vực giặc đóng, Mừng càng thấy vững bụng hơn. Mắt em như mỗi lúc một sáng hơn, trí nhớ em như tinh tường hơn... Đường phố ở Huế được trồng nhiều phượng, vông đông, mù u, bút bút. Cây bút bút có phần ít hơn ba loại cây trên, nhưng dáng của nó lại rất dễ nhận ra trong đêm tối. Cao lớn, um tùm, tán cây rất lớn. Da nó khá nhẵn nhụi. Nếu không nhận ra bằng mắt có thể nhận ra được bằng tay.
Mừng thì nhận ra cây bút bút bằng tất cả thân thể em, từ trán, má, môi, tay, chân đến đùi, bụng... Đã bao nhiêu lần em ôm nó với toàn bộ gân sức bé bỏng của em, để trèo lên ngọn nó, tìm thuốc cho mẹ.
Con đường dẫn đến vị trại giặc khá ngoắt ngoéo, rất nhiều ngã ba, ngã năm và cây bút bút trồng hai bên hè đường có thưa hơn những đường phố khác. Nhưng bù lại cây nào cũng rất lớn, rất cao. Lá tầm gửi đậu trên ngọn cây bút bút cao chừng nào chữa bệnh hen suyễn càng hay chừng ấy. Do đó mà hầu như tất cả những cây bút bút trong khu vực này em đều đã trèo lên ngọn, ít nhất là một lần. Và trèo với trái tim đập mạnh xao xuyến trong lồng ngực vì hồi hộp, hy vọng... Rất nhiều gốc cây đã thấm những giọt nước mắt nóng hổi của em Những giọt nước mắt đau buồn thất vọng. Những giọt nước mắt rớt xuống trong tiếng kêu thầm nức nở: "Mạ ơi cây bút bút ni cao ri mà cũng không có lá tầm gửi...
Biết khi mô cho mạ lành được bệnh suyễn mạ ơi"'. Tất cả những cái đó làm cho dáng dấp của mỗi cây trong khu vực này ghi hẳn vào trí nhớ em Và đêm nay, những cây đó đứng sừng sững trong đêm tối làm những cọc tiêu khổng lồ chỉ đường cho em dẫn trung đội Vệ Quốc Đoàn Cảm tử mang bom đánh thẳng vào hang ổ của bọn giặc nước.
Anh trung đội trưởng đi sau em cách vài bước chân Anh chỉ cần nhìn dáng đi của em hơi cúi thấp, rẽ bóng tối như người bơi rẽ nước, thận trọng vững vàng tiến lên phía trước, anh cũng biết là em đã nhận ra đúng đường. Đến những chỗ ngã năm, ngã ba, những quãng đường cây cối, cột điện, xác xe cộ của giặc bị bắn cháy lấp kín, phải đi vòng, em chỉ dừng lại một chút, đầu ngước lên phía các ngọn cây, quan sát, rồi tiến vào lối đi đã chọn với bước chân không một chút ngập ngừng.
Một vài địa điểm tấn công phía đông, phía tây Mặt trận, tiếng súng, bom mìn, lựu đạn bắt đầu rộ lên, mỗi lúc một căng thẳng. Pháo hiệu đỏ lừ nối nhau vọt lên thinh không đến đặc như những hòn than đỏ bắn vọt ra từ một cái bể rèn khổng lồ. Như một đám cháy gặp cơn gió nam, tiếng súng tấn công giặc lan rộng ra rất nhanh. Chỉ chốc lát đã trùm lấp khắp cả Mặt trận.
Chính vào lúc đó thì Vịnh-sưa từ dưới cuối hàng quân chạy vụt lên gặp anh trung đội trưởng, báo cáo giọng hớt hải:
- Báo cáo anh, Quỳnh bị lạc mất rồi ạ?
Trung đội trưởng gọi Mừng lại. Anh hỏi Vịnh:
- Lạc vào lúc nào?
- Dạ chắc lạc lúc phải đi vòng tránh con đường bị cây cối, cột điện đổ lấp kín ấy. Nó đi trước em với Vệ.
Nhưng không hiểu tại răng nó cứ đi chậm lại, rồi tụt hẳn đằng sau, người nó cúi lom khom, bước thì tấp ta tấp tểnh. Em hỏi nó: "Cậu đi kiểu chi lạ rứa?" Nó nói:
- Mình đi kiểu ni tránh đạn mới tốt. Đi như các cậu ăn đạn tụi bắn tỉa có chầu'" Lúc vượt qua khỏi đoạn đường vòng, em nhìn lại sau thì không thấy nó nữa. Chắc nó lạc mất rồi... giọng Vịnh như muốn khóc.
- Chà, lôi thôi quá hè. Trung đội trưởng chắc lưỡi nói.
- Anh cho em quay trở lại tìm. - Vịnh nói. - Em sợ nó đi lung tung đâm đầu vô giữa vị trí giặc thì nguy.
Quãng đường vòng nớ có nhiều chỗ rẽ ngang rẽ dọc lắm. Em còn nhớ đường không?
- Dạ.. cũng hơi nhớ thôi... Nhưng răng cũng phải tìm... Nó nhỏ mà yếu ớt nhất đội em... Ngày chưa Cách mạng, nó đi mô một bước cũng ngồi trên xe nhà. Đường sá trong thành phố hắn có thuộc chút chi mô anh...
Giờ quy định tần công đã sắp đến. Không thể chậm trễ được Trung đội trưởng đành phải giải quyết.
- Thế thì em quay lại tìm bạn đi. Tìm ra, hai em dẫn nhau về doanh trại, không phải quay lại đây nữa nghe.
- Dạ. Vịnh ngập ngừng một tí rồi chào anh và chạy vụt về phía sau.
Mừng đứng như bị chôn chân, miệng há ra, mắt mở trân trân nhìn hút theo Vịnh. Tim em đau nhói như bất ngờ bị cắm một miếng mảnh chai. "Chỉ tại mình hết! úi chao. Em thầm kêu. Mình giấu chuyện chân hắn đạp phải mảnh chai, nên chừ hắn mới bị lạc..."
Trung đôi trưởng phải giục đến lần thứ hai em mới nghe ra:
- Đi thôi em. Sắp đến giờ tấn công rồi!
Chừng hai mươi phút sau, Mừng dừng lại ở đầu một ngã ba. chỉ tay về phía trước nói thì thào với trung đội trưởng:
Ngôi nhà lầu thứ hai có hàng rào sắt cao nghêu là nhà thằng Lơ-bờ-rít đó anh nờ.
Anh cố mở căng mắt nhìn theo tay chỉ của chú em liên lạc.
Giữa tiếng bom đạn đang nổ rầm trời bốn phía xung quanh, ngôi nhà này đặc biệt im im hầu như không có người ở. Anh hơi ngờ?
- Có chắc không em?
- Răng lại không chắc? - Mừng nói giọng quả quyết.
Nhà hắn có hai cây bút bút. Cái cây có cành ngã ra gần hàng rão sắt tê, một lần em trèo lên suýt nữa bị con chó béc giê nhà hắn cắn chết. Còn cái cây mọc chính giữa vườn ngọn cao quá cả mái lầu tê thì em chỉ dám đứng ngoài đường ngó vô, rểu nước miếng mà thèm. Bác Hùng xóm em nói trong tụi Tây ở Huế mình, thằng Lơ-bờ-rít là dữ nhất. Đi qua đây em ngó thấy hắn luôn. Mặt hắn râu mọc nhiều như rễ bèo. Hắn hút cái ống điếu dài như cái cây đánh khăng, tay dắt chó béc giê. Hắn hay sụyt chó cắn người lắm. Tụi em hễ đi qua nhà hắn là đua nhau réo thật to: "Thằng Lơ-bờ-rít ăn mít chấm đường đen, ăn ghèn chấm với mũi, ăn củi chấm với than, ăn vàng chấm với cứt". Rồi vùng chạy cho thật nhanh. Hắn mà tóm được thì chết.
Không một lời chỉ dẫn trinh sát nào mà trung đội trưởng thấy tin chắc hơn lời chỉ dẫn của Mừng. Sau khi quan sát kỹ toàn bộ ngôi nhà, anh đã hiểu ra: Bọn giặc quỷ quyệt, không động tĩnh là để giữ bí mật nơi cơ quan chỉ huy quan trọng của chúng đóng. Anh nói với Mừng:
- Nhiệm vụ dẫn đường của em đến đây coi như hoàn thành. Bây giờ em phải quay ngay lại phía sau để tìm Quỳnh và Vịnh. Anh lo chúng nó lạc lắm. Vệ sẽ ở lại với trung đội làm nhiệm vụ trinh sát liên lạc.
Anh ngoắc tay ra hiệu. Cả trung đội đang dàn hàng ngang phía sau, lập tức nằm rạp xuống, bí mật, thận trọng bò lên tiếp cận ngôi lầu vị trí giặc.
Mùng thèm được ở lại tham dự trận đánh lắm.
Nhưng nghĩ đến bạn, em lao nhanh về phía sau rẽ bóng tối dày đặc như người bơi rẽ nước...
7.
Đã hàng chục lần Quỳnh sờ soạng tìm bám vào những bụi cỏ mọc nham nhở quanh thành hố cố hết sức để trườn lên Nhưng lần nào cũng chỉ mới nhích lên được một chút, em lại bị rơi tụt trở lại xuống đáy hố. Hai bàn tay em cầm chặt hai túm cỏ bị nhổ ra khỏi thành hố. Cái hố hẹp nhưng khá sâu, thành hố gần như dốc đứng, đất sét thấm nước mưa, trơn như bôi mỡ. Em đã sờ soạng quanh thành hố rất. kỹ Không có một chỗ hõm nào khả dĩ có thể bám chân mà trườn lên. Lại thêm cái chân đau nó phản em...
Quỳnh bị lạc đơn vị không phải ở chỗ quãng đường vòng như Vịnh-sưa đoán, mà lạc gần cái ngã ba cách đó chừng dăm trăm thước.
Một cách ngây thơ. em tưởng rằng quấn cả một cái áo dạ mềm vào chân như thế thì vết thương sẽ không còn đau nữa, có thể theo kịp các anh Cảm tử, cùng với các bạn, đi đánh nhà thằng Lơ-bờ-rít. Em lại còn quá tin tưởng cái thứ thuốc dấu thần hiệu của Mừng, "thứ thuốc dấu của những tay ăn trộm tài danh", rịt vào là vết thương hàn miệng... Nhưng em đã lầm. Mới đi theo đơn vị được vài trăm bước, bàn chân em đã trở lại nhức buốt ghê gớm. Nhất là khi dẫm phải cạnh một viên gạch vỡ hòn đá hoặc cành cây. Vết thương đau nhói đến tận óc. Em có cảm giác máu lại bật ra. nong nóng. ươn ướt, dinh dính dưới gan bàn chân Em cố cắn chặt hai hàm răng để khỏi bật tiếng rên Em cố mở căng mắt để tránh dẫm phải những vật cứng. Nhưng không hiểu sao cứ càng cố tránh lại càng dẫm phải gạch vỡ, đá, cành cây, mảnh sắt, như cùng hùa nhau đâm cái cạnh sắc nhọn nhất của chúng vào đúng giữa vết thương. Mấy lớp dạ áo sơ mi bọc chân cũng có vẻ coi chẳng mùi mẽ gì. "Được, mày đã muốn buộc muốn băng, chúng ông càng đâm cho mày biết tay'" Chúng như gầm ghè nói với em vậy. Em đau đến mờ cả mắt. Em cố đi thật thẳng không cho các bạn biết là mình đau, nhưng người em cứ co rúm lại, và đi lệch hẳn về một bên. Càng đi, vết thương càng buốt nhói. Em tụt dần phía sau các bạn.
Cái áo sơ mi sắp tuột hẳn, kéo lê vướng víu dưới chân.
Không thể gắng gượng thêm được nửa, em phải ngồi thụp xuống buộc lại. Buộc xong đứng lên em không còn thấy các bạn ở trước mặt nữa. Em chạy vội lên, gặp phải một ngã ba. Em muốn gọi nhưng sợ làm lộ bí mật trận đánh.
Mà em ấy à! Chết thì thôi chứ đời nào chịu để mang tiếng trận đánh vì mình mà thất bại. Đáng lẽ phải đi về lối trái thì em chạy bừa sang lối phải. Và em bắt đầu lạc từ đó. Chạy khoảng vài trăm thước em bước tụt xuống một cái hố khá sâu nằm giữa lối đi. Trời tối quá nên em không nhìn thấy. Đáy hố lõng bõng bùn và nước. Đầu em đập mạnh vào thành hố. Em tưởng chết ngất vì đau. Nhưng em gượng dậy được. Em mò mẫm cố hết sức tìm cách trườn ra khỏi hố, nhưng vô ích. Hàng chục lần trườn lên tụt xuống làm cho em kiệt sức. Vết thương dầm lâu trong bùn lỏng càng xót buốt dữ dội. Hai chân em tự nhiên run lẩy bẩy như lên cơn động kinh, không còn sức để đứng vững, em ngồi phệt xuống đáy hố. bùn và nước ngập đến thắt lưng. Tiếng súng giặc bỗng như một đàn chó ngao hung tợn bất thần từ trong bóng tối chồm ra sủa cắn điên cuồng cả bốn phía quanh em, tiếng đạn rít rất gần, nghe đâu như ngay trên miệng hố. Kiệt sức, đau đớn, tuyệt vọng, lo sợ và lạnh đến thấu gan ruột... cả người em dựng hết gai ốc... đầu em choáng váng hai thái dương đau buốt, như có ai dùng một vật gì đó rất cứng siết chặt... Và em ngất đi. Em bỗng thấy mình đang ngồi ở nhà. trên cái đôn cao bằng gỗ trắc chạm trổ, với chiếc đệm nhung màu đỏ chói. Trước mặt em là chiếc đàn dương cầm thân thuộc, mặt gỗ có vài vết xước, nhưng tiếng hay vô cùng. Trên thành khung cửa sổ cạnh cây đàn, cây hồng nhung trong chiếc chậu sứ nước men xanh ngời khoe với em mấy bông hàm tiếu, bên cửa sổ, con sông Hương như màu men chậu sứ, lúc ẩn lúc hiện, sau những vòm cây xanh đậm xa xa... Em mải mê dạo đàn, bản Dòng sông Đa- nuýp xanh. Em đàn và em mơ... Bao giờ mình thật giỏi nhạc, mình cũng sẽ viết một bản nhạc hay không kém gì bản Dòng sông đa- nuýp xanh, tả con sông Hương... Tất cả những người chơi đàn trên thế giới đều thích chơi bản nhạc sông Hương xanh của mình. Ai đã nghe bản nhạc cũng ao ước được đến thăm con sông Hương... Mụ phù thủy mặt mũi dễ sợ gớm ghiếc trong tập truyện cổ tích tiếng Pháp và chị Trang em đang đọc dở để trên mặt đàn, bỗng cựa quậy rồi bước ra khỏi tranh vẽ. Mụ cầm gậy thần phang rất mạnh xuống đầu em... Em bỗng hóa thành một con nhái xanh bé nhỏ. Mụ định phang nữa nhưng em đã vọt được qua cửa sổ... Em bị rơi tõm xuống cái hố rất sâu lõng bõng bùn nước. Một bọn con Tây rất đông không biết từ đâu kéo đen vây quanh miệng hố. Trong tay đứa nào cũng cầm gạch vỡ, đá, súng cao su... Chúng nhìn em, những cặp mắt vàng như mắt rắn. Chúng hò nhau nhắm em ném tới tấp đá, gạch, những thanh gỗ nhọn, bắn súng cao su... Dưới lòng hố hẹp em cố hết sức nhảy tránh trong một niềm uất ức, kinh khiếp khôn cùng. Những hòn đá, hòn gạch cạnh sắc nham nhở bay sát sạt qua người em, làm bắn tóe bùn nước, phủ kín từ đầu đến chân em... ôi, cảnh tượng hãi hùng này sao mà giống hệt cái lần em nhìn thấy ở gần hồ Tĩnh Tâm. Hồi ấy em còn nhỏ tí chưa đi học. Chị Trang và em ngồi xe tay nhà, vào dạo hồ Tĩnh Tâm. Hai chị em xuống xe, chị dắt tay tha thẩn quanh hồ. Em chợt nhìn thấy phía trước có một đám con nít rất đông đang reo cười, vỗ tay, bu quanh miệng một cái hố cạnh lề đường. Tò mò, em gỡ tay chị ra, chạy đến xem chúng làm gì mà vui thế. Chúng thi nhau cạy gạch bên lề đường ném tới tấp xuống đáy hố. Dưới đáy hố một con nhái xanh đang nhảy trốn cuống cuồng. Con nhái tội nghiệp hụp lặn sâu xuống lớp nước đục ngầu, nhưng ngạt thở quá nó lại nổi đầu lên Và trận mưa đá gạch lại tới tấp rơi xuống quanh mình nó. Cặp mắt con nhái xanh vốn đã lồi lại càng thêm lồi ra vì khiếp sợ và như đang ngước nhìn em van lạy cầu cứu, ôi cái nhìn của nó như xuyên suốt trái tim em. Em lắp bắp kêu to: "Đừng ném nó mà tội nghiệp! Đừng ném nó mà tội!". Nhưng tiếng kêu xin của em lại càng làm cho bọn trẻ thích thú hơn. Chúng càng ném hăng hơn Và một đứa, thằng lớn nhất bọn, đã ném một hòn gạch vỡ trúng giữa lưng con nhái. Con nhái kêu lên một tiếng thảm thương, xé ruột.
Bốn chân con nhái giật giật rồi nổi bềnh lên mặt nước đục ngầu, phơi cái bụng trắng bệch. Bốn chân nó thôi giật, duỗi thẳng đờ. Và cặp mắt thao láo của nó vẫn đang nhìn em như nó chưa chết.. Em rùng mình và bật òa khóc nức nở. Và thật bất ngờ, em xông ào đến trước mặt cái thằng vừa ném chết con nhái. Nó lớn nhất bọn. Em đứng mới chỉ đến ngực. Em chụp lấy bàn tay vừa ném đá của hắn, cắn thật mạnh với tất cả sự hung dữ của một con sói con bị người ta dẫm phải đuôi. Mặc dầu nó khỏe gấp ba em, nhưng bị tấn công bất thình lình nó phải kêu, nhảy lùi trở lại như muốn bỏ chạy. Bàn tay bị cắn khắc những dấu răng rườm máu. Khi đã hoàn hồn, nó liền nhào tới định đánh em để trả thù, nhưng may mắn vừa lúc đó chị em và người kéo xe kịp chạy đến...
Cảnh tượng hôm đó đã gây một vết bỏng rất sâu trong trí nhớ của em. Tuy chuyện xảy ra từ ngày em còn bé tí, nhưng mỗi lần bất chợt nhớ lại, hai mắt em lại cay xè, rớm lệ... Trước ngày vào Vệ Quốc Đoàn em có sáng tác một bản nhạc ngắn bốn câu nhan đề: "Cái chết của con nhái xanh nhỏ bé". Nhiều lần em ngồi một mình đàn lại bản nhạc sáng tác đầu tay của mình vừa dạo đàn vừa khóc nức nở, âm nhạc đã làm cho cái chết của con nhái tội nghiệp hơn, nhức nhối hơn, bi thương hơn. Và lúc này, cũng chính cái thằng lớn nhất bọn ấy, nậy cả tảng đá lát đường rất lớn, nâng lên bằng cả hai tay, ném trúng bàn chân trái của em với một tiếng nổ dữ dội làm chao đảo thành phố. Em kêu thét kinh hoàng và bừng tỉnh cơn ác mộng. Xung quanh em tiếng nổ ran ran. Chốc chốc lại bùng lên một tiếng nổ rất lớn làm mặt đất chuyển rung như tiếng pháo đùng giữa tràng pháo cối, tiếng nổ của bom, mìn ba càng, đại bác. Chính là tiếng nổ em nghe thấy trong mơ: Mặt trận đang vào giờ cao điểm tấn công.
Ngồi dầm lâu trong bùn và nước em thấm lạnh thấu xương. Em cố dưới người định đứng lên nhưng hai cẳng chân em không làm sao nhúc nhích nổi như đã bị bại liệt Sau nhiều lần gắng hết sức nhưng đều vô hiệu. Một nỗi hoảng sợ, kinh khiếp chưa từng thấy xâm chiếm trái tim nhỏ bé của em. Em bật khóc to thành tiếng.
8.
Quỳnh ơi! Quỳnh! Quỳnh ơi! Quỳnh!
Tiếng ai gọi tên em đột ngột cất lên giữa tiếng súng dậy trời. Em không còn tin vào tai mình nữa. Em ngợ quá, chắc là mình tưởng tượng ra đấy thôi. Nhưng tiếng gọi mỗi lúc một vang to gần hơn, như muốn át cả tiếng súng. Lúc này thì em không thể nhầm được nữa. Và em còn nhận được ra tiếng của Mừng. Em mừng đến nghẹn thở. Đó là nỗi mừng của người chắc chắn là mình sẽ bị chết chìm bỗng hai chân chạm đến đất cứng. Cả đời em, em chưa bao giờ nghe ai gọi tên mình thân thiết đến thế, cảm động đến thế, kể cả cha em, mẹ em, hai chị ruột của em. Em ngửa cổ lên, thu hết bao nhiêu hơi sức còn lại kêu to:
Ơi! Ơi! Ơi! Quỳnh đây, Mừng ơ...i...ơi! Tiếng gọi, tiếng đáp tan đi giữa tiếng súng trận và đêm tối dày đặc. Em bỗng nghe tiếng Mừng hỏi ngay trên miệng hố:
Quỳnh ơi, Quỳnh ở mô đó?
Mình ở dưới hố ni. Mình bị bổ rớt xuống hố.
Có sâu lắm không?
- Sâu sâu lắm.
Không leo lên được à?
- Hai chân mình bị què rồi... Mà hố trơn lắm. Mình không đứng dậy được....- Quỳnh trả lời qua tiếng khóc thút thít.
Chừ làm răng hè... Để mình tụt xuống đưa cậu lên nghe. Dưới đó có mảnh chai cọc nhọn chi không?
- Không, chỉ có nước xắp xắp với bùn thôi.
Huỵch! Mừng tụt từ trên miệng hố xuống, đứng ngay trước mặt Quỳnh. Đảy hố hẹp, mặt hai em như gần sát vào nhau mà không nhìn rõ nhau. Phía trên đã tối, đáy hố càng tối hơn.
- May quá, - tiếng Mừng hổn hển, - nhảy xuống mình chỉ lo đạp phải bàn chân đau của cậu.
Mừng ngồi thụp xuống. Hai em ôm chặt lấy nhau trong vòng tay, và cùng khóc. Cả hai cùng cảm thấy nước mắt của bạn ấm nóng trên má mình. Quỳnh hôn bạn, nồng nàn trìu mến, cảm kích:
- Không có cậu thì chắc mình chết luôn dưới hố ni...
Mình đã định tìm thêm một lúc nữa mà không thấy, mình sẽ núp vô một chỗ mô đó, chờ đến sáng mai tìm thì răng cũng thấy.
- Chỗ ni là khu vực giặc, đi tìm mình ban ngày tụi giặc ngó thấy, hắn bắn chết.
- Chết thì chết, sợ cóc chi! Mình chân lành tụi hắn có bắn, mình còn chạy còn núp được. Quỳnh chân đau, chạy núp làm răng được, phải chịu ngồi mà hứng đạn. Nghĩ rứa là mình không còn thấy sợ chi nữa hết.
Tiếng súng tấn công khắp Mặt trận lắng dịu dần. Điều đó báo hiệu đêm đã chuyển sáng. Mừng liền xốc nách bạn, nâng bạn đứng lên. Có bạn giúp, sau một lúc gắng gượng, Quỳnh đã đứng dậy được.
- Úi chao, rứa mà mình cứ tưởng hai chân mình bị bại rồi. Chừ làm răng mà lên được hè. Chân mình đau quá nhấc không nổi...
Mừng sờ soạng quanh thành hố. Hố trơn nhẵn, không có qua một lỗ hõm nào có thể đặt chân bám tay mà treo lên. Mừng bối rối.
Chà, trèo lên được cái hố ni ngó bộ còn khó hơn cà trèo lên mấy cây bút bút to nhất ở phía bên trên bến đò Trường Súng. - Chợt Mừng reo khẽ:
A, nghĩ ra được cách rồi! Chừ cậu xoay người lại, áp sát ngực vô thành hố, cố đứng cho vững nghe.
Quỳnh nghe theo bạn nhưng chưa hiểu bạn định làm gì. Mừng qùy thụp xuống dưới chân bạn, ngâm nửa người trong bùn và nước thò tay nắm cổ chân phải của bạn, hỏi:
Chân ni là chân lành phải không?
Em nâng bàn chân bạn đạt lên vai mình. Nước và bùn ở bàn chân Quỳnh chảy ròng ròng từ vai xuống đến thắt lưng em. Em nói:
- Quỳnh gắng đứng cho vững nghe. - Em lại nhẹ nhàng cầm lấy bàn chân đau của bạn ngập sâu trong bùn, giúp bàn đặt tiếp lên vai trái mình... Quỳnh run rẩy đứng hai chân lên vai bạn. Mừng nói:
- Chừ mình đứng thẳng lên, Quỳnh phải dựa sát vô thành hố cho khỏi bổ nghe. Khi mô tay Quỳnh bám được miệng hố rồi thì cố bám cho chắc mà trườn lên nghe.
Mừng cúi đầu, tì trán vào vách hố trơn ướt như con bò sắp lao vào trận chọi, hai cánh tay em giang rộng bám vào thành hố, rồi gắng hết sức từ từ đứng thẳng lên, nâng cả người bạn trên đôi vai bé nhỏ của em, đưa bạn nhích dần lên phía miệng hố, mấy lần hai chân em muốn qụy xuống vì sức nặng trên vai, nhưng em cố nghiến chặt răng để đứng vững. Ngực em tức ran muốn đứt hơi vì gắng quá sức. Cứ thế này chịu thêm mấy giây nữa em quỵ mất... Nhưng tiếng Quỳnh hổn hển reo trên đầu em:
- Đến miệng hố rồi.
- Bám cho chắc nghe - Mừng nói qua tiếng thở đứt quãng: - Gắng trườn lên đừng để tuột xuống nghe.
Ừ - Ngực Quỳnh đã nằm vắt được lên miệng hố.
Mừng nắm hai cổ chân bạn, nhón chân, chớm người đun lên giúp bạn trườn ra khỏi hố. Tiếng thở của hai em ì ạch, nặng nề.
Lên được rồi! - Tiếng Quỳnh mừng rỡ. - Chừ Mừng làm răng lên được?
- Quỳnh sờ quanh tìm cái chi nhọn đào được đất thì ném xuống đây cho mình. - Tiếng Mừng nói với lên.
Quỳnh bò bốn chân sờ soạng mặt đất. Em nhặt được một mảnh thân cây bị đạn đại bác giặc bắn toác, có đầu nhọn. Em bò đến bụm miệng hố:
Đây rồi, mình thả xuống nghe.
Với mảnh thân cây Quỳnh thả xuống. Mùng sờ soạng khoét vào hố những lỗ nhỏ làm bậc đặt chân. Và chỉ một loáng em đã trèo khỏi miệng hố. Hai em ôm chầm lấy nhau, nằm dài trên mặt đất. Thắng lợi làm cho hai em quên hết nhọc mệt, hiểm nguy, cùng rúc rích cười.
Khắp mặt trận lúc này đã gần im hẳn tiếng súng.
Hai em cứ ôm nhau như vậy nằm im hồi lâu trên mặt đất lổn nhổn gạch đá, cạnh cây, hố đạn, mảnh vụn sắt thép... Cả hai áo quần ướt sũng, lép nhép bùn. Mừng chợt vùng ngay dậy, nói:
- Nằm thêm chút nữa e ngủ quên mất thôi Quỳnh ạ.
Cậu Vịnh đi tìm Quỳnh trước mình rất lâu mà không thấy tăm hơi cậu ta mô cả. Không biết cậu ta có tìm được đường mà về đơn vị không. Mình lo lắm... Đường sá trong khu vực ni cậu ta mô có thuộc.
- Hay cậu cứ để mình ngồi đây chờ. Câu đi tìm Vịnh-sưa lại một lần nữa, lỡ may ra gặp.
Chân cậu đau rứa mà còn chờ thì ra răng được khỏi khu vực ni trước lúc trời sáng? Chứ cậu để mình dìu ra đã.
Về đơn vị mà không thấy Vịnh-sưa, mình sẽ xin đại đội trưởng lộn trở vô tìm.
Mừng xốc nách bạn đứng lên. Em định dìu bạn đi.
Nhưng mới bước được mấy bước, Quỳnh kêu ối đau đớn, ngã lăn xuống đất. Em nói gần như khóc:
Mình không đi được mô Mùng ạ. Chân mình đau lắm... Hay cứ để mình ở lại đây Mừng ra trước đi. Chứ chờ nhau, trời sáng tụi giặc nó thấy thì chết cả hai.
Mừng kêu to giận dỗi:
Cậu nói chi lạ rứa! Đời mô mình lại chịu bỏ cậu ở đây cho tụi giặc hắn bắn chết? Thôi đi cậu, đừng nói bậy bạ nữa.
Mừng cúi xuống chìa lưng ra trước mặt ban:
- Ôm cổ mình, mình cõng đi. Cậu tưởng cậu to béo lắm mình không công nổi à? Để mình phi như ngựa cho cậu coi! Lúc đó cậu cấm kêu: Chạy mau quá chóng mặt nghe!
Nhưng Mừng không những không phi được như ngựa cho Quỳnh chóng mặt, mà đi còn chậm hơn rùa.
Cõng bạn trên lưng, em bước những bước lặc lè xiêu vẹo Đi được mấy chục thước em đã thở dốc, hai đầu gối run lẩy bẩy chỉ chực khuỵu xuống. Em phải đặt bạn xuống, dừng lại nghỉ. Nghỉ đỡ mệt, em lại cõng... Với giọng thều thào vì hụt hơi, em cố nói vui cho yên lòng bạn:.
- Sợ chân cậu đau tội chứ không thì mình phi nước đại cho cậu chóng mặt chơi.
Cứ thế, em tha được bạn ra khỏi khu vực giặc thì trời vừa hửng sáng.
9.
Đã hơn một tiếng đồng hồ, Vịnh-sưa lặn lội, mò mẫm trong khu vực giặc đóng tìm bạn bị lạc. Trời tối quá, cách ba bước là không nom thấy gì, nhưng em không dám gọi to. Em sợ bọn giặc núp đâu đó nghe tiếng. Em khẽ huýt sáo rồi giả tiếng cú kêu (ám hiệu của tổ đã được quy định trước, lúc cần tìm nhau). Không có tiếng trả lời. Em lại tiếp tục dò dẫm tìm kiếm. Có lúc em nghe vẳng như có tiếng Quỳnh gọi em đâu đó. Em nhắm tìm đến.
Em chui bừa qua những lỗ tường đục thủng, trèo bừa qua những đống nhà cửa đổ nát lởm chởm sắt, gỗ, gạch, đá, tảng bê tông... Mấy lần em suýt bước hụt xuống những miệng giếng nằm lấp dưới những cành cây gẫy nát. Em vấp ngã liên tiếp, có khi lộn nhào mấy vòng, nhưng chỉ dám nhăn nhó xuýt xoa khe khẽ.
Em ngồi phịch xuống đất thở dốc, ứa nước mắt vì cực quá. Xung quanh chuột chạy huỳnh huỵch như người. Một mùi thối khẳm đến lợm mửa - có lẽ là mùi xác chết - xộc vào mũi em. Em thấy sợ đến dựng cả tóc gáy Mấy lần em muốn tìm đường quay trở về nhưng nghĩ đến nhiệm vụ tổ trưởng, nhớ đến câu nói của tổ trưởng trong buổi họp đội: "Bỏ bạn lúc lâm nạn là điều xấu xa tồi tệ nhất đối với người chiến sĩ". Đang ngồi em đứng bật ngay dậy chùi nhanh nước mắt, tiếp tục lặn lội đi tìm bạn.
Em bỗng giật bắn người. ánh chớp lửa nhoang nhoáng và tiếng súng giặc nổ toang toác ngay trên đầu em. Cả mặt trận, tiếng nổ vang dậy cả bốn phía không còn phân biệt hướng nào vào hướng nào. Em nép mình sau một gốc cây to để tránh đạn. Đứng ở đó khoảng một tiếng đồng hồ, khi tiếng súng bốn phía đã êm êm, em lại dò dẫm tìm lối đi trong cái biển bóng tối đầy họng súng giặc. Nhưng em đã hoàn toàn mất phương hướng. Bóng tối lúc này càng dầy đặc hơn, tưởng lấy đũa mà quấy được như quấy bánh đúc. Đất trời, địa hình, địa vật chung quanh hòa thành một khối đen đặc.
Mệt quá, lại lạnh nữa, bấy giờ em mới nhận ra áo quần mình ướt sũng nước. Trời đổ mưa mỗi lúc thêm nặng hạt. Đang dò dẫm đi, em chợt vấp phải thềm một ngôi nhà có hàng hiên với cột trụ rất cao. Trèo lên năm bậc thềm xi măng xây hình cánh cung, em ngồi phịch xuống nền đá hoa lạnh ướt, dựa lưng vào một cột trụ...
Bao nhiêu câu chuyện em nghe được về các anh lớn bị thương, bị lạc, phải nằm lại trong khu vực giặc, lúc này hiện ra dồn dập trong ta nhớ em... Bọn giặc phát hiện được các anh, chúng đã giết các anh hết sức dã man. Chặt đầu, cắt cổ, lưỡi lê xuyên nát ngực... Em thấy ớn lạnh rùng mình, càng nóng ruột lo lắng cho bạn. "Chưa chừng lúc ni Quỳnh đang bị thương nằm chèo queo ở một góc nhà đổ nát nào đó... Chuột bò cả lên người lên mặt...". Em buồn rầu nghĩ vậy và nước mắt lâm râm trên hai gò má. Cơn buồn ngủ đột ngột ập đến, em cố hết sức chống chọi... Trong trạng thái nửa mơ nửa thức, chợt em ngửi thấy quanh đâu đây có mùi ét xăng nồng nặc, và cả những mùi gì khen khét, hăng hắc rất lạ... Em chưa kịp hiểu ra mùi gì đã ngủ thiếp đi. Em cứ ngồi dựa cột như vậy mà ngủ. Tưởng chừng lửa đạn có nổ ngay bên tai cũng hay biết.
Vịnh giật bắn người tỉnh dậy như có ai dí lửa vào gan bàn chân. Trời đã sáng trưng. Có tiếng nói xì xồ lạ tai vẳng đến rất gần, nghe như ở ngay trên đầu.
"Chết cha rồi?" Em buột miệng khẽ kêu, trườn mình rất nhanh, nép ra phía sau cái chân cột bê tông. Em dụi mắt nhìn kỹ chung quanh thấy mình đang ở dưới mái hiên một tòa nhà lớn có nhiều tầng. Xung quanh là vườn cây rậm rạp. Thấp thoáng sau những tán cây là những ngôi nhà hai ba tầng, các cửa sổ đều chất kín bao cát: Những ngôi lầu vị trí giặc. Tiếng xì xồ lạ tai vừa rồi chắc là vẳng đến từ những ngôi lầu hung hiểm kia.
Em để ý về phía tay trái có một dãy tường rất cao nằm gần kề sát tường hồi ngôi nhà em đang núp Bên trên dãy tường có hàng cọc sắt nghiêng nghiêng, chăng dây thép gai Phía bên kia đường chợt vọng sang tiếng ô tô nổ máy, tiếng sắt thép va chạm, tiếng người xì xồ gọi nhau. Đúng là tụi giặc rất đông ở bên đó! Vịnh cố cúi thấp người hơn. mắt không rời khỏi hướng bức tường.
Như một người đi câu bất ngờ nhìn thấy đàn cá, ý thức của người chiến sĩ trinh sát lúc bất ngờ phát hiện ra kẻ địch trỗi dậy trong em mạnh mẽ đến nỗi làm em quên phắt mọi sợ hãi lo lắng của hoàn cảnh mình hiện nay.
"Phải điều tra coi tui mũi lõ đang làm cái chi bên đó mới được". Em tự ra lệnh cho mình như vậy và lập tức hành động.
Rời chỗ núp, em bò men theo bức tường, đến phía sợi dây cáp thu lôi. Em bám vào sợi dây cáp, thận trọng leo lên. Em cũng là một tay leo trèo giỏi của đội. Thoắt một cái, em đã trèo được đến tầng gác hai ngôi nhà.
Đứng cao hơn bức tường chăng dây thép gai, em đưa mắt nhìn sang một khu nhà kho lớn một tầng, mái lợp tôn, chất đầy những phuy xăng, những hòm đạn lớn nhỏ.. Hàng chục chiếc ô tô vận tải đang rù rù nổ máy.
Bọn giặc lố nhố đi lại trước sân kho. Tây trắng có, Tây đen, Việt gian có... Sợ đứng cheo leo ở đây lâu, bọn giặc bên để ý nhìn thấy, em bám theo sợi dây thu lôi trèo tuốt lên tầng gác tư ngôi lầu. Một cánh cửa chớp sơn xanh mở rộng, cách em chùng một với tay. Em nhoài người bám được vào cánh cửa. Bám chắc rồi, em đạp mạnh chân vào sợi dây cáp thu lôi. Cánh cửa chớp mang theo em áp sát vào bậu cửa sổ. Cảnh tượng này giống hệt trò em mê chơi ngay còn nhỏ.. Cách nhà bác em hai đường kiệt, là nhà lão bang tá nối tiếng giàu có nhất vùng An Cựu. Xung quanh nhà, hàng rào sắt bao bọc, có hai cánh cổng sắt rất lớn, sơn xanh. Em thường lẻn trốn bác gái, chạy đến cổng nhà lão ta, nhìn trước nhìn sau không có ai, em liền bám vào cánh cửa, một chân đứng lên thanh sắt ngang cuối cùng, một chọi mạnh xuống đất. Thế là cánh cửa đưa em đi theo hình rẻ quạt với tiếng gió ù ù bên tai, nhanh chậm tùy em điều khiển. Em tưởng tượng mình là người lái ô tô, người lái tàu hỏa... Lần này chỉ có khác, cánh cửa đưa em đi cách mặt đất những bốn tầng lầu!
Em bám một tay rồi hai tay lên bậu cửa sổ. Thu hút bao nhiêu hơi sức còn lại, em rướn người nằm. ngang lên bậu cửa và nhào vào bên trong. Em rớt bịch xuống sàn đá hoa, đau gần chết giấc Nằm im một lúc để lấy lại sức, em đưa mắt xung quanh. Em đang ở giữa một gian buồng lớn, không có đồ đạc gì ngoài một cái tủ đứng đồ sộ kê sát tường.
Cạnh tủ là một vuông cửa sổ hai cánh cửa chớp đóng kín nhìn về phía khu kho xăng đạn của giặc. Vinh vùng ngay dậy, chạy đến khung cửa, ghé mắt vào một lỗ thủng trên các nan chớp, nhìn xuống. Cái kho xăng và đạn giặc nằm dưới chân em...
Trời chợt ửng nắng. Cái màu nắng hiện ra sau những ngày dài mưa rả rích, thối đất, thối cát, mới tươi trông rực rỡ làm sao? Người chiến sĩ trinh sát mới mười bốn tuổi đời, trong cái giây phút gay go quyết liệt nhất đời mình, cũng phải ngẩn ngơ một lúc trước cái màu tươi trong, lộng lẫy, rực rỡ đến huyền hoặc của nắng...
Bầu trời mùa đông ẩm ướt, ngổn ngang những đám mây chì đen bẩn, mỗi lúc thêm quang quẻ như có cái chổi khổng lồ vô hình đang ra sức quét dọn. Da trời xanh thao thiết, cao vời vợi, hiện ra cùng với màu nắng mới trong veo... Điều lạ kỳ hơn hết là cái màu nắng mới rực rỡ ấy lại làm cho đầu óc con người bỗng trở lên sáng suốt tươi vui, táo bạo, tự tin gấp bội phần. Và làm cho lòng người bừng bừng, náo nức, muốn lập nên những kỳ tích thật vang dội, những chiến công thật lẫy lừng...
Sau một hồi quan sát, Vịnh nhận thấy ngôi lầu mình đang đứng, cao vượt hẳn lên những ngôi lầu chung quanh. Ngôi lầu hoàn toàn bỏ trống. Hình như bọn giặc định dùng nó làm bình phong che cho cái kho xăng đạn bí mật của chúng ngay ở phía sau. Đây quả là một vị trí quan sát không chê vào đâu được! Vịnh reo thầm trong bụng. Bọn giặc ở các ngôi lầu xung quanh bắt đầu hoạt động. Những cái mũ sắt, những khuôn mặt râu ria xồm xoàm, thập thò sau các bao cát, những chấm nòng súng lấp ló sau các lỗ châu mai một cái váy đỏ thấp thoáng sau một khuôn cửa kính vỡ. Phía dưới khu nhà kho, tiếng máy ô tô nổ rền. Những phuy xăng lăn ầm ầm trên sân đổ bê tông. Bọn giặc ra vào đi lại, lố nhố dưới các mái kho. Chúng sì sồ quát tháo, la hét.
Một thằng Tây cao lớn, lưng đeo súng lục, tay cầm một chai bia hoặc rượu gì đó, đứng dạng hai chân, ngửa cổ tu.
Quan sát kỹ địa hình địa vật chung quanh, Vịnh đã xác định được vị trí ngôi lầu này. Tuy nằm rất sâu trong khu vực giặc, nhưng nếu tính theo đường chim bay, nó không xa khu vực trường Kỹ Nghệ mấy. Trường Kỹ Nghệ là vị trí hiện quân ta đang chiếm giữ. Tổ cậu Hiền hiện đang tham gia chiến đấu tại đơn vị đóng ở đấy. Em còn biết trên chót vót nóc lầu cao nhất trường, có một đài quan sát bí mật mà Ban chỉ huy đơn vị giao cho tổ Thiếu nhi trinh sát phụ trách. Cách đây hai hôm, em chạy liên lạc qua đây, được Hiền dẫn cho lên xem đài quan sát, đồng thời cũng muốn khoe.. Đứng ở đài quan sát có thể nhìn bao quát toàn bộ khu vực giặc đóng. Và nếu có ống nhòm tốt có thể nhìn rõ lâu đài cung điện, phố xá bên kia bờ sông Hương.
Chưa biết chừng lúc ni, các cậu Hiên, Đồng, Hòa đen, Nghĩa, đang đứng trên đó chĩa ống nhòm nhìn đúng vô cái buồng mình đang đứng, chuyện trò, cười nói vui như Tết! Các cậu ấy có ngờ mô mình đang ở bên trong, chơ vơ một mình, vừa đói vừa mệt bốn phía họng súng giặc tua tủa... ". Ý nghĩ đó làm cho Vịnh rơm rớm nước mắt. Và cũng chính ngay lúc đó một quyết định táo bạo vụt lóe trong óc em: "Trèo lên nóc lầu, dùng cờ tín hiệu báo cho đài quan sát bí mật của cậu Hiền biết về kho xăng đạn núp kín dưới trên ngôi lầu này! Nếu đài quan sát nhận được tin mình đánh về, chắc chắn Ban chỉ huy Mặt trận phải cho ca- nông móc - chê rót sau đây hoặc cho Quyết tử quân mang bom vô đánh. Một cái kho xăng đạn to ra ri, đánh trúng thì tha hồ mà cháy, mà nổ? Cả ba đời dòng họ tụi Tây kéo đến đây dập cũng đừng hòng tắt!" Ý nghĩ làm cho tim em đập rộn lên vì vui thích hả hê. Phút chốc quên tất cả đói, cả mệt, cả khát.
Em vốn có tiếng trong đội là tay tháo vát, nhanh trí. Chỉ mấy phút sau em đã vạch xong kế hoạch hành động. Trước tiên phải kiếm được hai tấm vải trắng và đỏ làm cờ tín hiệu. Vải trong kia rồi, em chạy lại giật phắt cái rèm cửa có thêu đăng - ten rất đẹp. Rèm quá rộng, em ghé răng cắn, xé làm đôi cho vừa khuôn khố lá cờ Nhưng còn vải đỏ, không biết làm cách chi mà kiếm được đây Em chợt nhìn trật xuống cái quần quân phục làu mận chín, bê bết bun đất đang mặc. Cái quần này trước đây là của một anh ở đại đội bộ. Nó vốn màu "be" anh đem nhuộm màu mận chín để diện. Không may nhuộm phải màu tươi quá, mặc trông rợ, anh đành tặc lưỡi cho em. "Vải đỏ đây rồi chứ còn phải kiếm mô'". Em khẽ reo lên mừng rỡ, cởi phăng luôn cái quần lên ngấm nghía. Bên trong em không có quần đùi. Nhưng kệ ở đây toàn Tây với đầm, việc cóc chi mà xấu hổ! Em xé quần theo đường chỉ, chọn một khoảng rộng nhất xé thành hình vuông. Vải cờ tuy không phải mầu đỏ như quy định, nhưng em tin cậu Hiền sẽ nhận ra: "Cậu ta thông minh và giỏi môn cờ tín hiệu nhất đội mà..." Em tìm được hai cái que thông nòng súng nằm lăn lóc xó tủ, làm cán cờ. Em thất chặt hơn cái thắt lưng da to bản quanh lưng. Cuộn tròn hai lá cờ tín hiệu, dắt chéo sau lưng để hai tay được rảnh mà bấu víu, leo trèo.
Một chân chọi tường, một chân chọi vào vách tủ, em trèo lên nóc tủ. Ngay trên đầu em là một lỗ vuông ăn thông lên trần nhà. Nhón chân em bám vào thành mép lỗ vuông, ráng hết sức đu người lên, chui qua. Phía trên trần nhà tối om, chuột chạy huỳnh huỵnh. Mái ngói và những rui, đòn tay xà ngang đã ở ngay sát đầu em. quờ quạng hai tay, tìm chỗ thuận tiện, em bắt đầu dỡ ngói như một một tay đạo tặc lành nghề. Trên đầu em, một vuông trời xanh rực rỡ nắng tươi đột ngột hiện ra như có phép lạ.
Vuông trời to dần theo bàn tay dỡ ngói của em. ước đã chui lọt người, em trèo lên cái xà gỗ, chui đầu qua mái ngói, giữa khoảng cách hai rui. Bám vào hai cái rui gỗ, em nhún mạnh chân, lọt hẳn cả người ra ngoài. Mắt em bỗng hoa lên vì chói nắng và choáng ngợp. Ruột em co thắt như muốn nôn. Chao ôi, chưa bao giờ em đứng cao đến thế, gần nắng, gần gió, gần mặt trời đến thế.
Gió thổi ù ù bên tai. Mái ngói dốc đứng đáng sợ. Và trơn nữa, rất nhiều rêu... Gan bàn chân em rợn lên, lạnh dọc suốt xương sống.. Không khéo mình trượt chân ngã lăn xuống mất... Mà ngã lăn từ đây xuống đất thì người cứ gọi là là... Em không dám nghĩ tiếp nữa.
Nhưng Vịnh đâu có dễ chịu lùi.
". Ra đi thà chết không lui... ". Câu hát em đội thường hay hát chợt vẳng đến tai em, như thôi thúc cổ vũ: - Vịnh-sưa ơi, hãy đứng vững.
Lòng khao khát được tiêu diệt kẻ thù như các bạn cùng lứa tuổi: Đuốc Sống, Bát Sắt... trong lòng chú "thợ súng nhỏ" còn mãnh liệt hơn cả cảm giác choáng ngợp, sợ hãi.
Em cúi khom người bám chặt đường sống mái lầu, như con chim gõ kiến bám chặt cành cây. Em mở to mắt nhìn thẳng lên bầu trời một phút làm quen với cảm giác choáng ngợp, với độ cao chóng mặt. Rồi với tất cả thận trọng, em bò nhích lên từng tí một theo đường sống mái lầu Tay em đã với được chóp nóc ngôi lầu có cây cột thép thu lôi như một ngọn giáo búp đa đâm thẳng lên bầu trời. ôm chặt cây cột thép thu lôi. Em đứng thẳng người lên, em cởi áo quân phục màu cỏ úa, xoắn lại làm dây thừng và buộc chặt người vào cây cột thép ngang chỗ bụng. Lúc này em hoàn toàn trần truồng ngoài cái thắt lưng da và sợi thừng ngang bụng.
Sau khi đă buộc chắc, vững vàng, em đưa mắt nhìn bao quát cảnh vật trải rộng dưới tầm mắt. Chỗ em đứng cao vượt hẳn lên những cao điểm quanh đó. Dưới mắt em mái ngói lô xô, chen lẫn giữa những tán cây um tùm. Ngoảnh về phía sau, con sông Hương xanh ngời màu thép mạ. Hai nhịp cầu Tràng tiền bị giật đổ, gục xuống nước như một chữ V hoa khổng lồ. Cột cờ kia, Phú Văn Lâu kia... Kia là cửa Thượng Tứ, kia là bến đò Trường Súng... Toàn cảnh thành phố như được thu gọn lại dưới tầm mắt em. Em bỗng thấy cổ mình nghẹn lại, muốn khóc: "Chao ôi. Huế mình đẹp biết mấy'" Em quài tay ra sau lưng, rút hai cây cờ tín hiệu cầm sẵn hai tay. Em đưa mắt tìm cây thập tự trên nóc nhà thờ Phú Cam để làm chuẩn. Em đưa hai lá cờ lên, hướng về phía đài quan sát bí mật, đánh đi bức điện mà em đã tính toán, suy nghĩ làm sao thật rõ, thật ngắn, thật chính xác:
Một kho xăng, đạn lớn ngay phía sau ngôi lầu tôi đứng. Yêu cầu bắn!
Vị trí Vịnh đứng đánh tín hiệu ngay giữa lòng quân giặc, nhưng vì cao quá nên chúng bất ngờ. Từ trước tới nay chúng vẫn quen nhìn quân ta từ dưới đất xông lên - và chúng cho rằng ta cũng chi có thể từ dưới đất xông lên mà thôi. Chúng vẫn đinh ninh bầu trời và các điểm cao trong khu vực chúng là thuộc về chúng. Chúng chỉ nhìn lên cao khi có máy bay đến thả dù tiếp tế.
Bởi vậy mãi cho đến hai tiếng đồng hồ sau, khi Vịnh đã đánh lặp đi làm lại ít nhất là năm mươi lần bức điện, chúng mới phát hiện được..
10.
Sáng sớm hôm đó, Hiền được điện của Đội trưởng từ Chỉ huy sở Mặt trận khu C gọi lên gặp anh có việc khẩn. Hiền giao lại cho Đồng phụ trách tổ. Vốn tính cẩn thận, trước khi đi, Hiền dặn đi dặn lại các bạn:
- Các cậu nhớ đừng mải chơi mà bỏ trống đài quan sát đó nghe. Một phút cũng không được bỏ. Lỡ có việc chi thì thật xấu mặt cho cả đội" Mỗi lần có việc phải về chỉ huy sở là Hiền mừng rơn. em có sẽ có dịp gặp Vệ-to-đầu học thêm vài môn xiếc để về tự luyện. Hai em bây giờ thân nhau nhất đội.
Tập xiếc cũng gian nan vất vả ghê người. Trán Hiền hôm bầm tím, hôm mọc sừng vì tập cái môn nhào lộn, đi bằng hai tay...
Tổ của Hiền được Ban Quân nhu mặt trận cấp phát một cái ống nhòm cũ. Việc cấp phát đặc biệt này làm bốn em hết sức hãnh diện. ống nhòm có bao da hẳn hoi, nhưng chẳng mấy khi các em chịu bỏ bao. Hết em này đến em khác, chuyền tay nhau đeo lủng lẳng trước ngực như đeo huân chương. Cả lúc ăn cơm các em cũng đeo.
Sợ các bạn giành nhau vỡ, Hiền quy định chỉ bạn nào đến phiên trực đài quan sát mới được phụ trách ống nhòm.
Ngày ngày đứng trên đài quan sát, các em thay phiên nhau lia ống nhòm sang khu vực Pháp, lòng khấp khởi hy vọng sẽ phát hiện được một vị trí chỉ huy, một hỏa điểm quan trọng để lập công. Nhưng đáng tiếc là chưa em nào vớ được cái may mắn đó. Chính nhờ sự quan sát chăm chỉ và liên tục này, mà sáng hôm đó Hòa-đen phát hiện được Vịnh đánh cờ tín hiệu...
Giờ đó, phiên Hòa-đen trực đài qua sát. Dựa ngực vào thành công sự xây bằng bao cát, hai tay nâng ống nhòm lên nên mắt em nhìn về phía khu vực Pháp, từ tây sang đông. Em bỗng chững lại, khu to giật giọng:
- Các cậu ơi lạ quá! Lại đây, mau lên! Đồng và Nghĩa đang chơi cờ chó trong khoảng bóng râm của thành công sự. Hai em bỏ bàn cờ, lao đến.
Hòa- đen mắt không rời ống nhòm nói:
- Có một người không biết làm cái chi mà đứng chót vót giữa khu vực Tây, phất phất hai cái chi như hai lá cờ.
Đồng cầm ngay lấy cái ống nhòm trong tay Hòa-đen . Đặt lên mắt, chĩa về phía Hòa-đen chỉ. Từ đài quan sát đến nóc lầu Vịnh đứng, tính theo đường chim bay không xa lắm, nhưng chiếc ống nhòm cũ quá nên không phân biệt được tầm vóc người đánh tín hiệu. Sau chừng hai phút chăm chú qua sát, Đồng thoảng thốt kêu lên:
- Người này đang phất cờ "moóc" đánh tín hiệu về phía đài quan sát của ta. Mình đã đọc được một chữ B và một chữ U các cậu ơi! Cả ba em vốn dốt môn cờ tín hiệu. Trước đây, khoa mục này được đội trưởng huấn luyện rất kỹ, nhưng cả ba đều lười học. Hôm thi khoa mục, cả ba đều bị đội trưởng cho xơi "trứng vịt". Hiền giỏi nhất môn cờ tín hiệu, nhưng thật không may, lúc này Hiền đi vắng.
Tuy chịu không nắm được nội dung của tín hiệu đánh về, nhưng hoàn cảnh đặc biệt của người đánh tín hiệu làm cho Đồng cảm thấy ngay trong việc này có một điều gì hết sức hệ trọng có liên quan đến cuộc chiến đấu của quân ta. Em gọi to:
- Hòa-đen , cậu chạy ngay xuống chỗ máy điện thoại, gọi về chỉ huy sở Mặt trận, báo cáo cho thật rành rọt: "Có một người hiện đang đứng chót vót giữa khu vực giặc, phất cờ đánh tín hiệu về phía đài quan sát. Cần cho cậu Hiền về ngay để đọc. Còn cậu Nghĩa thì chạy xuống báo cáo với Ban chỉ huy đại đội".
11.
Trong gian chính điện chùa Từ Đàm - Chỉ huy sở Mặt trận khu C - Hiền và đội trưởng đang làm ngồi làm việc cạnh Chỉ huy trưởng. Hai anh em lúi cúi trên tấm bản đồ thành phố Huế trải gần kín mặt bàn, dùng com pa, ê ke, thước đo, kẻ lên bản đồ, vừa rì rầm thảo luận vừa ghi chép vào sổ tay. Chỉ huy trưởng ngồi viết ở cái bàn khác nhỏ hơn, kê gần đó. Khẩu súng săn voi dựng ở mép bàn, máy điện thoại ở góc bàn.
Ngoài môn cờ tín hiệu, Hiền còn khá giỏi về môn đồ bản. Em sử dụng bản đồ thành thạo không kém gì một sĩ quan tham mưu. Trước ngày Huế nổ súng, em đã được học và làm việc tại Ban Họa đồ của trung đoàn.
Chuông điện thoại réo gắt. Chỉ huy trưởng ngừng viết Cầm lấy ống nghe. Trán ông nhíu lại, đầu lắc lắc.
Ông gọi đội trưởng, trao ống nghe cho anh. Anh nhận ngay ra tiếng Hòa-đen . Nhưng không hiểu sao em nói lắp bắp vừa thở hổn hển trong máy, nên không nghe rõ em nói gì. Anh đoán chắc có chuyện gì quan trọng lắm đây Là một người chỉ huy có kinh nghiệm, anh biết bây giờ mà quát to. Hòa-đen sẽ càng líu lưỡi hơn. Anh liền nói vào máy, thong thả từng tiếng một:
-A lô, a lô. Em hãy để ống nghe xuống, rồi làm động tác hít thở đúng năm lần. Sau đó em cầm ống nghe báo cáo. Rõ chưa?
Chừng nửa phút sau: tiếng Hòa-đen trong máy nghe đã khá rành rọt:
- A lô, báo cáo anh, đài quan sát chúng em vừa phát hiện được một người đứng chót vót trên nóc lầu giữa khu vực Pháp đánh tín hiệu bằng cờ về phía đài quan sát. Nhưng chúng em không đọc được tín hiệu... tại ống nhòm mờ quá... Anh cho Hiền về ngay để đọc.
Chỉ huy trưởng chăm chú nghe đội trưởng báo cáo lại tin vừa nhận được. Cặp mắt sâu của ông lúc này nom càng sau hơn. ông chợt hỏi:
- Anh thấy thế nào? Tôi đoán chắc có điều gì hết sức quan trọng đây. Người đánh tín hiệu rõ ràng là người của ta.
- Báo cáo Chỉ huy trưởng, tôi cũng phán đoán nhưvậy. Anh quay sang nói với Hiền:
- Em gắng chạy thật nhanh về đài quan sát, đọc và ghi lại tín hiệu, rồi gọi ngay điện thoại về đây báo cáo.
- Rõ! - Hiền đứng nghiêm lại trả lời, chụp vội cái mũ cứng lên đầu, định lao ra cửa. Nhưng Chỉ huy trưởng đã kịp đứng lên, đưa tay ngăn em lại. ông nói:
- Người đánh tín hiệu chắc không thể đứng lâu trên nóc lầu ấy được. Bọn giặc trước sau cũng sẽ phát hiện ra. Em chạy về e chậm mất...
Trán ông nhíu lại, những ngón tay dài xương xẩu bóp bóp mạnh chiếc cằm như được đẽo bằng đá, râu mọc tua tủa vì đã hai hôm nay ông chưa kịp cạo...
Ông hỏi Hiền:
- Em có giỏi môn cờ tín hiệu không?
- Báo cáo Chỉ huy trưởng, giỏi ạ.
Em cưỡi ngựa được chứ?
Hiền lúng túng:
Báo cáo Chỉ huy trưởng, em chưa được cưỡi ngựa bao giờ...
- Chà gay quá hè! - Chỉ huy trưởng buột miệng nói.
Những đường nhăn trên trán ông càng nhíu sâu hơn.
Tình hình quá cấp bách làm thế nào bây giờ? ông vắt óc tự hỏi.
Vừa lúc đó, như một ngọn gió bất tình hình thổi đến. Vệ-to-đầu và Mừng ngoài hiên chùa đẩy mạnh cửa bước vào. Vệ đưa tay vành mũ chào Chỉ huy trưởng, đứng nghiêm nói, giọng đứt quãng vì quá hồi hộp:
- Báo cáo! Nếu chỉ huy trưởng cho phép em có thể dùng ngựa đưa Hiền về đài quan sát.
Chỉ huy trưởng nhìn hai em rồi quay lại nhìn đội trưởng như muốn hỏi. Đội trưởng nói:
- Báo cáo đồng chỉ hai em này đều là đội viên đội Thiếu niên trinh sát. Các em hiện đang tham gia chiến đấu tại đại đội anh Thới. Em này là Vệ, tham gia Vệ Quốc Đoàn từ mặt trận Nha Trang. Còn em này là Mừng, chú bé đã leo gần khắp các ngọn cây cao thành phố để tìm thuốc cho mẹ mà hôm nọ tôi kể với đồng chí...
Sáng nay, Mừng cõng được Quỳnh về tới đơn vị thì trời đã hửng sáng. Quỳnh bắt đầu lên cơn sốt giật và mê man. Bàn chân dẫm mảnh chai sưng tấy, đỏ lựng. Y tá đại đội sợ em có thể bị nhiễm trùng uốn ván nên lập tức cho hai chiến sĩ cáng em về trạm quân y của Mặt trận. Vệ và Mừng xin đi theo bạn. Hai em chạy lúp xúp theo hai bên cáng, vừa chạy vừa khóc. Từ trạm Quân y trở về, hai em tạt vào Chỉ huy sở Mặt trận, định báo cáo với đội trưởng về việc Quỳnh, và chuyện Vịnh-sưa bị mất tích, vừa vặn đúng lúc chỉ huy trưởng hỏi Hiền có biết cưỡi ngựa không.
Chỉ huy trưởng hỏi Vệ:
- Em biết cưỡi ngựa?
- Dạ...
- Cưỡi có khả không?
- Em cưỡi được cả ngựa không yên cương.
- Em chạy ra tàu ngựa bắt con ngựa trắng của anh đã đóng yên sẵn. Em cố đưa Hiền thật nhanh về đài quan sát.
- Báo cáo rõ!
Chỉ vài phút sau Vệ đã ngồi chễm chệ trên lưng con ngựa trắng cao lớn, từ phía tàu ngựa sau sân chùa chạy ra.
Chỉ huy trưởng với tay lấy chiếc ống nhòm treo trước bàn làm việc trao cho Hiền:
- Em dùng cái ống nhòm này tốt hơn.
Vệ cho ngựa đứng ghé sát vào thềm chùa gọi Hiền:
- Cậu trèo lên đi. Nhớ vòng hai tay ôm ngang bụng mình cho thật chắc. Mình phi nước đại đây!
Hiền quàng dây cái ống nhòm qua cổ, trèo lên lưng ngựa phía sau Vệ Vệ giật mạnh dây cương, thúc gót vào hông ngựa. Con ngựa hý lên dựng bờm gõ móng, vọt ra khỏi cổng Tam Quan. Vệ ra roi, con ngựa lồng bốn vó, phi nước đại. Một làn bụi đỏ khé cuộn lên dưới vó ngựa, mỗi lúc một xa hút.
Chỉ huy trưởng đứng giữa sân chùa, tay bóp bóp cằm, nhìn theo cho đến lúc bóng ngựa khuất hẳn sau khúc đường cong.
- Không ngờ chú bé cưỡi ngựa khá thế! Không khác gì một tay kỵ mã nhà nòi! - Chỉ huy trưởng gật đầu tấm tắc khen. Từ chỉ huy sở về đến đài quan sát không phải gần nhưng nhờ con ngựa rất hay và tài cưỡi ngựa tuyệt giỏi của Vệ, sau hơn hai mươi phút Hiền đã về được đến nơi Hiền tụt xuống ngựa: nhảy hai ba bậc thang một, nhào lên tầng thượng ngôi lầu, nơi có đặt đài quan sát bí mật.
- Hiền! - Đồng, Hòa và Nghĩa cùng reo lên mừng rỡ đến nghẹn ngào.
- Còn không? - hiền hỏi qua tiếng thở gấp.
- Còn. Vẫn còn...
Không kịp nói gì thêm, Hiền tựa ngực vào bờ công sự, chĩa ống nhòm về phía người đánh tín hiệu.
Chiếc ống nhòm của Chỉ huy trưởng thật tốt. Vừa chỉnh hình xong, Hiền đã mừng rỡ reo to:
- Tín hiệu đã đọc được! Các cậu lấy ngay giấy bút ra đi! Em nói như ra lệnh. - Ghi nghe'.
Hiền cao giọng đọc to rành rọt từng tiếng một, tưởng như em đang đánh vần những tiếng đó từ cái khoảng trời xanh ngập nắng mênh mông đằng trước:
" Sau ngôi nhà tôi đứng. Xì tốp. Yêu cầu bắn. Xì tốp Một kho xăng đạn lớn ngay phía sau ngôi nhà tôi đứng. Xì tốp. Yêu cầu bắn!" Đồng và Nghĩa chân qùy chân chống, kê sổ tay lên thành công sự, cắm cúi ghi. Có con gì cắn ngứa điên ở cổ, hai em không dám gãi sợ bỏ sót một chữ nào trong bức điện. Trong lúc đó dưới chân cầu thang, các anh lớn trong đơn vị đứng chen chúc nhau, mặt hếch hết cả lên, hồi hộp theo dõi cuộc nhận điện. Nếu không có lệnh cấm của đại đội trưởng chắc các anh đã ùa hết lên.
Hiền đọc đi đọc lại bức điện ngắn đánh bằng cờ tín hiệu trên đúng được bốn lần thì từ phía khu vực Pháp tiếng súng rộ lên, súng trường, trung liên lẫn đại liên.
Từng tràng, từng tràng, tiếng súng kéo dài mãi tưởng như không bao giờ dứt.
- Úi chao ơi! - Hiền bỗng kêu to thất thanh.
- Cậu làm răng rứa? - Đồng và Nghĩa đứng bật ngay dậy, tái mặt hỏi.
Nhưng không thấy Hiền trả lời, hai mắt em vẫn dán chặt vào kính ống nhòm. Qua màn kính, người đánh tín hiệu đang đưa cao hai lá cờ rồi bắt chéo trước ngực ra hiệu dứt câu, bỗng đột ngột buông thõng hai tay xuống như bị chém sả hai vai. Chừng hai phút sau người đánh tín hiệu như vụt bừng tỉnh dậy sau một cơn ngủ thiếp mê man, vung mạnh hai lá cờ tín hiệu lên. Hiền chưa kịp hiểu nguyên nhân đã phải vội vàng đọc to từng chữ cái một, từ hai lá cờ tín hiệu tung ra.
- Vê, i, en-nờ... hát... nặng! Trời ơi, thằng Vịnh-sưa! - Hiền sửng sốt la lên, cùng một lúc ở phía xa, hai lá cờ tín hiệu tuột khỏi tay Vịnh, lăn lông lốc theo chiều dốc mái lầu.
- Úi chao ôi !... Rứa mà ai cũng đoán chắc cậu ấy đã hy sinh giữa vòng vây giặc đêm qua rồi... - Hoàn toàn kiệt sức. Hiền ngồi phệt xuống thềm công sự, một tay cầm ép cái ống nhòm vào giữa ngực. Cả người em run lên bần bật như vừa phải nhấc xong một vật gì nặng quá sức. Em há hốc miệng thở dốc, mặt trắng bệch như tờ giấy.
Khoảng nửa giờ sau. Chỉ huy trưởng và đội trưởng có mặt ở đài quan sát. Hai người chuyền tay nhau cái ống nhòm nhìn về phía người chiến sĩ thiếu niên hy sinh, đứng cao lồng lộng giữa bầu trời thành phố. Điều làm cho cả hai người hết sức ngạc nhiên là chắc chắn em đã bị bọn giặc giết mà làm sao em vẫn đứng thẳng được trên nóc lầu. Không chịu ngã? Vệ cũng có cặp mắt rất tinh, em cầm lấy cái ống nhòm trong tay đội trưởng, đưa lên mắt. chỉ sau một phút nhìn chăm chú, em đã phát hiện ra Vịnh-sưa được buộc vào cột thép thu lôi, ngang giữa bụng. Em còn thấy thêm nửa người trên của Vịnh hơi ngả về đằng trước.
Chỉ huy trưởng mở xà cột lấy tấm bản đồ Mặt trận, trải rộng ra trên nền sân thượng. ông cầm ống nhòm quan sát địa hình địa vật chung quanh ngôi lầu Vịnh đứng, chốc chốc lại cúi xuống ghi lên bản đồ những ký hiệu bằng chì xanh đỏ.
Gấp bản đồ bỏ vào xà cột, ông đọc lại một lần nữa bức điện ngắn ngủi mấy chục chữ mà mà chú bé chiến sĩ của ông phải đổi bằng cả cuộc đời mười bốn tuổi của mình.
Chỉ huy trưởng rời khỏi đài quan sát, phi ngựa về thẳng khu A gặp Trung đoàn trưởng. ông trao bức điện cho Trung đoàn trưởng, và báo cáo lại hoàn cảnh đánh điện, trường hợp hy sinh của em Vịnh.
Đọc bức điện đến câu: "Yêu cầu bắn'" Trung đoàn trưởng thấy da thịt mình nổi gai và máu trong huyết quản bùng sôi. ông tưởng chừng như đó là mệnh lệnh được ngưng tụ lại qua mấy chục ngày đêm chiến đấu, để lúc này bất thần vang to lên bên tai ông như một tiếng sét.
Chỉ huy trưởng mở bàn đồ, trình bày với ông kế hoạch tác chiến...
Năm giờ ba mươi chiều. Trung đoàn trưởng điều động và bố trí xong những lực lượng cần thiết để đánh kho xăng và đạn bí mật của giặc. Ngoài "ông già bảy lăm" ông còn điều động ở các mặt trận về năm khẩu cối Tám mốt ly với rất nhiều đạn. Đại đội Quyết tử quân cử một trung đội được trang bị súng ba-zô-ca và súng phóng bom do Ban quân khí trung đoàn chế tạo, bí mật luồn sâu vào đến ngôi nhà Vịnh-sưa đứng, phối hợp chiến đấu.
Trước giờ nổ súng quy định, Trung đoàn trưởng gọi điện đến từng đơn vị một, kiểm tra lần cuối cùng, và nói:
Các đồng chí? Đứa em trai thân yêu, người đồng đội nhỏ tuổi của chúng ta tuy đã hy sinh nhưng hiện vẫn còn đứng sừng sững trên đầu bọn giặc nước! Em đứng để làm chuẩn cho các đồng chí bắn trúng, và để nhìn chúng ta chiến đấu. Các đồng chí hãy cố gắng làm sao cho đêm hôm nay, ngọn lửa các đồng chí thiêu đốt quân giặc, bốc lên thật to, thật cao, soi thật rõ cho cả thành phố nhìn thấy tư thế lẫm liệt của em! Mười giờ tối. Cả Mặt trận thành Huế phút chốc rung lên trong tiếng gầm nổ dử dội của các loại súng đạn cầu vồng.
Nửa giờ sau, như không thể chịu nổi sức nổ dồn dập, quyết liệt của quân ta, một cột lửa đỏ khé vụt dựng lên chính giữa trung tâm khu vực bọn Pháp đóng.
Cột lửa mỗi lúc dựng cao hơn, tỏa rộng, chiếu đỏ rực cả bầu trời thành phố.
Thân hình trần trụi, nhỏ bé mà lẫm liệt của người chiến sĩ thiếu niên đứng chon von trên đầu bọn giặc nước, cùng với cây cột thép thu lôi, mỗi lúc càng thêm lồ lộ rực rỡ trên cái nền đỏ chói chang dữ dội ấy, tưởng như chính lửa đã tạc khắc lên...
* *
Sau cái đêm ngọn lửa đốt kho xăng và đạn giặc chiếu sáng cho cả mặt trận nhìn thấy một đội viên của Đội Thiếu niên trinh sát đã chiến đấu và lập công như thế nào, thì không ai được các anh bộ đội chiều chuộng bằng các em trong đội. Các em đến đâu cũng được các anh vồn vã, niềm nở tiếp đón.
- Chú có phải là đội viên Đội Thiếu trinh sát không?
- Dạ phải ạ. - Các em hãnh diện trả lời.
- Rứa thì vô đây cái đã, vô đây! - Các anh tíu tít kéo các em vào ụ súng, chiến hào, hoặc nơi trú quân. Các anh bày lên một hòm đạn nào bánh, nào kẹo, nào đồ hộp chiến lợi phẩm... bắt các em ăn. Các anh nài nỉ các em kể cho nghe ngọn ngành đầu đuôi câu chuyện cái chú tự buộc mình vào cột thép thu lôi... chết đứng như Từ Hải trên đầu bọn giặc...
Cả đội, em nào cũng nhận: "Cậu ấy cùng nhột tổ với em. Đêm mô ngủ cũng đắp chung với em một mền..." Tư-dát kể, giọng tỉnh khô: "Cái đêm trước buổi sáng trèo lên buộc mình nào cột thép thu lôi đánh tín hiệu cậu ấy và em còn ăn chung với nhau một đòn bánh tét. Cậu ấy cắn một miếng, em cắn một miếng. ăn đến quá nửa đòn. cậu ấy thôi không ăn nữa, nói với em: "Thôi cậu ăn hết đi, Vịnh ăn rứa đủ rồi. Vịnh sợ ăn nhiều nặng bụng khó trèo".
Rồi bao nhiêu đức tính tốt đẹp nhất mà trí tưởng tượng phong phú của các em có thể nghĩ ra được, các em đều đem gán hết cho Vịnh. Cứ như vậy, cuộc đời "Chú-thợ-súng-nhỏ" mỗi ngày càng đi xa hơn cuộc đời thực. và dần biến thành một nhân vật truyền thuyết của thành Huế.
12.
Trạm quân y Mặt trận khu C đóng ở Nam Giao, trong dinh cơ của một chủ hãng buôn giàu có nổi tiếng ở Huế. Chủ nhà và gia đình đã tản cư trước ngày Huế nổ súng. Mặt trận khu trưng dụng dinh cơ làm trạm quân y.
Cả dinh cơ rộng hơn một mẫu tây, gồm một tòa nhà hai tầng nằm chính giữa, và nhiều dãy nhà một tầng vây xung quanh. Khu vườn trước và sau xanh rợp bóng cây ăn quả: mít, xoài, thanh trà, chôm chôm, vú sữa...
Hàng trăm thương binh của Mặt trận được đưa về đây điều trị. Quỳnh-sơn-ca được bố trí nằm điều trị trong khu nhà chơi mát góc bên trái vườn. Là thương binh bé nhất trạm, em được cả trạm từ bác sĩ đến các chị hộ lý đặc biệt chiều chuộng.
Vết thương ở chân em bị nhiễm trùng rất nặng.
Sáng hôm đó, đến trạm chỉ vài giờ sau là em lên cơn sốt giật và bắt đầu mê sảng. Nhiệt độ lên đến bốn mươi độ.
Bàn chân đau sưng đỏ đến tận đầu gối. Chốc chốc cả người em lại co rúm, mắt dại hẳn đi. Chứng tỏ em đang phải chịu đựng những cơn đau nhức khủng khiếp. Lúc mê sảng tay em cứ đưa lên quờ quạng trước mắt như đang gắng xua đuổi một vật gì đó, và em cứ nhắc đi nhắc lại một câu: "...Không. Không... Con không về mô... Con đi Vệ Quốc Đoàn cho tới chết..." Và gương mặt em lúc này thật tội nghiệp, thật dễ thương và đẹp lạ lùng. Các chị y tá cứu thương mỗi lần ngang qua, đều cúi xuống hôn em. Vùng trán em trắng xanh như cẩm thạch, bao quanh vừng tóc tơ rối quăn quăn như mũ miện các hoàng tử trong cổ tích. Đôi mắt em mở to bừng bừng ánh lửa sốt, che rợp hai hàng mi dài cong vút, cái miệng thiên thần. Nhìn một đứa trẻ như em lên cơn mê sảng quả là một cực hình quá mức chịu đựng của người lớn. Bác sĩ, y tá, hộ lý và các anh thương binh nhúc nhắc đi lại được kéo đến đứng ngấp nghé ngoài cửa sổ nhìn em đều phải quay mặt đi chùi nước mắt.
Hai hôm đầu tình trạng của em có thể nói vô cùng nguy kịch. Bác sĩ trạm trưởng mấy lần đã định cắt bỏ chân em quá gối. Nhưng rồi ông bỏ ý định đó. ông cứ lắc lắc cái đầu đội mũ vải trắng ba cạnh thêu chữ thập đỏ trước trán, chép chép miệng nói lẩm bẩm một mình:
" Tội nghiệp quá đi... Tội nghiệp quá đi'". ông quyết đấu với thần chết giành bằng được người chiến sĩ bé bỏng này ra khỏi tay lão ta. Ông tập trung những thứ thuốc tốt nhất của trạm cứu chữa cho em, kết quả ông đã thắng. Tình trạng em khá dần. Em đã thôi mê sảng, cơn sốt bị đánh lui, chân tuy vẫn còn sưng đỏ nhưng bớt nhức buốt, ít co giật. Sau một tuần, em đã nhúc nhắc ngồi dậy được, và ngủ được những giấc dài. Bàn chân đau của em bớt sưng đỏ trông thấy. Và cũng chỉ trong vòng một tuần mà em nổi tiếng cả trạm về tài gan chịu đau. Vết thương dưới bàn chân em phải xẻ rộng khoét hết những chỗ thịt thối, mà trạm lúc này không còn lấy một giọt thuốc tê. Lên bàn chân mổ, các chị y tế lấy băng trói chân tay em lại và đoán chắc em sẽ khóc thét vùng vẫy ghê gớm lắm. Nhưng em nói với các chị:
"Đừng trói em, em không vùng mô mà các chị sợi! Không ngờ đến lúc mổ, các chị y tá, bác sĩ và mấy anh thương binh đứng ngoài nhìn vào, đều sững sờ kinh ngạc trước sức chịu đựng khó tin của em. Suốt gần một tiếng đồng hồ xẻ rộng vết thương, cắt bỏ thịt thối. Làm thuốc, băng bó em nằm như dán chặt vào bàn mổ, da mặt tái nhợt, hai hàm răng nghiến chặt đến nỗi người nhìn phải lo sợ rằng em có thể bị vỡ vụn. Nhưng em không một tiếng kêu khóc, không một chút vùng vẫy.
Cả người em chỉ co giật nhè nhẹ. Chính những người nhìn em lại khóc, có người phải lấy tay che mặt quay đi.
Sau khi mổ, các chị y tá đưa em trở lại giường hỏi:
- Lúc đó em có đau lắm không?
- Em tưởng chết mất.
- Thế làm sao em chịu đựng được?
Em mỉm cười, yếu ớt:
- Em.. em dạo lại trong trí nhớ những bản nhạc mà em yêu thích. Em dạo được ba bản xô nát thì bác sĩ mổ xong... Em chợt im lặng, mắt mở to đăm đăm nhìn lên trần nhà, hàng mi dài cong vút chớp chớp, như đang mài lắng nghe một âm điệu gì đổ hay lắm, từ một nơi rất xa vọng lại. Em bỗng chép miệng nói tiếp: "Lúc đó mà em được nghe lại bản nhạc Dòng sông Da - nuýp xanh"... chắc em sẽ đỡ đau hơn nhiều...". Mấy chị y tá nghe em nói càng ngơ ngác, sững sờ hơn.
13.
Gần như ngày nào Mừng và Vệ-to-đầu cũng thay nhau chạy lên trạm quân y thăm Quỳnh. Sau ngày Vịnh-sưa hy sinh, đội trưởng cử Vệ làm tổ trưởng. Hai em phải đảm đương công việc của cả tổ nên khá vất vả. Cả hai phải chạy như cờ lông công suốt ngày trên khắp mặt trận, liên lạc, truyền tin, trinh sát, đưa công văn giấy tờ...
Và bao nhiêu công việc vặt vãnh khác mà người chiến sĩ liên lạc lúc lâm trận phải đảm đương. Hai em phải tranh thủ mọi thời cơ để có thể hàng ngày tạt vào trạm quân y ngồi chơi với bạn một lúc.
Một buổi chiều, Mừng chạy liên lạc lên Chỉ huy sở trở về, tạt vào trạm quân y thăm Quỳnh. Quỳnh vừa tiêm thuốc xong, chị y tá ngồi ở đầu giường nói chuyện với em, tay vẫn cầm cái hộp xi- ranh và hộp thuốc. Mừng đẩy nhẹ cửa bước vào phòng. Em đội mũ cứng Tiếp Phòng Quân, vành mũ sụp xuống che kín trán, áo trấn thủ, ngang lưng thắt xanh-tuy-rông, bên hông giắt quả lựu đạn O.F, quần xắn quá gối, hai bàn chân trần đen đũi trát bùn đã khô se. Em bước đến cạnh giường bạn, để lại trên nền đá hoa những lốt chân đen ngòm.
- Chào chị?... - Em lễ phép chào chị y tá, rồi hất vành mũ lên cao, nhìn bạn cười rạng rỡ.
Quỳnh cười với bạn, ngoảnh sang nói với chị y tá:
- Bạn em là vua trèo cây đó chị ạ. Bao nhiêu cây cao nhất của Huế mình, cậu ta đều đã trèo tuốt lên ngọn...
- Úi chao, em nghịch đến nước ấy à?
Mừng đỏ mặt, bối rối.
- Không phải cậu ta trèo nghịch mô chị ạ...- Quỳnh nhìn bạn, ánh mất âu yếm.- Mình kể chuyện trèo cây cho chị nghe, cậu đừng giận mình hí... ?
- Quỳnh... Đừng...?
Quỳnh tảng lờ như không nghe bạn gọi, vừa cười cười vừa kể cho chị y tá nghe chuyện Mừng đi tìm thuốc cho mẹ. Chuyện Mừng nhập Vệ Quốc Đoàn bằng cách chui bừa vào giữa hàng ngũ của đội...
Nghe chuyện, chị y tá miệng cười mà mắt rớm lệ. Chị cầm cổ tay đen đũi của Mừng kéo em lại đứng sát vào mình, nhìn em và nói:
- Chị ước chi có quyền được gọi tất cả những kẻ hắt hủi cha mạ, đối xử cha mạ không ra chi, đến ngay đây để được nhìn thấy mặt em...
Quỳnh thổ lộ với chị một niềm mơ ước mà em ấp ủ từ lâu:
- Khi mô Huế mình được giải phóng, em sẽ xin học trường nhạc. Em sẽ gắng học thật giỏi.... Em sẽ sáng tác một vở nhạc kịch, kể chuyện Mừng đi tìm thuốc cho mẹ. Em tin chắc vở nhạc kịch của em sẽ hay, rất hay... Hay không kém gì vở "Cây sáo thần" của nhạc sĩ Mô-da. Chị không tin à? Thì chính Mô-da sáng tác vở nhạc kịch đó khi ông ta còn ít tuổi hơn em bây giờ...
Chị y tá xem chừng chẳng biết mô tê gì chuyện nhạc kịch với Mô-da. Chị chăm chăm nhìn em rồi chợt hỏi:
Em Mừng thì do đi tìm thuốc cho mẹ mà vô Vệ Quốc Đoàn, còn em thì do cái chi rứa?
Quỳnh mỉm cười khẽ lắc lắc cái đầu xinh đẹp, đội vừng mũ miện tóc tơ quăn rối, chực đánh trống lảng.
Nhưng trước ánh mắt chăm chăm đợi chờ của bạn và chị y tá, em nhỏ nhẻ nói:
- Em đi Vệ Quốc Đoàn vì những bài hát cách mạng... Chị không thể tưởng tượng được, em yêu nhạc đến như thế nào... Cũng bởi em được nghe nhạc, học nhạc từ ngày chập chững biết đi. Cả nhà em, mạ em, hai chị em đều biết chơi dương cầm, nhất là chị Hoài Trang của em, chị ấy chơi dương cầm hay mê hồn. Nhiều đêm đang ngủ em chợt tỉnh giấc, xung quanh vắng lặng hoàn toàn, em nghe các bức tường trong phòng em ngân nga hòa nhạc với nhau... lạ lắm chị ạ, nói chắc chị không tin, nhưng em nghe thật mà. Chúng hòa lại những bản nhạc mà các chị em với em thường đàn. lên năm tuổi em đã chơi thạo những bàn nhạc ngắn của Mô-da và em cũng sáng tác được một bản nhạc đầu tiên tên là "Cái chết của con ếch xanh tội nghiệp". Ở đây mà có đàn, em sẽ đàn cho chị nghe. Chị và Mừng sẽ khóc và thương con ếch xanh của em cho coi. Hồi còn ở nhà, hễ bao giờ dạo lại bản nhạc này em cũng khóc. Em thương con ếch xanh quá. Em nghe chị Hoài Trang em chơi những bản nhạc của Mô-da, của Su-be... em cũng khóc....
- Nghe buồn quá à? - chị y tá hỏi.
- Không phải vì buồn đâu chị ạ. - Quỳnh lại lắc lắc nhè nhẹ cái đầu tóc quăn rối. - Không những bản nhạc ấy không buồn chút nào hết, mà vì nó hay quá, hay đến phát khóc lên. Nhiều lần chỉ mới nghe chị em nhấn mấy hòa âm đầu tiên là mũi em đã cay xè. Em dễ khóc thật... Cả nhà em vẫn gọi em là thằng-cu-khóc. Thế rồi Cách mạng tháng Tám, các bạn bằng tuổi em trong vùng Vĩ Dạ, đều vào các đội Nhi Đồng Cứu Quốc, tập một hai, đi biểu tình, mít tinh vui nghê lắm. Em thèm được vào đội như các bạn quá, nhưng ba mạ, ba mạ không cho. Ba mạ em bảo: "Mình là con nhà quyền quý, chơi chung chơi lộn với con nhà khố rách áo ôm sao được con!" Không hiểu sao, nghe ba mạ em nói rứa, em bỗng thấy buồn và giận ba mạ em quá chừng. Em chỉ muốn bỏ nhà trốn đi. lạ cái là từ trước đến nay, em chưa dám giận ba mạ em lần mô. Ba mạ em cưng chiều em ghê lắm, em là con trai út độc nhất của ba mạ mà.
Hồi đó có một đơn vị Vệ Quốc Đoàn đến đóng ở ngôi chùa cách nhà em không xa. Một bữa, em đi chơi ngang qua, em thấy các anh đang tập họp trước sân chùa, vừa vỗ tay vừa hát những bài "Bao chiến sĩ anh hùng", "Đoàn Vệ Quốc Quán một lần ra đi", "Diệt phát xít", "Đuốc gươm thiêng vung cho nước nhà", "Mắng việt gian"... em đứng sững lại lắng nghe, và da em tự nhiên nổi hết gai ốc.... Những bài hát cách mạng em được nghe lần đầu tiên do các anh Vệ Quốc Đoàn hát lên, làm cho em cảm động hơn cả nhạc của Su-be, của Mô-da, mặc dầu các anh hát có sai nhạc. Tuy chưa được đọc những bản nhạc ấy, nhưng vì được học nhạc từ bé nên em biết là các anh hát còn sai nhạc. Thế là em chạy bay về nhà. Mở đàn dạo lại theo trí nhớ những bài hát vừa được nghe. Em ghi nó ra giấy, cố mày mò sửa lại cho đúng theo phép tắc hòa âm trong âm nhạc. Nhưng mất cả buổi chiều em vẫn thấy không kết quả lắm. May quá vừa lúc đó có anh Hoàng Cương, bạn thân của chị Hoài Trang em, đến chơi. Anh là học sinh năm thứ hai ban tú tài triết học trường Khải Định. Anh rất giỏi tiếng Pháp, tiếng Anh, tiếng Đức, cũng là một cây mê nhạc. Anh ấy có thể ngồi suốt cả buổi, kiến đốt không nhúc nhích để nghe chị Trang em đàn. Khi biết em đang làm gì, anh nói: "Em không phải mất công mày mò làm gì. Anh có cậu bạn có một tập đầy đủ hết các bài hát Cách Mạng. Ngày mai cậu ta đã lên đường Nam tiến rồi. Tối nay anh sẽ đến thăm cậu ta, đề nghị cậu ta tặng lại cho em tập bài hát đó". Sáng hôm sau anh Cương đến rất sớm mang đến cho em một tập bài hát chép tay, những bài hát Cách Mạng. Trên trang đầu có ghi dòng chữ với nét chữ ngang tàng nhưng thật đẹp:
"Anh tặng Quỳnh, chú bé nhạc sĩ tương lai mà anh chưa được biết mặt. Anh mong em dùng những bài hát này như người chiến sĩ dùng thanh gươm, khẩu súng, sát cánh cùng các anh, tiêu diệt kẻ thù không đội trời chung của TỔ QUỐC. Anh Lê Xanh". Em hỏi anh Cương:
"Anh Lê Xanh học cùng lớp với anh à?" - "Không, anh ấy là thợ điện. Cả nhà anh ba đời là thợ điện. Anh chưa được cắp sách đến trường bao giờ. Có lẽ do gần điện từ nhỏ mà anh ấy sáng láng vô cùng. Tự học mà biết cả nhạc, cả vẽ, đọc được sách truyện bằng tiếng Pháp. Anh hoạt động cách mạng từ hồi bí mật, có chân trong ủy ban khởi nghĩa thành phố Huế mình. Anh ấy là Đảng viên Cộng sản". Chỉ mới nghe kể thôi mà tự nhiên em thấy yêu anh ấy quá. Em hôn lên chữ ký của anh ấy ba bốn lần và ước được gặp anh ấy một lần.... Ngày hôm đó em đàn suốt lượt cả tập bài hát anh Xanh cho. Bài nào cũng hay lạ lùng chị ơi! Hay đến phát khóc lên được?
Nghe âm thanh những bài hát ấy vang lên dưới mười ngón tay em, không hiểu sao em muốn bỏ nhà đi, em muốn đi theo các anh hoạt động bí mật, muốn làm Cách Mạng, làm Vệ Quốc Đoàn Nam tiến, làm đảng viên Cộng sản như anh Lê Xanh... Bữa đó em đang vừa đàn vừa hát thì ba em bước vào buồng, cau mặt nói: "Mấy cái bài hát ấy ra cái chi mà con cứ đàn đi đàn lại hoài làm cho cả nhà điếc tai?" Em sửng sốt nhìn ba em: "Hay lắm chứ ba?" Ba em tự nhiên quát lên: "Chỉ có quân khố rách áo ôm, chỉ có tụi cóc nhái nhảy lên làm người mới thích cái thứ bài hát ấy?" Nếu ba em đánh em, tát em lúc đó em cũng không ngạc nhiên bằng nghe ba nói như vậy Em đứng phắt ngay dậy khỏi ghế kêu lên: "Sao ba lại nói rứa ba? ĐÓ là những bài hát Cách Mạng mà'" Bỗng nhiên ba em bước đến, giật tập bài hát đó em đang dựng trên nạp đàn xé roạt roạt thành hàng chục mảnh, ném qua khung cửa sổ, nói: "Cách với mạng này!" Em khóc suốt cả buổi chiều hôm đó, mạ em dỗ chi em cũng nhất định không ăn cơm. Sáng hôm sau, em dậy lúc cả nhà còn đang ngủ, em lấy cái đàn măng- đô- lin mà từ lâu lắm em không sờ đến, lẻn trốn ra khỏi nhà. Em đi thẳng đến chỗ đơn vị Vệ Quốc Đoàn, gặp anh chỉ huy, nói: "Anh cho em vô Vệ Quốc Đoàn với. Em còn nhỏ, em chưa làm được việc chi thì em đàn em hát cho các anh nghe. Em dạy hát cho các anh. Các anh hát sai ghê". Rồi không đợi cho anh chỉ huy phải hỏi, em vừa đàn vừa hát một lượt tất cả những bài hát trong tập bài hát Cách Mạng của anh Lê Xanh. Cả đơn vị liền vây quanh lấy em. Em đàn hát xong một bài, các anh lại vỗ tay hoan hô rầm rầm. Thế là anh chỉ huy đồng ý lấy em vào đơn vị vừa làm liên lạc vừa dạy hát cho các anh.
- Sau đó cha mạ em không đến tìm bắt em về à? - Chị y tá lấy năm ngón tay làm lược, chải chải tóc cho em, hỏi.
-Có chứ chị. Mạ em, hai chị em, đến tìm em hàng chục lần. Nhưng em cương quyết không về. Em nói: "Con đi Vệ Quốc Đoàn cho đến lúc chết thì thôi, con không về nhà nữa mô!".
Lúc nhắc lại câu này, cặp mắt mở to mênh mông của em bỗng tối sầm lại, và trên vàng môi thơ ngây của em hằn lên một nếp buồn giận không thể gì nguôi được.
14.
Buổi trưa ở trạm quân y. Quỳnh đang nằm, một tay áp dưới má, ngủ say. Em bỗng choàng tỉnh dậy như bất thình lình có ai quát gọi sát bên tai. Gương mặt em lộ vẻ bàng hoàng, ngơ ngác. Em chớp chớp mất, đầu nghiêng nghé như cố hết sức lắng tai nghe một cái gì đó từ xa vọng tới. Em nhận ra hình như tiếng đàn dương cầm vẳng lại từ phía tòa nhà chính, nhưng lạ một cái là từng âm thanh rời rạc, vô nghĩa không ra một giai điệu, hòa âm gì hết. Giống như có một bọn trẻ nghịch phá, gõ lung tung bậy bạ lên các phím đàn. Em dụi dụi mắt: "Hay là mình nằm mê?" Không, rõ ràng em tỉnh ngủ rồi mà. Và lúc này tiếng đàn vẳng đến càng vang to hơn. Có những âm thanh như kêu thét, có những âm thanh rền rĩ, chen lấn nhau hỗn loạn. Là một người chơi dương cầm, những âm thanh như vậy làm cho em cảm thấy nhức nhối khó chịu. em muốn gọi chị y tá lại hỏi, nhưng không thấy có chị nào thấp thoáng bên ngoài cả. Em ngồi hẳn dậy, bàn chân đau băng kín, trắng toát, gác lên thành giường. Tiếng đàn lại càng rên rú hỗn loạn hơn. Em phải bịt tai lại, vì không thể chịu đựng được hơn nữa. Em định bước xuống giường, cố lần tìm đến chỗ có tiếng đàn lạ lùng kỳ quái ấy. Nhưng bàn chân đau vừa chạm đất em phải rụt ngay lại. Đau quá, em chưa thể đi một mình được. Vừa vặn lúc đó Mừng từ ngoài vườn chạy vào, tay cầm một vật gì sáng trắng mà lúc đầu Quỳnh không để ý. Thấy bạn gần như ngồi xổm trên giường, Mừng ngạc nhiên hỏi:
- Cậu đang làm chi rứa? Rứa mà mình cứ tưởng lúc ni chắc cậu đang ngủ.
Quỳnh hấp tấp hỏi lại bạn:
- Cậu có nghe tiếng gì không?
Mừng dỏng tai lên nghe, toét miệng cười:
- A tiếng kêu cái thùng chi chi ấy, đẹp lắm, ở trong cái buồng nhỏ phía sau ngôi lầu ấy mà.
Rồi Mừng vui vẻ kể cho bạn nghe. Phía sau ngôi lầu có một gian buồng hẹp, mấy lâu cửa khóa kín. Có mấy anh thương binh tìm được ở đâu cái xà beng rất bự, nậy cửa ra coi bên trong chủ nhà cất giấu cái chi mà khóa đến hai lớp khóa Vừa lúc đó mình đi ngang qua, thấy rứa cũng tò mò ghé lại coi chút cho biết tưởng có chi quý giá lắm. té ra chỉ có một cái bàn rất to. Mà cái bàn ni coi hình thù tức cười ghê lắm, có đến năm cái chân!
Ba chân to ba góc lại thêm hai chân nhỏ nằm giữa gần sít nhau - Mừng bật cười to và hình ảnh ngộ nghĩnh cái bàn năm chân - Chắc họ sợ hắn đứng không vững nên mới đóng thêm hai chân phụ nữa cậu hè? Cái nắp bàn rất dài, mở ra đóng lại được. Mở nắp ra bên trong có một hàng dài những miếng gỗ nằm sít nhau, trắng như hàm rồng giữa những cái răng trắng nằm chen những cái răng đen nhỏ hơn mà ngắn hơn. Mấy anh đụng tay vô hàm răng đó tự nhiên trong bụng cái bàn kêu toáng lên. Đụng mạnh hắn kêu to, đụng nhẹ hẳn kêu nhỏ. Lúc đầu bất thình lình nghe hắn kêu các anh hoảng nhảy lùi cả lại. Có anh còn nằm rạp xuống đất sợ hắn nổ bất từ như lựu đạn. Một lúc không có việc chi, các anh mới thi nhau đấm tay vô hàm răng để hắn kêu chơi. Úi chao! Hắn mới kêu dữ chứ cậu. Mình cũng hùa mô đấm chơi, đấm cả răng trắng, cả răng đen đều kêu hết! Đấm chán các anh lấy mũi dao găm cậy răng hắn ra coi chơi. Mình cũng cạy được một cái răng trắng đây, định đem cậu coi cho biết. - Mừng đưa cho Quỳnh cái vật trăng trắng từ nãy tời giờ vẫn cầm lăm lằm trong tay. - Mà gỗ hắn đẹp ghê lắm cậu ơi, chùi lớp bụi đi cái, bóng loáng soi gương được Rứa là các anh lại lấy mũi dao găm, lưỡi lê thi nhau nậy gỗ định đem cưa làm "ra két" đánh kiện. Mình cũng muốn cạy một miếng chơi nhưng không mượn được dao, tiếc quá Mải hào hứng kể, Mừng không để ý gương mặt bạn mỗi lúc một thêm tái nhợt. Quỳnh thảng thốt kêu lên như bất chợt bị ai chọc mạnh vào vết thương dưới gan bàn chân:
Ui chao! Cái pi-a-nô! Mừng ngơ ngác nhìn bạn.
- Cậu làm răng rứa? Vết thương lại đau à?
- Không, không phải, cái bàn năm chân đó chính là cái đàn dương cầm đó cậu ơi! Đàn à? - Mừng trố mắt hỏi. - Giống như cái ở nhà cậu mà hồi trước lần mô đi ngang qua mình cũng nghe tiếng không?
Đúng rồi! Mà cái bàn này còn quý hơn gấp bao nhiêu lần cái đàn ở nhà mình ấy! Hắn có đàn được bài "Bao chiến sĩ anh hùng" với Vệ Quốc Quân một lần ra đi" không?
Đàn được tất! không có bài chi là đàn được.
Ui chao, rứa mà các anh cạy ván, vặn răng hắn e hắn hư mất thôi cậu ơi. - Bây giờ đến lượt Mừng sửng sờ nói. Nỗi lo lảng của bạn đã thật sự lây sang em, mặc dầu là lần đầu tiên em được nhìn thấy cây đàn dương cầm mà tất cả giá trị của nó đối với em là đàn được bài "Bao chiến chiến sĩ anh hùng", bài "Vệ Quốc Quân một lần ra đi" Để mình chạy ngay lên can các anh, may ra còn kịp. - Mừng vội vàng chớm chân định chạy.
Nhưng Quỳnh rất nhanh chồm ra khỏi gương vòng hai tay ôm choàng cổ bạn, nói giọng vô cùng khẩn khoản:
Cậu cõng mình đi theo với. Đã lâu lắm mình không được mó tay đến các phím đàn. Mình thèm quá, nhớ quá cậu ơi?
Không kịp suy nghĩ lâu la. Mừng ngoặc luôn hai tay ra sau lưng ôm vòng hai chân bạn, xốc bạn lên lưng rồi cứ thế chạy thẳng một mạch không kịp thở, đến gian phòng có để chiếc dương cầm quý giá sắp bị phá nát.
Chưa đến cửa, Mừng đã lato đến hụt hơi:
- Các anh ơi, đừng phá! Đừng phá! Cái đàn, cái đàn...nó hát được "Bao chiến sĩ anh hùng với Vệ Quốc Quân một lần ra đi" các anh ơi...
Trong phòng, quanh cái đàn dương cầm lớn chiếm gần kín nửa gian buồng, năm sáu anh thương binh người băng trán, người băng chân... người cầm dao, người cầm mã tấu, nậy, chặt lớp gỗ màu cánh dán bóng loáng của chiếc đàn. Quang cảnh giống hệt những người đi săn lúc hè nhau cắt xẻo con thú rừng to lớn vừa bị bắn hạ. Nghe tiếng kêu hớt hải của Mùng. Các anh dừng tay cả lại. Mừng đặt bạn ngồi xuống chiếc ghế đẩu mặt tròn kê sát tường, há hốc miệng thở đến muốn đứt hơi. Quỳnh nhìn chiếc đàn bị cạy chặt nham nhở miệng bỗng mếu xệch sắp khóc:
- Ui chao! - Các anh phá sập cả cái cầu Tràng Tiền em cũng không tiếc bằng....
Không còn nhớ gì đến cái chân đau. Quỳnh nhảy xuống ghế chạy nhào đến. Mừng thất sắc kêu:
- Ui Quỳnh! Em chụp lấy cái ghế chạy theo đặt cho bạn ngồi Ngồi trước chiếc đàn dương cầm to lớn đồ sộ, nom Quỳnh lại còn nhỏ bé hơn. Mặt em vụt tái đi khi tia mắt long lanh của em chạm phải màu sáng trắng lấp lánh những phím đàn. Hai bàn tay ngón thon dài như tạc bằng cấm thạch của em bỗng như hai cánh chim lướt bay là là trên dãy phím đàn. Cả gian buồng tranh tối tranh sáng phút chốc tràn ngập những âm thanh thánh thót, trầm bổng du dương. hay đến nỗi các anh đang đứng vây quanh đánh rơi cả mã tấu. dao găm xuống đất Các anh đứng sững, miệng há hốc nhìn em như nhìn một nhân vật trong truyền thần tiên. Gương mặt Quỳnh sáng bừng: rạng rỡ như cây đèn lồng bỗng được thắp sáng ngọn nến ở bên trong. Ôi may mắn làm sao, cây đàn vỏ ngoài tuy bị phá hỏng khá nặng nhưng âm thanh vẫn còn nguyên vẹn. Em ngước lên nhìn khắp lượt các anh. hai tay em vẫn không ngừng chơi đàn ánh mắt em nồng nàn âu yếm, như thầm cảm ơn các anh đã không động đến âm thanh quý báu của nó. Cây đàn pi-a-nô lúc này sao mà giống con sơn ca bị người ta vặt trụi nhiều mảng lông. nhưng tiếng hót của nó may mắn chưa suy chuyển. Và nó đang hót lên những giai điệu tuyệt vời dưới hai bàn tay điều khiển của chú bé liên lạc. Mấy anh Vệ Quốc Đoàn đang đứng vây quanh cây đàn nhìn em kia, đều là những nông dân cùng khổ vùng Kế Môn, Đại Lược. Cả một đời họ chỉ được biết cây đàn qua câu chuyện Thạch Sanh: "Tích tịch tình tang, ai mang công chúa dưới hang lên lầu".
Đây là lần đầu tiên họ được nghe tiếng đàn, thấy cây đàn có thật trong cuộc đời. Họ nhìn em với cặp mắt hối lỗi, như muốn nói: "Em đừng giận các anh mà tội. Dưới thời nô lệ thằng Tây, các anh phải sống trong cùng khốn, đói rét, u mê, tối tăm. Các anh mô có biết cái bàn năm chân ni là cái đờn, nên các anh mới lỡ phá... Chừ được em nói cho biết rồi, đứa mô mà dám làm hư hoại nó, các anh sẽ cho biết tay'".
Quỳnh lúc này đã hoàn toàn đắm mình vào âm nhạc. Tiếng đàn của em mỗi lúc một thêm ngân vang, dồn dập, quyến rũ... Từ những giai điệu dịu dàng, mơ màng, uyển chuyển như dòng sông Hương êm đềm trôi dưới ánh trăng, em vụt chuyển sang những giai điệu hùng tráng sôi sục của những ca khúc Cách Mạng. Dưới hai bàn tay mềm mại trẻ thơ của em, cây đàn phút chốc hóa thành một đơn vị Vệ Quốc Đoàn đang rầm rập tiến ra Mặt trận trong tiếng hát vang trời:
"Ra đi ra đi bảo tồn sông núi Ra đi ra đi thở chết không lui... Cờ bay phất phới... " Gian phòng đứng chật kín người từ lúc nào không ai hay. Thương binh, bác sĩ, y tá, hộ lý khắp cả trạm quân y nghe tiếng đàn dương cầm đột ngột vang lên, liền gọi nhau, dắt nhau, dìu nhau kéo đến mỗi lúc một đông.
Âm nhạc Cách Mạng sục sôi nghĩa khí cuốn hút họ như một dòng thác, một cơn lốc. Một người nào đó, rồi tất cả đám đông, đứng vây quanh cây đàn và chú bé liên lạc, cùng cất vang tiếng hát hòa theo:
"Ngựa phi nơi xa kia, nghe tiếng súng bên trời điệu kèn rộn ràng..." Ở tầng gác hai, có một anh thương binh trẻ măng bị thủng nát hết ruột, đang giờ phút hấp hối, nghe tiếng đàn từ tầng dưới vẳng lên, tự nhiên anh tỉnh táo hẳn lại. Anh nằng nặc đòi các chị y tá khiêng anh xuống chỗ có tiếng đàn để anh được nghe rõ hơn trước khi chết.
Thương anh quá, các chị phải chiều anh, vực anh vào cáng, sẽ sàng khiêng anh xuống. Đám đông rẽ ra nhường lối cho cáng anh đi vào sát bên chỗ Quỳnh ngồi đánh đàn.
Anh mở to đôi mắt nhìn Quỳnh. ánh mắt anh như ánh lửa xao xuyến, rung rinh sắp lụi tắt, trân trân dõi theo đôi bàn tay con nít trắng xanh của chú bé chiến sĩ múa lượn trên dãy phím đàn trắng, đen, lấp lóa. Miệng anh he hé như muốn uống cạn tiếng đàn để lấp kín những chỗ gan ruột của mình bị đạn giặc phá thủng nát. Đàn ngân lên một giai điệu cao vút, anh bung chống mạnh hai khuỷu tay xuống cáng, cố hết sức dưới cao đầu lên nhìn Quỳnh, tia nhìn tràn ngập yêu thương. Đôi môi trắng bệch của anh mấp máy thì thào:
- Cảm ơn em...
Rồi anh vật đầu xuống cáng, thở hắt ra, trút hơi thở cuối cùng.
15.
Tình hình Mặt trận Huế lúc này có những biến chuyển hết sức quan trọng. Cục diện chiến đấu xoay chiều mỗi ngày thêm bất lợi cho quân ta.
Ngày 17 tháng 1 năm 1947, quân tiếp viện của giặc từ Pháp sang đã đổ bộ lên vùng Thừa Lưu, Lăng Cô, phía cực nam của tỉnh Thừa Thiên. Từ Huế đến Lăng Cô chỉ hơn sáu mươi cây số. Tụi giặc tiếp viện gồm những binh đoàn tinh nhuệ nhất của quân viễn chinh Pháp. Khoảng năm nghìn tên do hai tên thực dân cáo già là đại tá La-rô-cờ và trung tá Đô-rê chỉ huy.
Vừa đặt chân lên đất liền, bọn giặc đã nhanh chóng chia thành nhiều mũi, hình thành nhiều gọng kìm, ồ ạt tấn công ra phía Bắc Thừa Thiên. Chúng cố tiến thật nhanh đến Huế để giải vây cho đồng bọn bị vây hãm, có nguy cơ bị quân ta tiêu diệt.
Tiểu đoàn Mười tám có nhiệm vụ trấn giữ mặt trận phía Nam đã chiến đấu hết sức quyết hệt để ghìm chân bọn giặc đổ bộ lại. Trong khi đó, các đơn vị vây hãm giặc ở Huế cũng dồn hết sức để tấn công địch, với hy vọng tiêu diệt được chúng trước khi bọn tiếp viện đến kịp. Trong đợt tấn công này quân ta đã thắng những trận xuất sắc: Tiêu diệt vị trí miếu Đại Càng, bắn ba chiếc máy bay Mô- ran ở vùng núi Tam Thai.
Nhưng thế giặc lúc này đang quá mạnh. Phòng tuyến phía nam quân ta phải vừa đánh vừa lùi, rút bỏ hết phòng tuyến phòng ngự này đến phòng tuyến phòng ngự khác.
Trước tình hình khẩn cấp, ban chi huy trung đoàn điều động một số đơn vị đang tham chiến ở Huế, tăng viện cho mặt trận phía Nam. Chỉ huy trưởng mặt trận khu C Phùng Đông cũng được điều động về chỉ huy mặt trận này.
Gần một chục đội viên thiếu niên trinh sát được cử đi theo các đơn vị tăng viện.
Vệ to đầu được chỉ huy trưởng Mặt trận khu C lấy đi theo làm liên lạc cho ông. Một giờ trước lúc lên đường, em gọi điện thoại cho Hiền:
- A lô, Hiền đấy à. Hai giờ chiều nay mình phải theo Chỉ huy trưởng vào Mặt trận phía nam. Gấp quá mình không đến gặp cậu được. Quân ta đang chặn tụi Tây ở đèo Mũi Né đánh nhau đã hai ngày nay rồi Chỉ huy trưởng bảo phải phi ngựa suốt cả đêm hôm nay mới kịp đến để chỉ huy. Trận ni chắc gay go ghê lắm. Không biết có còn dịp gặp lại cậu không... Nếu có chuyện gì cậu đừng quên mình nghe. À, mình được phát một con ngựa cậu ạ. Con ngựa đen, bộ dạng thì xấu đui nhưng chạy hay tuyệt trần đời. Mình dám thách đua với tất cả ngựa của trung đoàn, kể cả con Ca-tê-lin của Bảo Đại. Cậu đã luyện được cái môn lộn nhào hai vòng liền chưa? Chưa à? Kém thế... Vệ khúc khích cười - Bữa mô gặp lại, mình sẽ kể chuyện cho cậu. Mình phải sắm sẵn cái roi mây thật vót, luyện không chăm, ăn roi cấm khóc nghe! À, mình gửi cho cậu cái mũ ca lô của mình ở chỗ đội trưởng ấy...
ở đầu dây đàng kia, Hiền cầm máy nghe những lời bông đùa của bạn mà tự nhiên rơm rớm nước mắt. Hai đứa mê nhau lạ lùng. Hiền đêm nằm ngủ, nói mớ cũng gọi tên Vệ-to-đầu.
16.
Khoảng ba giờ chiều Vệ-to-đầu, từ trong cái biển lửa và khói dọc tuyến phòng ngự ven sông Ruồi cưỡi con ngựa đen như đã bị lửa nung thành than, phi về phía ngôi nhà Ban chỉ huy mặt trận đóng.
Chỉ cần nhìn em cũng đủ biết công tác liên lạc ở mặt trận ở phía Nam này vất vả biết chừng nào. Thay mũ ca lô em đội cái mũ cát bẹp dúm dó. Mặt em, đen nhẻm, lấm lem cát bụi, khói đạn... Cái áo quân phục ka ki dày như mo nang rách toạc hai ba chỗ trên vai, trên lưng. Chiếc quần dài ướt sũng nước đến thắt lưng, hai ống quần bê bết bùn.
Suốt ngày hôm nay, hầu như không mấy lúc em rời khỏi lưng ngựa. Mỗi ngày em phải phi ngựa không biết bao nhiêu lần dọc phòng tuyến lửa đạn bời bời, để truyền đạt mệnh lệnh chiến đấu của Chỉ huy trưởng đến các đơn vị và lấy tin tức các đơn vị về báo cáo với Chỉ huy trưởng. Nhiều bữa em vội đến nỗi ăn vắt cơm nắm cũng phải ngồi trên lưng ngựa mà ăn.
Là liên lạc của Chỉ huy trưởng, phạm vi phải chạy liên lạc của em rất rộng, khắp cả phòng tuyến. Nếu không có sự nhanh nhẹn lạ kỳ, sức dẻo dai hiếm có và lòng gan dạ đến liều lĩnh của một diễn viên xiếc chuyên nghề nhào lộn, và đứng làm bia sống cho trò ném dao găm, thì chắc em khó mà đảm đương nổi nhiệm vụ.
Chỉ huy trưởng vừa ra dứt lệnh đã thấy em ngồi chễm chệ trên lưng ngựa, mũ đội hất lên trước trán, tay cầm dây cương, mái tóc quăn đen như lông quạ, lâu ngày không cắt buông lòa xòa quanh mũ, phủ kín cả gáy. Em giống một kỵ sĩ xưa minh họa trong sách. Và mặc cho đạn đại bác nổ đinh tai, choáng óc, mặc cho đạn súng trường, súng máy bay vù vù quanh mình như một đàn ong vỡ tổ, mặc cho nhà cháy, tường sập, cây đổ, em vẫn cúi rạp trên mình ngựa, thúc gót, giật cương, lao vút đi như một mũi tên đen. Em phi ngựa vọt qua những hàng rào xương rồng cao ngất nghểu, bay qua những mương nước rộng đầy nước. Trong cách phi ngựa của em vừa có cái gan dạ của người chiến sĩ lúc lâm trận lại có cái tài ba của một tay diễn xiếc lành nghề. Nhiều lúc đang phi ngựa rất nhanh chợt nghe tiếng đạn súng cầu vồng kêu xoẹt xoẹt muốn rơi gần, em ghìm ngay ngựa lại, đâm bổ cả người lẫn ngựa xuống giao thông hào để tránh đạn. Chỉ huy trưởng và các anh lớn nhìn em phi ngựa mà lo sợ thay cho em.
Nhiều lần thấy đạn giặc nổ rát trên dọc lối đi, các anh hớt hải chạy đuổi theo gọi:
- Vệ! Vệ! Quay lại đã! Dứt đợt súng rồi hãy đi! Nghe các anh gọi em càng thúc ngựa phi nhanh hơn, ngoái đầu lại nói to:
- Không can chi mô! Đạn nó tránh em mà?
Cặp mắt to, đen láy, dịu dàng như mắt nai, sáng long lanh dưới vành mũ cứng.
Dọc đường em thường gặp các bạn trong đội cũng đang chạy liên lạc. Các bạn cũng vất vả không kém, chạy như cờ lông công suốt ngày, mà lại chạy chân đất.
Thường vội quá nên mỗi lần gặp nhau chúng chi kịp hỏi. "Cậu đó à?" Rồi lao vút đi. Vừa rồi, lúc phi ngựa vọt qua dãy giao thông hào, em gặp Tê ở tổ Năm, cởi trần, mặt độc cái quần đùi rách toạc đến bẹn, lưng đeo hai quả lựu đạn mỏ vịt, đang lội ào qua một con hói. Vệ ghìm cương lại:
- Tề, cậu đi mô đó?
- Tớ đi tìm o cứu thương đến chuyển mấy anh thương binh đi.
Vệ ngồi trên lưng ngựa, Tề đứng dưới con hói, nước ngập đến thắt lưng.
- Lai bị thương cậu biết chưa? Vệ hỏi - Tớ cõng hắn về trạm quân y chớ ai - Tề nói. - Lúc đánh bi cõng hắn nhẹ tưng mà răng lúc bị thương hắn nặng đến rứa không biết! Liệu phòng tuyến có giữ nổi không cậu?
- Khó lắm. Tụi hắn nhiều súng đạn quá. Cậu có đói không?
- Gần chết! Vệ thò tay vào trong bụng áo lấy vắt cơm lĩnh từ sáng đến giờ chưa kịp ăn.
Bắt nghe! - Em tì chân vào hai bàn đạp, nhón cao người ném vắt cơm cho bạn.
Tề nhảy lên, bắt trượt. Vắt cơm rơi tõm xuống nước, Tề liền nhào theo vắt cơm, chổng mông mò lặn như con vịt mò mồi. Mò được vắt cơm ướt nhoét, Tề cầm chặt hai tay, đưa lên miệng nhá luôn. Vừa nhồm nhoàm nhai, em vừa nhìn lên bạn, đầu gật gật tỏ ý ngon lắm. Rồi vừa nhá cơm em vừa tiếp tục lội qua con hói.
Đạn giặc từ phía bờ sông bắn sang kêu chíu chíu trên đầu em. Tề đưa tay lên đầu phủi phủi tỏ ý coi khinh.
Vệ đến ngôi nhà chỉ huy sở đóng cách phòng tuyến chừng hơn cây số, Vệ-to-đầu cho ngựa phi thẳng vào đến cửa nhà bếp. Em nhảy xuống đất, nói với mấy chị cấp dưỡng:
- Còn vắt cơm mô cho em một vắt. Em đói xều mểu...
Một chị mở thúng lấy vắt cơm nắm và gói thịt heo kho mặn gói trong mảnh lá chuối hơ lửa, đưa cho em.
Em vắt dây cương ngựa lên chốt cửa, chùi hai bàn tay lấm lem và nồng nặc mùi mồ hôi ngựa vào đít quần, đón lấy vắt cơm và gói thịt. Em bẻ đôi vắt cơm đút một nửa vào mồm con ngựa đang đứng thở phì phò rồi dựa lưng vào khung cửa, đưa vắt cơm lên miệng cắn. Mới cắn được một miếng thì Chỉ huy trưởng từ trên nhà đi xuống. Đầu ông đội mũ cát và mặc bộ quân phục lấm lem đất bùn. ông đưa cho em một mảnh giấy gấp làm tư và nói:
- Em xuống ngay chỗ đại đội anh Vị vố ta, đưa lá thư này cho tôi.
Cặp mắt sâu hoắm của ông chợt dừng lại trên gương mặt lấm lem khói đạn, bộ áo quần rách toạc dính đầy bùn đất, ướt sũng, và cái thân hình bé nhỏ mệt nhoài của em run run dựa vào khung cửa...
- Em mệt quá phải không? - ông hỏi giọng trầm hẳn xuống. - Em lên nhà nằm nghỉ đi một lúc, tôi gọi đồng chí Phương đi thay cũng được.
Nhưng Vệ-to-đầu đã nhanh nhẹn đứng thẳng lên, luồn nửa nắm cơm cắn dở lẫn gói thịt heo kho mặn vào bên trong áo sơ mi. Em chùi hai tay vào đít quần, cầm lấy bức thư trong tay chỉ huy trưởng, cẩn thận đút vào túi áo sơ mi. Một tay cần lấy cương ngựa, tay kia trở mu bàn tay chùi miệng, nói:
- Báo cáo anh, em đi được. Em chỉ hơi đói tí thôi. Đường từ đây đến chỗ đại đội anh Vị bây giờ bị đạn đại bác, moóc-chê nó làm lung tung cả lên. Anh Phương không thạo đường sẽ lạc mất.
Chưa kịp để cho chỉ huy trưởng có ý kiến, em đã dắt con ngựa ra giữa sân, nhẹ nhàng phục lên yên. Em thúc gót giật dây cương, con ngựa tung bốn vó bay qua hàng rào chè tàu trước mặt. Chỉ huy trưởng chỉ còn biết đứng lặng lẽ nhìn theo. Ông lẩm bẩm: "Hết chiến tranh mình phải đưa thằng bé về nhà cho nó đi học...".
Vệ đến gặp đại đội trưởng Vị đúng vào lúc đại đội ông đánh bật được đợt "a-la-xô" thứ nhất của giặc. Ông cầm lấy bức thư em trao chưa kịp đọc thì giặc dưới sông lại ào lên "a-la-xô" đợt thứ hai. Ông vọt lên khỏi chiến hào, chạy thẳng đến chỗ bố trí khẩu trung liên F.M độc nhất của đại đội, định cho đưa súng ra mé sông để quét bọn giặc đổ bộ. Nhưng mới chạy được chục bước thì ông bị trúng đạn. ông ngã dúi, mặt úp xuống đất bị đạn cày nát, khẩu cạc bin cầm trong tay văng ra bên cạch. Mặc cho đạn bắn mỗi lúc một rát, Vệ nhảy lên khỏi chiến hào, lăn tròn như con quay thẳng đến chỗ đại đội trưởng. Nó tưởng ông chỉ bị thương, nhưng khi thấy trán ông vỡ toác thì nó khóc òa lên, và nép sau xác ông để tránh đạn. Hai anh ban trung liên cũng vừa lăn đến kịp, kéo xác ông về phía sau. Vệ bò sát đất đến chỗ khẩu cạc bin, chụp lấy khẩu súng lăn trở về giao thông hào.
Khoác khẩu súng lên vai, nó phi ngựa như bay về báo cáo với chỉ huy trưởng.
17.
Sau đó chỉ hơn nửa tiếng đồng hồ, phòng tuyến sông Ruồi bị chọc thủng. Chỉ huy trưởng quyết định để lại một bộ phận nhỏ kìm chân giặc, còn đại bộ phận rút lui về giữ phòng tuyến sông Nong cách sông Ruồi chừng mười cây số.
Chỉ huy trưởng, Vệ, anh Phương cần vụ là những chiến sĩ cuối cùng rời khỏi phòng tuyến sông Ruồi.
Trời chiều đột nhiên hửng nắng. Ba người đã lui cách sông Ruồi chừng ba cây số. Họ cùng cúi rạp người trên mình ngựa, cố thúc phi thật nhanh vượt qua một quãng đường rất trống. Dọc hai bên con đường rải nhựa không một bóng cây, những vồng khoai lang mới trồng chạy dài tít tắp. Anh Phương cưỡi ngựa phi sau cùng, bỗng kêu hét lên :
Máy bay nó đuổi theo ta đế ế ế...! Chỉ huy trưởng và Vệ ngồi trên mình ngựa cùng ngoái đầu lại. Trên nền trời chiều vàng nắng, cuồn cuộn lửa khói và vang ầm tiếng nổ phía sau, bốn chiếc máy bay cổ ngỗng đang cắm đuôi nhau lao vùn vụt về phía ba người. Thoáng nhìn, Chỉ huy trưởng biết lũ máy bay đã nhìn thấy mình vì mục tiêu di động của ba người trên quãng đường quá trống trải. ông hô lớn:
- Tản ngay ra hai bên đường! Phương cuống quá, quất ngựa chạy bừa xuống ruộng khoai rồi hai tay ôm chặt lấy cổ ngựa mặc cho nó muốn đưa mình đến đâu thì đến. Chỉ huy trưởng kéo cương thật nhanh, rời khỏi đường nhựa và phóng đến một lùm cây thấp cách đường chừng tràm mét.
Vệ ghìm cương ngựa, đưa mắt rất nhanh nhìn bao quát địa hình chung quanh. Em thấy không có một chỗ nào gần đó khả dĩ núp được. Nhưng không một chút rối trí, em chợt nhận ra: Con ngựa cho nằm ẹp xuống mặt đường, và em nằm ép sát vào một bên, đầu gối lên cổ ngựa, em ngửa mặt chăm chú quan sát bầu trời. Lũ máy bay cổ ngỗng đen trùi trũi to dần lên một cách khủng khiếp. Tiếng gầm rít của chúng như những chiếc khoan xoáy sâu vào màng nhĩ. Chiếc máy bay đầu đàn bỗng chúc đầu lao thằng hướng lùm cây mà chỉ huy trưởng vừa nhảy vào núp. Em kinh hoàng thét lên "ối'" tim như muốn ngừng đập. Cặp mắt em mở to, thất sắc, dán chặt vào đường lao chênh chếnh với tốc độ chóng mặt của chiếc máy bay. Tuy vậy em vẫn còn đủ trí tỉnh táo để hiểu ra tại sao chiếc máy bay lại lao đúng lùm cây mà chỉ huy trưởng núp. Chỉ vì con ngựa! con ngựa trắng cao lớn, quá hoảng vì tiếng gầm rít của máy bay đã không chạy đi lại rúc đầu đúng bụi cây đó.
Hai vó sau nó đã hất lia lịa như lúc gặp thú dữ. Cái thân hình trắng toát của con ngựa chuyển động liên tiếp trẽn nền! xanh của lùm cây, đứng xa hàng cây số cũng nhìn thấy.
Hai cánh máy bay chớp chớp lửa. Một tràng nổ xé tai. Đất đá quanh lùm cây và con ngựa bị cày tung lên mờ mịt. Bắn xong loạt đạn chiếc máy bay ngóc đầu nhào lên."Không đuổi ngay con ngựa trắng đi thì Chỉ huy trưởng nguy mất. Ba chiếc máy bay sau cũng đang hằm hè sửa soạn lao xuống". Ý nghĩ đó làm Vệ-to-đầu quên hết sợ hãi, hiểm nguy. Em đứng bật ngay dậy, lôi mạnh con ngựa đứng lên theo, thót lên yên, phi thẳng đến lùm cây chỉ huy trưởng núp. Em hỏi to:
- Chỉ huy trưởng có việc gì không ạ?
- Không, không sao cả! - Tiếng chỉ huy trưởng bình tĩnh đáp lại trong lùm cây. Em núp ngay đi, chiếc thứ hai sắp sửa bổ nhào đấy!
Nhưng Vệ không kịp đáp lại. Thời gian phải tranh thủ từng khắc một. Em kẹp chặt đùi vào hông ngựa nhoài người túm lấy dây cương con ngựa trắng, nghiến răng giật mạnh lôi đầu nó ra khỏi lùm cây. Con ngựa hý vang, cất cao cổ, dẫm bốn vó như muốn cưỡng lại. Nó tức giật vung báng súng cạc- bin quật mạnh vào hông con ngựa, rồi thúc gót con ngựa đen phi thẳng ra giữa đồng trống, lôi theo cả con ngựa trắng. Chỉ huy trưởng núp trong lùm cây nhìn ra, ông đã hiểu chú bé liên lạc của ông muốn làm gì. ông thấy cổ mình đau nghẹn: "Ôi, chú bé nguy mất'". Và ông cũng không nén được cảm phục chú bé liên lạc của ông. ông tự hỏi: "Ai dạy cho và từ bao giờ, mà trong cái phút hiểm nguy ngàn cân treo sợi tóc như vậy, nó đã cưỡi ngựa, bắt ngựa, đánh ngựa, lôi ngựa đi với những động tác tuyệt vời khéo léo và chính xác của những trang kỵ mã lão luyện tài ba nhất?".
Chiếc máy bay thứ hai đã ầm ầm lao đến về phía Vệ-to-đầu, nó vừa phi ngựa vừa ngoái nhìn chiếc máy bay. Nó cố phi sao cho thật lộ, hút được cả lũ máy bay về phía sau mình.
Mất mục tiêu, chiếc máy bay sửa soạn bổ nhào nhả đạn, đành phải chuyển sang lượn vòng tìm kiếm.
Vệ-to-đầu dắt con ngựa trắng mỗi lúc một xa hơn lùm cây Chỉ huy trưởng núp. Nó nhìn chiếc máy bay bị mất mục tiêu đang gầm rít tức tối lượn đảo quanh bầu trời. Nó khoái chí quát to với chiếc máy bay:
- Mi tưởng mi giết được cấp chỉ huy của tao là dễ lắm à? Đừng hòng! Tao chấp cả cha con dòng họ thực dân nhà bay đó! Nhưng chiếc máy bay thứ ba đã nhìn thấy mục tiêu.
Nó vùn vụt lao đuổi theo hai con ngựa và tay kỵ mã tí hon, đang phi như đùa chơi giữa cánh đồng không một bóng cây này.
Chà, cái tụi ni có vẻ cay cú, muốn giết cho bằng được kẻ yếu thế dưới mặt đất này! Vệ lúc này đã hoàn toàn yên tâm về Chỉ huy trưởng.
Em phấn chấn hẳn lên khi thấy mình đã đánh lừa được tụi máy bay giặc. Vẻ mát em trở nên ranh mãnh như lúc cùng các bạn chơi trò trốn tìm. Em buộc cương hai con ngựa vào nhau. Mặt em vênh vênh nhìn lên trời, mắt bám sát đường bay của thằng giặc. Chờ cho chiếc máy bay bổ nhào lao thẳng về phía mình, em mới nhún mạnh hai bàn đạp. quăng mình như bay từ trên lưng ngựa xuống cái rãnh giữa hai luống khoai. Động tác em nhanh nhẹ đến nỗi con ngựa đen không hề hay biết cứ tiếp tục lồng bốn vó phi về phía trước kéo theo con ngựa bạch Tiếng đạn nổ xé tai. vạt đất bị cày tung toé cách xa em hàng chục mét Chiếc máy bay thứ tư cắn đuổi chiếc thứ ba. chúc đầu lao thẳng xuống hai con ngựa đang lồng chạy Cánh máy bay chớp chớp lửa.
Nằm giữa hai luống khoai, ngửa mặt nhìn lên, tim Vệ như muốn nhảy thót ra khỏi lồng ngực Em lo sợ cho hai con ngựa. - Trượt cha chúng mày rồi! - Vệ ngồi bật đậy reo to khi thấy dứt loạt đạn hai con ngựa lại càng lồng lên phi nhanh hơn.
Chắc đã bắn hết đạn, bốn chiếc máy bay họp thành đội hình hàng dọc, cắn đuôi nhau bay trở vê hướng Nam. Bầu trời bỗng trở nên yên tĩnh một cách dị thường. Vệ vùng ngay dậy, nhảy vọt qua từng hai ba vồng khoai một, chạy về phía Chỉ huy trưởng. Chỉ huy trưởng cũng từ trong lùm cây chui ra. ông bước lên mô đất gần đó, một bàn tay khum khum đưa lên mây che ánh nắng chiều chênh chếch sắp tắt, nhìn theo bốn chiếc máy bay lúc này chi còn là bốn chấm đen.
Có tiếng sột soạt phía sau lưng. Hai người cùng quay lại. Hai con ngựa. dây cương buộc vào nhau đã quay về từ lúc nào và đang bình thản rứt những mầm khoai lang mới nhú non mơn mởn.
Phần Thứ Ba
1.
Trời sập tối.
Lượm và Tư-dát giục Mừng đến lần thứ tư:
- Cậu lên gặp đại đội trưởng ngay đi! ông sắp xuống dẫn trung đội ba đi phối hợp tấn công trường Thiên Hựu.
- Tối ni mà cậu không tranh thủ xin phép về thăm mạ thì chưa biết đến khi mô mới về được-.. Tớ vừa nghe điện thoại trên Mặt trận bảo là phòng tuyến Ruồi bị vỡ rồi, quân ta đang rút về lập phòng tuyến sông Nong. Có lệnh của đội trưởng, năm giờ sáng mai tất cả đội ta phải có mặt tại chùa Vạn Phước để chuẩn bị đi nhận nhiệm vụ mới.
- Lần ni mà mi không về gặp mạ thì chẳng còn khi mô được thấy mặt mạ nữa mô nghe! - Tư-dát vừa cuộn áo quần thành nắm tọng đại vào ba lô, vừa nói với Mừng
- Tại răng rứa anh?
- Tao nghe được tin tối mật là chỉ một hai hôm nữa, chiến sĩ toàn Mặt trận không kể người lớn con nít, mỗi người sẽ được phát một trái bom ba càng - Trung đoàn trưởng sẽ cho nổ một trái bom còn to hơn trái nổ ở cầu Tràng Tiền làm hiệu lệnh. Tất cả sẽ ôm bom ba càng hét xung phong rồi lao thẳng vô vị trí giặc. Mạng đổi mạng.
- Cậu đừng tin cái miệng hắn. - Lượm nói. - Hắn nói chơi để dọa cậu đó.
Tư-dát nói với Mừng, giọng vẫn tỉnh khô:
Nếu cậu được về thăm mạ mà lỡ không lên kịp thì xuất bom ba càng của cậu tớ sẽ lãnh luôn. Một mình tớ chơi hai trái mới đã sức! Cấm cậu không được đòi lại nghe?
- Không, răng tui cũng về kịp trước năm giờ sáng.
Mừng nói rồi cắm đầu chạy biến lên tầng gác, đến phòng của đại đội trưởng..
Ông Thới đã nai nịt gọn gẽ, đang lúi húi bên ngọn đèn dầu, nạp đạn vào băng khẩu pạc- hoọc. Mừng rón rén bước vào phòng, đến đứng nghiêm trước mặt ông, lắp bắp run rẩy nói:
- Dạ... dạ... thưa anh.... Anh cho em về thăm mạ em, sáng mai em trở lại sớm.
Miệng nói mà trong bụng em không chắc gì ông sẽ cho phép. Tối ni coi mặt ông nghiêm lắm mà tình hình Mặt trận lại đang gay go..
Ðại đội trưởng lắp băng đạn vào súng, ngẩng lên nhìn em, trán cau lại, hỏi?
- Về thăm mạ à? Tối tăm mưa gió thế này chú mày về thế nào được? Mà mạ ở mô?
- Dạ gần đây thôi.. dưới Bao Vinh. Tối tăm mưa gió mấy em cũng đi được... Tối chi bằng cái hôm đánh nhà thằng Lơ-bơ-rít. - Ðược cho chú mày về, nhưng đúng năm giờ sáng mai là chú mày phải có mặt để tập trung về đội.
Thật khó mà tả được vẻ mặt mừng rỡ của em lúc này. Em vọt ra cửa quên cả chào đại đội trưởng - Phải xuống báo ngay cho anh Lượm biết, rồi mở máy hết bộ giò mới có thể đi về kịp trong đêm nay. Em nghĩ vậy.
Lượm là tổ trưởng thay Vệ, Ngay chiều hôm Vệ theo chỉ huy trưởng đi vào mặt trận phía nam, đội trưởng liền điều Lượm và Tư-dát ở mặt trận khu B về bổ xung. Và cử Lượm làm tổ trưởng. Ra đến đầu cầu thang Mừng vấp phải Lượm và Tư-dát từ dưới chạy lên. Hai em định lên gặp đại đội trưởng để xin giúp cho Mừng. Em chụp lấy tay hai bạn thì thào mừng rỡ:
- Được rồi, được rồi, ông cho phép rồi. ông dặn năm giờ sáng mai phải có mặt.
Xuống đến chân cầu thang, Mừng bỗng đứng sững lại, gương mặt thẫn thờ, em buồn rầu nói:
- Tui ngu quá đem gởi bó lá tầm gởi cho anh So mất rồi, Chừ về thăm mạ mà chẳng có cái chi đem về cho mạ.
- Hay cậu mang về cho mạ tấm nhung đỏ cậu Bồng cho dạo nọ.
- Tấm nhung tui cho Quỳnh mất rồi…
- Để tớ vào lục ba lô coi có cái chi mang về cho mạ.
Tư-dát nói rồi chạy biến vào phòng. Lượm cũng chạy theo.
- Cậu chịu khó đứng chờ đây chút nghe!
Loáng một cái hai đứa chạy ra, tay cầm mấy thứ đồ vật linh tinh mà chúng nhặt nhạnh được ở những lần đi trinh sát khu vực giặc.
Tư-dát trải xuống nền xi măng một miếng vải bạt rồi xếp vào đó ba cái dù pháo tín hiệu, một tấm màn che cửa viền đăng ten, hai hộp thịt, một cái gương soi và ba vỏ đạn đui xết. Luợm kêu:
- Mạ lấy vỏ đạn làm chi, Mạ có phải con nít mô?
- Để mạ làm cán dao nhíp không tốt à?
Tư-dát vừa trả lời vừa gói tất cả lại, lấy dây điện thọai ràng buộc cẩn thận, rồi dúi gói quà gửi mạ vào tay Mừng giục:
- Mi đi ngay đi mà về cho kịp Về không kịp tau lãnh mất xuất bom ba càng thì đừng có kêu!
- Cho tụi mình gửi lời thăm mạ nghe?
Mừng ôm gói đồ vào lòng, đi thẳng ra khu vườn bên trái doanh trại. Ngang qua một bụi chuối nó dừng lại sờ soạng tìm một tàu lá chuối nguyên lành, ghé răng cắn đứt, rồi tách cọng lá ở giữa làm đôi. Em luồn đầu qua lỗ hổng, bẻ gập tàu lá chuối lại thành cái áo đi mưa. Ra đến đường em chạm trán một tổ tuần tra mặt trận, các anh hỏi:
- Ai? Đứng lại.
Em trả lời dõng dạc
- Em là liên lạc đây!
Các anh hỏi mật khẩu:
- Kháng chiến!
- Em đáp:
- Quyết thắng.
Các anh để cho em đi. Họ không lạ gì những chú liên lạc như em giờ này đi lại trong khu vực Mặt trận.
Một anh tò mò hỏi:
Em đi mô đó?
- Bí mật. - Em trả lời đầu không ngoái lại.
Anh này cười hề hề.
- Nhóc mà cũng ra vẻ gớm?
Một anh nhìn hút theo em đang lặn sâu vào bóng tối, không biết nghĩ gì, buột miệng nói:
- Cả đất nước gian truân ghê người!
2.
Khoảng hai giờ sau, vừa chạy vừa đi, Mừng về đến Bao Vinh.
Nhưng Bao Vinh bây giờ không còn giống như hôm em trốn nhà ra đi: Đường xá vắng tanh vắng ngắt, nhà cửa hai bên đường, cửa đóng im ỉm, không có lấy một tiếng động, như nhà đã bỏ hoang lâu ngày.
Mấy hôm nay tin về dồn dập bọn viện binh giặc đã chọc thủng phòng tuyến sông Ruồi và đang ào ạt tiến về phía thành phố, nên đồng bào ở đây đã chạy tản cư hết.
Mỗi xóm chỉ còn vài người già liều mạng không chịu đi, ở lại trông nom nhà cửa, vườn tược, những người trai tráng thì xung phong lên Mặt trận.
Càng về đến gần nhà, Mừng càng thấy ruột gan bồn chồn. Em lo không biết mẹ còn ở nhà hay cũng đi tản cư mất rồi. Ðến chỗ con đường rẽ vào xóm thì em bật vùng chạy. Con đường hẻm ngoằn ngoèo, tối như hũ nút, đầy những vũng bùn nước. Em ngã chúi mấy lần nhưng gượng lại được và tiếp tục chạy. Em về đến ngõ, kêu to: "Mạ ơi?" và vọt vào sân. Em đứng như chôn chân giữa mảnh sân nhỏ bằng hai chiếc chiếu, nước mưa xăm xắp đến mắt cá chân. Nhà em cũng cửa đóng chặt, hoang vắng lạnh lẽo chẳng khác chi ngoài đường. Trước đây, vào giờ này, bao giờ bếp vẫn còn sáng rực lửa: Mẹ nấu xáo bò để ngày mai đi chợ sớm. Bây giờ thì cửa bếp đóng kín, giọt tranh rơi lách tách, đều đều nghe buồn đến đứt ruột.
Như người mất hồn em chạy đến vỗ liên tiếp vào cánh cửa liếp đóng kín, run rẩy gọi:
- Mạ ơi' Mạ! Mạ ơi!
Em gọi một cách tuyệt vọng vì biết chắc rằng mạ đã đi tản cư mất rồi. Rồi không nén được nữa, em òa khóc, khóc thật to. Tiếng gọi, tiếng khóc của Mừng làm cho ông cụ Mộc - người độc nhất còn ở lại trong xóm - ở cách đó hai nhà, phải tỉnh giấc. Cụ nhổm dậy, thõng hai chân xuống bức phản mọt, sờ soạng tìm đôi guốc đẽo bằng gốc tre, miệng lẩm bẩm:
- Lạ quá hè? Ðêm hôm khuya khoắt ri mà bên nhà chị Niệm có tiếng ai như tiếng con nít khóc, gọi chị ta.
Cụ sờ tìm bật lửa dưới cái gối mây bật lửa châm vào một thanh đóm củi thông. Cụ đẩy cửa liếp, tay khum khum che ngọn lửa, đi sang nhà chị Niệm. Trời đã ngớt mưa. Trên cao tít, một vài ngôi sao xanh biếc lấp lánh hiện ra như những con đom đóm đang bay bổng bị vướng vào những đám mây đen xỉn. Bước qua hàng rào, cụ trông thấy một thằng bé đầu đội mũ Vệ Quốc Đoàn. Lưng khoác tàu lá chuối loang loáng nước mưa. Cụ ngạc nhiên cất giọng khản đặc những đờm, hỏi:
- Chớ đứa mô đứng khóc đó?
Thằng bé quay lại, mắt ráng mở nhìn cụ qua ánh lửa đóm lay lắt, khẽ kêu:
- Cụ Mộc!
Cụ Mộc bước đến gần hơn, đưa ngọn lửa soi vào giữa mặt Mừng, cặp mắt cụ hấp hem nhìn mãi vẫn không nhận ra.
- Cháu là thằng Mừng đây mà...
- Thằng Mừng con mụ Niệm à? Trời ơi! Cháu còn sống thực đó hở Mừng- Tây cụ run run cầm lấy cánh tay em kéo lại, cúi nhìn sát tận mặt xem có phải đúng thằng Mừng thật không. Khi nhận đúng là thật rồi, ông cụ càng tỏ vẻ kinh ngạc hơn.
- Cháu ở mô mà mò về được đây? Bấy lâu cả xóm tưởng cháu chết sông, chết hói rồi.
- Cháu có chết mô! Cháu đi Vệ Quốc Ðoàn.
- Cháu đi Vệ Quốc Ðoàn à? Cha cái thằng! Rứa mà làm mạ cháu khóc hết nước mắt nước mũi! Ði sang bên nhà ông rồi ông kể chuyện cho nghe! Mạ cháu đi tản cư về làng Phò rồi, ở nhà cái bà mệ nuôi của cháu ấy. Cụ Mộc cầm tay dắt nó về nhà. Cụ xuống bếp ôm lên ôm rơm, đốt lên giữa nhà một đống lửa, bảo nó cởi quần áo vắt nước mà hơ cho khô.
Một già, một con nít ngồi trước đống lửa ấm áp, khói cay mắt, nói chuyện. Cụ kể: Cái hôm cháu bỏ nhà trốn đi, mạ cháu đi chợ về, chạy tìm khắp xóm. Tìm không thấy, mạ cháu ra ngồi đợi trước ngõ suốt cả đêm hôm đó, khóc như mưa như gió- Rồi suốt cả tuần liền, đêm mô mạ cháu, cũng ra ngõ đợi, khóc hai mắt sưng húp như hai quả nhót. Cứ chiều chiều mạ cháu lại ra bờ sông, chạy dọc theo bờ, đầu tóc rũ rượi, hú hồn hú vía cháu. "Hú ba hồn bảy vía Mừng con ơi! Về với mạ, đừng bỏ mạ một thân một mình tội mạ lắm con ơi!".
Cụ Mộc kể chừng nào, nước mắt Mừng chảy ra chừng đó- Em ngồi không vững nữa, gục đầu vào cánh tay cụ khóc nấc lên. Cụ Mộc cũng khóc, đặt bàn tay khô héo lên đầu nó, dỗ dành:
- Thôi, nín đi cháu... Mạ cháu tản cư về làng Phò, cách đây chừng nửa ngày đường. Cháu ở lại ngủ với ông đêm nay rồi sớm sáng mai chạy ù về thăm mạ cho mạ cháu mừng, kẻo tội nghiệp.
Mừng quệt nước mắt, lúc lắc đầu, nói:
- Cháu không ở lại được mô. Không gặp được mạ cháu, cháu cũng phải về thôi. Kỷ luật của bộ đội nghiêm lắm.
- Chứ cháu về mô?
- Về bên khu vực Mặt trận C tê.
- Chứ bấy lâu nay cháu làm công việc chi?
- Cháu đánh Tây chứ làm chi nữa ông?
- Đánh Tây à? Thằng con mụ Niệm giỏi quá hè. Cháu nhỏ rứa mà cũng đánh Tây được à?
- Nhỏ có việc nhỏ, lớn có việc lớn. ông không nghe nói là toàn dân kháng chiến đó à?
- Có có, ông cũng có nghe nói. - Cụ gật gật mái đầu bạc phơ - Cháu mới đi bộ đội có ít lâu mà ăn nói khôn ngoan hẳn ra đó, Mừng ạ. Cháu mà cũng biết chuyện toàn dân kháng chiến à?
- Cháu được học chính trị. Học chính trị còn biết được nhiều cái hay hơn nữa tề, cái toàn dân kháng chiến thì đã ăn thua chi ông.
- Cha cha! Cháu mà cũng biết cả chính trị nữa à? Ông tưởng cả nước Nam mình chỉ có Cụ Hồ mới biết chính trị thôi chứ?
- Chính trị thì khó chi mà không biết- Cả đội cháu đứa mô cũng biết. Cháu còn học cả quân sự nữa. Cháu biết bắn cả súng nữa, cháu được bắn ba phát rồi.
- Rứa cháu bắn có chết được thằng Tây mô không?
- Dạ chưa..- suýt nữa thì chết. Tại cháu còn nhỏ, cầm súng tay còn run. Chứ mai mốt lớn lên, cháu bắn nhất định chết.
- Rứa cháu không ở lại đây với ông để mai sớm về làng Phò thăm mạ thật à cháu?
- Dạ, thật ông ạ. Ðại đội trưởng chỉ cho cháu về trong đêm ni. Năm giờ sáng mai là cháu phải có mặt ở đơn vị rồi. Ðã đi bộ đội là phải giữ đúng kỷ luật ông ạ.
- Ừ, rứa thì cháu cứ về đi. Có chi ông sẽ tìm cách nhắn tin cho mạ cháu biết.
Mừng đứng lên, mặc áo quần hong đã gần khô. Em quay mặt nhìn sang phía nhà em, nước mắt lại ứa ra giọt ngắn giọt dài. Em đưa ống tay áo quệt vội nước mắt, nói với cụ Mộc qua tiếng nấc:
- Cháu đi ông hí...
Cụ Mộc cũng đứng lên rơm rớm nước mắt.
- Cháu có đói không- ăn bát cơm nguội rồi về, cơm ông mới nấu lúc chiều ủ còn nóng.
- Thôi ông ạ-.. Chừ cháu chẳng thiết ăn uống chi hết.
Mừng ôm cái gói đồ biếu mạ vào lòng, lui cui bước ra khỏi nhà.
Cụ Mộc tựa cửa nhìn theo em cho đến lúc mất hút vào khoảng tối, lòng bỗng thấy buồn lạ; buồn chẳng khác chi cái hôm nhìn thấy cả xóm sập liếp, cài cửa mạ mô con nấy, gồng gánh, bế bồng kéo nhau đi, chỉ còn độc một mình cụ ở lại.
3.
Cũng đêm hôm đó trung đoàn trưởng đi kiểm tra tình hình Mặt trận. Cùng đi có em Nghi, liên lạc của ông.
Trung đoàn trưởng vóc người tầm thước, mảnh khảnh, nhiều dáng dấp thư sinh hơn là một người chỉ huy quân sự, ông trạc ba mươi tuổi. Ông đội mũ cứng Tiếp Phòng Quân, mặc bộ quân phục ka ki màu cỏ úa, khoác áo đi mưa, cưỡi con ngựa tía cao lớn. Con ngựa tên là Ca-rô-lin, nòi Anh Cát Lợi, trước đây là của Vua Bảo Đại. Nó là con ngựa quý nhất của Bảo Đại, y thường cưỡi đi săn hoặc đi dạo.
Nghi cũng trạc lứa tuổi với các đội viên Thiếu niên trinh sát, khoảng mười ba, mười bốn- Em cưỡi con ngựa lông đen tuyền, thấp nhỏ, cụt đuôi, vai khoác khẩu cạc- bin, báng súng chạm trổ rất đẹp. Khẩu súng này trước cũng của Bảo Ðại, ta lấy được cùng một lần với khẩu súng săn voi của Chỉ huy trưởng Mặt trận C - Tuy mới mười ba tuổi nhưng Nghi đã là một kỵ sĩ khét tiếng của Trung đoàn. Tài cưỡi ngựa của Nghi ngay cả Vệ-to-đầu cũng vì nể. Con ngựa đen cọc đuôi em cưỡi là của Nhật, nghe đâu nòi ngựa chiến Mông Cổ. Con ngựa thấp nhỏ vậy nhưng dữ như một con báo, chuyên môn cất hậu, sa tiền, cắn, đá, thường giở chứng quẳng người cưỡi xuống đất. Cả đơn vị kỵ binh của trung đoàn không ai dám cưỡi, thế mà chú bé liên lạc này đã trị được nó. Thấy Nghi cưỡi ngựa giỏi, các anh lớn tò mò hỏi mới biết, trước khi gia nhập vệ Quốc Ðoàn em ở chăn ngựa cho một chủ xe ngựa.
Trung đoàn trưởng và chú bé liên lạc cho ngựa nước kiệu trên con đường rải đá vắng tanh vắng ngắt, sáng trắng những vũng nước mưa. Bỗng xa xa phía trước mặt có tiếng khóc vẳng lại. Khi ngựa đến gần hơn, ông nhận ra tiếng khóc con nít. Ông rất ngạc nhiên, trong khu vực Mặt trận, giữa đêm hôm mưa lạnh, tối tăm, vắng vẻ thế này sao lại có một em bé nào khóc? Ông thúc ngựa rút cây đèn bấm trong túi áo đi mưa, bấm rọi thẳng về phía trước. Một bó ánh sáng màu vàng nhạt từ mặt kính đèn bấm tuôn ra thành hình cái loa. khoét thủng một quãng dài bóng tối, giữa cái loa ánh sáng ấy hiện ra một chú bé đang cắm cúi bước. quay lưng lại phía ông. Chính chú bé này đang vừa đi vừa khóc. Chỉ thoáng nhìn, trung đoàn trưởng cũng đoán biết chú là liên lạc viên của bộ đội, một trong hàng nghìn chiến sĩ của ông. Chú bé đội mũ cứng, mặc chiếc áo trấn thủ rộng thùng thình phủ kín mông đít, cái quần người lớn cắt ngắn ống đáy rộng như cái váy.. ngang lưng thắt lưng da to bản có dắt quả lựu đạn O.F.
Ðó là thứ binh phục quen mắt của các chú liên lạc nhỏ mà ông thường gặp trên khắp các mặt trận khu A, B, C. Ông thúc gót ủng cho ngựa phi đến gần sát sau lưng chú bé, cất tiếng hỏi:
- Này, chú bé! Chú đi đâu về mà khuya khoắt thế này?
Chú bé còn mải khóc nên không nghe tiếng vó ngựa, cũng không chú ý tới ánh đèn. Nghe gọi đột ngột, nó giật bắn người quay ngoắt lại. Chú đưa ống tay áo, quệt vội nước mắt, chớp chớp nhìn. Chú đã nhận ra người cưỡi con ngựa cao lớn đang đứng trước mặt là ai. Chứ vội rút chân về tư thế đứng nghiêm, ngước cặp mắt nhòe ướt lên nhìn ông, cố nuốt tiếng nấc, trả lời.
- Dạ. Em được cấp chỉ huy cho phép về thăm mạ.
Nhìn cái dáng vội vã đứng nghiêm với gương mặt con nít nhòe nhoẹt nước mưa lẫn nước mắt của chú bé liên lạc, ông thấy nó tội quá. Ông dịu dàng nói:
- Cho em "nghỉ". Em gặp chuyện gì buồn mà phải khóc thế?
- Dạ.-. Em được cấp chỉ huy cho về thăm mạ. nhưng em về nhà thì mạ em đi tản cư mất rồi.
Nước mắt chú bé lại ràn ra. Chú lại đưa tay quệt vội nước mắt.
- Thế mạ em tản cư về đâu có biết không?
- Dạ. Tận dưới làng Phò tê.
- Thế em không ngủ lại nhà rồi sáng mai về làng Phò thăm mạ có được không?
- Cấp chỉ huy chỉ cho phép em đi đến năm giờ sáng mai là phải có mặt ở đơn vị...
- Em ở đơn vị nào?
- Dạ, đơn vị đóng ở trường Kỹ Nghệ.
- Ðại đội anh Thới phải không?
- Dạ phải.
- Thế thì được. Anh sẽ cho em thêm một ngày phép nữa. Bây giờ em quay lại nhà ngủ, sáng mai về làng Phò thăm mạ. Anh viết cho em cái giấy. Lúc trở về đơn vị, em đưa giấy cho anh Thới là không việc gì hết. Em tên là gì?
- Dạ, em tên là Mừng.
Trung đoàn trưởng mở nắp chiếc xà cột da đeo bên hông, định lấy giấy bút viết mấy chữ cho đại đội trưởng Thới. Mừng bỗng rụt chân lại đứng nghiêm, giọng run run nói:
- Dạ thưa anh, anh có viết giấy em cũng chẳng ở lại đi thăm mạ được mô...
- Sao lại thế? - Trung đoàn trưởng ngạc nhiên hỏi - Em không muốn về thăm mạ nữa à?
- Dạ em muốn lắm... Nhưng chiều này có lệnh của đội trưởng là sáu giờ sáng mai tất cả đội phải có mặt tại Chỉ huy sở Mặt trận khu C để nhận công tác mới. Em sợ về trễ mất một ngày, các bạn nhận hết công tác, em không được nhận.. Trung đoàn trưởng ngồi sửng trên lưng ngựa. Vẻ mặt và giọng nói của người chiến sĩ nhỏ bé của ông làm ông xúc động. ông chỉ muốn nhảy xuống ngựa ôm chú vào lòng mà vỗ về an ủi như một người cha. ông nói:
- Anh là trung đoàn trưởng mà chẳng thể làm gì giúp được em sao?
- Chẳng ai giúp được cho em hết...- Mừng quệt nước mắt, miệng mếu xệch. - Có trời cũng chẳng giúp được cho em... Em vừa muốn về thăm mạ lại muốn về cho kịp để được đi công tác với đội... hu hu hu... Mừng òa khóc to.
- Dạ em, em có thể giúp được bạn ấy. - Em Nghi từ nãy đến giờ gò ngựa đứng cạnh trung đoàn trưởng, lúc này mới lên tiếng. - Ðề nghị anh cho phép em chở Mừng về làng Phò thăm mạ, xong em lại chở về đơn vị. Thế nào chúng em cũng về kịp đơn vị trước năm giờ sáng.
Trung đoàn trưởng vui vẻ gật đầu:
- Được, Nghi làm như thế rất tốt! Nhớ đi cho cẩn thận! Em đưa khẩu cạc- bin đây anh mang về trước cho. Con ngựa ấy hai em cưỡi có được không?
- Dạ được anh ạ. Nhưng em sợ hơi nặng, nó phi không được nhanh.
- Thế thì anh đổi cho hai em con Ca-rô-lin.
Trung đoàn trướng và Nghi cùng xuống ngựa. Nghi trao dây cương con ngựa đen, khẩu cạc- bin cho ông, và dặn:
- Anh nhớ, chú ý nó hay sa tiền lắm. Lúc nào anh thấy nó hơi khuỵu hai chân trước xuống, anh cứ quất thật mạnh vào cho em.
Nghi nhanh nhẹn phóc lên lưng con ngựa của trung đoàn trưởng. Mừng chưa được cưỡi ngựa bao giờ, ì ạch mãi mới trèo lên được, ngồi sát sau lưng bạn. Trung đoàn trưởng còn đứng dưới đất, nói với Mừng:
- Cho anh gửi lời thăm mạ nghe!
- Dạ...
Nghi kéo dây cương quay ngược về phía sau. Con ngựa thấy phải quay lại đường cũ, dậm vó liên tiếp xuống đường, hý lên ầm ĩ tỏ vẻ phản đối. Em quất cho một roi vào sườn ba. Con ngựa cất cao vó, lao như bay về phía trước. Tiếng vó nện xuống đường đá nghe rầm rập. Nghi hét to:
- Cậu quàng tay ôm chặt ngang lưng tớ không thì ngã đấy!
Ngồi trên yên ngựa sát sau lưng bạn, Mừng bắt chước nhún người lên xuống theo nhịp ngựa phi. Thích chí em bật cười khanh khách. Bao nhiêu buồn khổ đã làm em khóc hết nước mắt phút chốc vụt tan biến đi đâu hết. Em vui sướng kêu to:
- Ôi chà, ôi chà! Êm đít quá! Êm đít quá!
Lây nỗi vui thích của bạn. Nghi cũng phá lên cười giòn giã. Tay nới dây cương cho ngựa phi nước kiệu, Nghi quay đầu lại hỏi:
- Cậu chưa được cưỡi ngựa bao giờ à?
- Chưa! Con mạ Niệm bán bún bò làm chi có ngựa mà cưỡi... Dạo ở nhà tớ được cưỡi dê một lần, còn chó thì cưỡi luôn. Một bữa tớ cưỡi con chó mực nhà cụ Mộc, định thúc chó nó phi; nó nổi cáu đợp cho tớ một cú vô bắp chân còn sẹo đây này.
Nghi vung roi lên cười khanh khách, nói giọng ngang tàng.
- Còn tớ thì sống nửa đời trên lưng ngựa! - Câu nói này Nghi học được của một tay anh chị làm nghề đánh xe ngựa hồi còn đi ở chăn ngựa.
Mừng bỏ một tay ôm bạn ra, vỗ vỗ vào hông con ngựa, hỏi:
- Con ngựa ni là ngựa chi mà to dữ ri cậu?
- Cậu chưa biết à? Nó là con ngựa quý nhất của vua Bảo Đại. Trước kia chỉ có vua mới được cưỡi nó thôi. Chỗ cậu đang ngồi là đúng chỗ trước kia vua Bảo Đại ngồi đó nghe!
- Rứa à? - Mừng kêu lên ngạc nhiên. Em gục vào vai bạn cười ngặt nghẽo. - Hơ hơ! Ai ngờ thằng Mừng con mạ Niệm bán bún bò ở chợ Bao Vinh, bữa ni lại được ngồi đúng vô chỗ vua Bảo Đại ngồi! Hơ hơ! hơ hơ! - Em vừa reo vừa nhổm đít lên dằn đít xuống mấy cái liền cho hả cơn khoái.
Nghi cũng lây nỗi vui bồng bột của bạn, cười to nói:
- Nhưng cậu cũng chưa bằng tớ? Tớ đã được làm vua rồi nghe!
- Thôi đi! Cậu chỉ nói trạng thôi!
- Tớ nói thật mà! Tuần trước tớ vô Ðại Nội đưa thư của trung đoàn trưởng cho ông Chủ tịch ủy ban tỉnh.
Tớ lẻn vô điện Cần Chánh, tót lên ngai vàng ngồi vắt chân chữ ngũ làm vua chơi.
- Rứa cậu có vuốt râu không?
- Hứ! Vuốt râu cái chi?
- Tớ đi xem hát bội, thấy vai vua ra là vuốt râu.
- Nhưng tớ làm cóc chi có râu?
- Vuốt giả đò ấy mà.
Hai đứa cùng cười rúc lên. Con ngựa phi nước kiệu đều đều. Con đường loang loáng những vũng nước mưa trôi dưới chân ngựa. Mừng bỗng nghe bạn vừa lắc lư đầu miệng vừa rì rầm ti tỉ cái gì, nghe không rõ. Em lay lay vai bạn, hỏi:
- Cậu hát à? Hát bài chi, hát to lên cho tớ hát cùng với.
- Tớ làm thơ.
- Làm thơ là làm cái chi?
- Cậu không biết thơ à? Bài thơ thường in trên các tờ báo, câu ngắn, câu dài, có vần với nhau, đọc lên nghe như câu hò chèo đò, câu hát ru em ấy mà.
- Rứa thì tớ biết rồi. Ở đội tớ có cậu Tư-dát học giỏi nhất, cũng biết làm thơ nghe! Cậu ấy đọc lên gì gì nghe hay lắm. Làm thơ có khó không cậu? Cậu học ai mà làm được thơ tài rứa?
- Hồi ở Mặt trận An Khê, có một anh nhà báo nhận tớ làm em nuôi, dạy tớ làm thơ. Anh ấy bị đạn đại bác Tây, chết mất rồi. Thơ anh ấy hay ghê lắm. Mỗi lần nghe anh ấy ngâm thơ là nước mắt tớ cứ chảy ra.
- Như lúc ăn ớt cay ấy à?
- Không phải. Như lúc về phép thăm mạ mà không được gặp mạ ấy.
- Rứa cái thơ cậu làm đã xong chưa? Ðọc lên cho tớ nghe với.
- Không phải cái thơ mà bài thơ. Cậu chẳng biết cóc chi hết! - Giọng Nghi trách bạn âu yếm - Mình làm bài thơ kể chuyện tụi mình tối nay. Tớ đọc thử cậu nghe có xuôn tai không nghe...
Nghi thả lỏng dây cương cho ngựa chạy chậm lại cất giọng ngâm nga:
Lóc cóc, lóc cóc cóc.
Có hai Vệ Quốc Quân
Cưỡi một con ngựa hồng
Bốn vó mềm như sắt.
Nhỏ hơn một con rồng...
Ngựa này xưa của vua.
Tên là Bảo Ðại ngốc.
Cách Mạng và bác Hồ.
Bắt vua xuống đi đất.
Còn ngựa lấy đem cho.
Hai cháu liên lạc nhóc.
Cưỡi phi về làng Phò.
Thăm mạ bán bún bò...
Lóc cóc, lóc cóc cóc.
Nghi ngâm thơ xong một lúc lâu mà không thấy bạn nói gì, khen, hoặc chê, cứ ngồi im thin thít sau lưng - Em sốt ruột quay đầu lại hỏi:
- Cậu thấy thơ tớ nghe có xuôi tai không ?
Mừng bồng gục đầu vào vai bạn, giọng run run:
- Mạ tớ bán bún bò mà cũng được cậu làm vào trong cái thơ... Cậu tốt quá!
Con Ca-rô-lin đã đưa hai chú bé liên lạc về đến đầu làng Phò. Trời xem chừng đã khuya lắm, có lẽ phải quá nửa đêm. Xóm làng tối hăm chín Tết năm đó như một người nửa thức nửa ngủ- Nhiều nhà cửa đóng im ỉm- Một vài nhà còn thấp thoáng ánh lửa. Trên đường cái làng thỉnh thoảng có người gồng gánh đi lại. Giữa cảnh tịch mịch, chốc chốc lại vang lên tiếng quát giật giọng- "Ai! Ðứng lại!" đó là tiếng hô của các anh chị dân quân tự vệ canh gác đầu các ngã đường. Phía thành phố súng vẫn nổ rền như mọi đêm. Nhưng ở đây nghe tiếng súng hiền lành hơn; không chí chát dữ tợn như ở ngoài Mặt trận. Chốc chốc từ một góc nào đó trong thành phố vọt lên trời một quả pháo hiệu đỏ lòm như một hòm than đậm lửa văng ra từ một bếp lò rèn khổng lồ.
- Nhà cậu ở đường mô? - Nghi ghìm cương lại hỏi:
- Cậu cứ đi thẳng, lúc nào nhìn cái giếng xây cạnh cây bồ đề thì quẹo qua trái một khúc là đến nơi.
- Cậu nhớ vô thăm mạ một phút rồi phải trở ra ngay để về cho kịp nghe.
Mừng ghé vào tai bạn thì thầm.
-Tớ lo quá cậu ạ. Chốc nữa gặp mạ e tớ không về được đơn vị thôi.
- Tại răng rứa? Mạ bắt cậu phải ở nhà à?.
Mừng không trả lời mà chỉ gật đầu. Dáng bộ em trở nên ủ rũ, buồn bã.
- Mạ có bắt thì cứ vùng ra mà đi, sợ chi? Cậu cứ nói là nếu mạ không cho trở về đơn vị thì bộ đội sẽ về đây bắt con đi ở tù. Chắc mạ phải sợ mà cho cậu đi.
- Nhưng chỉ sợ đến lúc thấy mạ thấy mạ nằm lăn ra giữa nhà đập đầu thìch thịch vào cột nhà rồi khóc như mưa như gió, e tớ thương mạ quá mà không đi được thôi cậu ạ.
Trời tối quá, không nhìn thấy mặt bạn, nhưng nghe giọng nói Nghi cũng đoán được lúc này bạn đang bối rối buồn khổ ghê gớm... Em liền cho ngựa dừng lại, lo lắng hỏi:
- Rứa cậu định ở lại với mạ chứ không trở về đơn vị nửa à?
- Không, không mô... Không đời mô- -. Cậu có cách chi giúp cho tớ với!
- Hai đứa ta nhảy xuống cho ngựa nghỉ lưng một tí rồi bàn coi có cách chi không?
Hai đứa xuống ngựa, dưới chân chúng lép nhép những bùn.
Mừng đứng nép vào bơ tre, khóc thút thít, Nghi cố moi óc nghĩ cách giúp bạn nhưng không nghĩ được cách gì. Chà, chuyện này rắc rối quá. Mừng bỗng cầm tay bạn lay lay, nói:
- Nghi này, hay là tớ chỉ nhà cho cậu, cậu vô thăm mạ giúp tớ. Cậu nói với mạ: Thằng Mừng của mạ vẫn còn sống. Nó đi Vệ Quốc Đoàn đánh Tây bên Mặt trận khu C. Nó đang mắc công tác trinh sát, liên lạc nên chưa về thăm mạ được. Nó xin mạ đừng giận nó mà tội nghiệp. Bữa mô rỗi việc nó sẽ xin phép cấp chi huy về thăm mạ...".
- Rứa còn cậu?
- Mình đứng ngoài đường giữ ngựa, chờ cậu ra..
Nghi một tay cầm cương ngựa, một tay nắm chặt tay bạn, giọng nghe chừng muốn khóc:
- Khổ cậu hè.-. Cậu có biết chữ không?
- Chưa. Hồi còn ở nhà mình có đi học bình dân học vụ sắp đọc được viết được thì mạ bị đau, lên cơn suyễn nặng. Mình phải bỏ học, tối tối phải rang muối chườm ngực mạ. Rứa là mình quên hết mặt chữ...
- Tiếc quá hè. Nếu biết chữ cậu viết cho mạ cái thư tớ mang vô cho mạ, chắc mạ sẽ càng tin hơn, mừng hơn.
Mừng sực nhớ gói đồ đeo lủng lẳng bên vai, liền cởi ra đặt vào tay bạn:
Mình có cái gói ni nhờ cậu đưa cho mạ..
- Gói chi ri? - Nghi vừa hỏi vừa bóp bóp cái gói- - Mấy thứ lặt vặt của anh Lượm với anh Tư-dát góp lại gửi về biếu mạ. Chừ mình đưa cậu đến trước ngõ nhà kẻo sợ trời tối quá cậu tìm không ra.
Nhưng lỡ cậu trông thấy mạ, cậu thương quá khóc to lên mạ nghe tiếng thì nguy!
- Tớ có khóc cũng phải bặm môi lại, cậu đừng lo. Ở đội đêm tớ nằm ngủ với thằng Vệ, thằng Quỳnh, nhớ mạ quá tớ khóc mà chẳng đứa mô nghe tiếng cả. Có tài không?
Mừng đi trước dẫn đường, Nghi dắt ngựa theo sau, đang đi ngoằn ngoèo trong con đường kiệt tối ngửa bàn tay không thấy, Mừng bỗng đứng sững lại, nói như bị hụt hơi.
- Đến nhà rồi... đó, cái nhà trước cổng có cây sầu đâu (Cây xoan) cao cao tê. Trong nhà không thấy có đèn lửa chi, chắc mạ với mệ đi ngủ rồi.
Nghi đưa dây cương ngựa cho bạn, giục:
- Cậu dắt ngựa quay lại đứng chờ tớ ở chỗ lúc nãy nghe.
- Cậu cho tớ đứng ngoài hàng rào, chờ lúc mạ ra, ngó mặt mạ một tí tì ti thôi. Mạ ra đến giữa sân, tớ dắt ngựa chạy lui cũng còn kịp...
Nghi ứa nước mắt thương bạn. Em đưa tay tìm tay bạn trong bóng tối, siết chặt.
- Úi chao, răng tay cậu run dữ ri? Hay cậu đau?
- Không.. - Tại tớ ăn có một cái chân gà -.. - Mừng thì thào qua nước mắt.
- Mạ dặn ăn chân gà phải ăn cả hai chân. ăn một chân thì mắc bệnh run tay run chân. Bữa đó tớ mới ăn một chân thì gặp thằng Thúi bị dì ghẻ đập đuổi ra đường. Tớ thương quá cho nó một chân, chừ mới khổ ri.
Hai đứa dắt nhau đi đến trước cổng ngôi nhà có cây sầu đâu.
- Có ai trong nhà ra cho tui hỏi nhờ một chút!
Nghi gọi to.
Gọi hai, ba lần thì trong nhà có tiếng hỏi vọng ra:
- Ai kêu chi ngoài đó rứa?
- Dạ em! Em ở bộ đội hỏi thím Niệm bán bún bò ở Bao Vinh tản cư về đây. Không biết thím có nhà không?
Trong nhà lóe sáng ánh đèn- Tiếng cánh cửa kẹt mở. Một người đàn bà mặc áo cộc, trùm khăn, tay cầm cây đèn dầu hỏa, một tay chị khum khum che gió, bước ra sân.
Mừng rúc đầu vào cái lỗ trống hàng rào bông cẩn, cố mở to mắt nhìn vào sân- Con ngựa dẫm vó lộp cộp ngay phía sau lưng.
Vừa trông người đàn bà bước ra, Mừng nức nở thì thào gọi qua lỗ trống:
- Mạ? Mạ! Con đây mạ!
Nghi khẽ suỵt:
- Chạy ngay đi! Mạ sắp ra rồi đó? - Rồi em bước nhanh qua cổng đón gặp người đàn bà trước sân.
Mừng như bị ai đuổi, túm chặt dây cương, lôi con ngựa chạy biến vào khoảng bóng tối dầy đặc trước mặt.
Em vừa chạy vừa khóc.
Ra đến chỗ bụi tre lúc nãy, em dừng lại, nép sát vào một bên lề- Em đứng chờ một lúc rất lâu vẫn không thấy Nghi trở ra. Ruột gan em cồn cào như lửa đốt. Em đoán chắc lúc ni Nghi đang ngồi nói chuyện với mạ. Mạ rót nước cho Nghi uống, lấy bánh tét, bánh ít cho ăn.
Còn mình là con của mạ thì phải đứng dưới bụi tre dọc đường' "Úi chao, con cực quá mạ ơi" Ý nghĩ đó làm cho Mừng khóc òa lên thành tiếng.
Em thấy mình không còn đủ sức để đứng chờ thêm nữa.
Thôi, mình cứ liều chạy vô thăm mạ. Nếu mạ có bắt ở lại cũng đành chịu. Em dắt ngựa, cúi đầu xăm xăm bước. Mới bước được mấy bước đã nghe tiếng Nghi.
- Mừng ơi! Mừng!
- Tớ đây?- Mừng chạy lại đón bạn, hỏi không kịp thở.
- Mạ hỏi cậu chuyện chi? Cậu có nói như tớ dặn không?
- Có có hết! Chút nữa tớ sẽ kể cho nghe. Chừ phải lên ngựa phi thật nhanh không thì về đơn vị trễ mất.
Hai đứa trèo lên lưng ngựa. Nghi ra roi, cho ngựa phi mỗi lúc một nhanh.
- Té ra mạ đã biết chuyện cậu còn sống, đang ở Vệ Quốc Ðoàn. Mạ kể là cách đây hơn nửa tháng, có một anh bộ đội tên là... anh chi hè? Anh So? - đúng rồi, anh So. Anh tìm vô nhà gặp mạ, kể với mạ anh ấy gặp cậu đang theo đội đi qua bên Mặt trận, rồi đưa cho mạ bó lá thuốc suyễn của cậu gửi. Mạ vô buồng lấy bó lá ra cho tớ coi. Mạ khen lá hay lắm, mới sắc uống có hai chén mà bệnh đã đỡ nhiều- Tớ nói với mạ y như lời cậu dặn. Mạ khóc ghê quá làm tớ cũng khóc theo luôn. Mạ dặn nói lại với cậu mạ không giận chuyện con trốn nhà đi Vệ Quốc Ðoàn mô. Nghe tin con còn sống mà lại nên người, mạ mừng lắm. Khi mô rảnh rang công việc của Mặt trận thì gắng xin phép cấp chỉ huy về nhà cho mạ thăm...
- Mạ còn dặn chi nữa không?
- Có mạ còn dặn là làm việc chi cũng phải làm cho chăm chỉ, đừng để cho người ta chê bai mình. Với lại không được đầu trần mà đi dang nắng, lỡ cảm đau thì mạ khổ lắm.
- Lúc tớ ở nhà mạ cũng hay dặn như rứa...
- Mạ ngó bộ hiền quá cậu hí - Mạ cứ ôm chặt lấy tớ mà khóc suốt- Nước mắt mạ rớt xuống mặt tớ nóng phỏng...
Nghi bỗng đưa tay lên sờ má, tưởng như nước mắt của ngươi mẹ vẫn còn nóng ướt trên hai má em.
Gần năm giờ sáng, Nghi đã đưa được Mừng về đến khu vực trường Kỹ Nghệ.
4.
Trưa ngày mồng 6 tháng 2 năm 1947, quân tiếp viện của giặc đã chọc thủng phòng tuyến sông Nong.
Cũng trưa hôm đó các em trong đội Thiếu niên trinh sát đang chiến đấu ở Huế cùng với nhiều đơn vị khác, được lệnh chuẩn bị rút khỏi thành phố. Ngoài cánh quân lớn tiến dọc theo đường quốc lộ số Một, bọn giặc tiếp viện đã cho đổ bộ thêm nhiều cánh quân dọc bờ biển Phú Vang, Quảng Ðiền, hình thành những gọng kìm với ý đồ bao vây tiêu diệt quân ta.
Tờ mờ sáng trời đổ mưa tầm tã. đến chiều mưa có tạnh bớt, nhưng gió lạnh thổi hun hút không ngớt. Mặt sông Hương dăn dúm, sóng ì oạp vỗ bờ.
Khắp thành phố tiếng súng của bọn giặc bị vây hãm nổ ran ran. Phấn chấn vì tiếng súng giải vây mỗi lúc một thêm gần, chúng chui hết ra khỏi những hang ổ bấy lâu ẩn náu, liên tiếp mở những trận phản kích điên cuồng vào những đơn vị quân số ít ỏi của quân ta Pháo hiệu xanh đỏ chúng bắn lên tới tấp từ bốn phía, như những lằn roi bầm tím quất lên bầu trời thành phố u ám mây chì.
Một giờ ba mươi chiều, đội trưởng Lê Thắng dẫn các em từ Mặt trận khu C, vượt cầu Bạch Hổ, trở về bên này sông. Chỉ vắng hơn chục em mà hàng ngũ đội thưa hẳn đi.
Mới chưa đầy hai chục ngày tham gia chiến đấu mà các em trông cũng khác lạ hẳn so với cái hôm náo nức vượt sông sang Mặt trận- Cuộc sống căng thẳng, hiểm nghèo và nỗi vất vả kinh người của chiến trận đã in lên gương mặt và dáng dấp của các em sâu đậm hơn gấp bao nhiêu lần so với người lớn.
Em nào cũng đen nhẻm, gầy sắt, ánh mắt mệt mỏi vì đói ngủ, vì phải làm việc quá sức. Áo quần, ba lô, túi dết, ướt sũng nước mưa, lấm láp bùn đất chiến hào. Ðồ đạc trong ba lô túi dết có vợi đi, nhưng trên thắt lưng em nào cũng thêm lỉnh kỉnh nào lựu đạn, dao găm, lưỡi lê...
Ðặc biệt trên gương mặt trẻ thơ của các em đều hằn lên khá rõ cái vẻ suy nghĩ lo toan thường thấy trên gương mặt những người phải đảm đương những trách nhiệm nặng nề và nghiêm trọng- tình nguyện gắn bó đời mình với vận mệnh và sự sống còn của Nhân Dân và Ðất Nước.
Tính nết các em cũng thay đổi nhiều như vẻ mặt.
Không một tiếng cười đùa, không một lời trêu chọc.
Chúng đi lặng lẽ, lầm lũi, đầu cúi thấp nghiêng nghiêng để tránh làn mưa bay chênh chếch như kim châm tạt vào mặt. Thỉnh thoảng có em trượt chân vồ ếch, nhưng chẳng có bạn nào cười, và em vồ ếch lồm cồm đứng dậy, sửa sang cái gì đó trên người rồi tiếp tục lặng lẽ chạy đuổi theo các bạn. Ngay cả Tư-dát, vốn tính liến láu suốt ngày cũng chẳng thấy mở miệng.
Nỗi uất ức đau buồn vì sắp bỏ lại thành phố quê hương cho quân giặc, cũng nặng trĩu trong tim các chiến sĩ nhỏ tuổi này không kém gì với các chiến sĩ lớn tuổi khác, bởi vậy mà các em chẳng còn lòng dạ nào để cười đùa.
Hiền đi cuối đội, đầu đội mũ ca lô của Vệ-to-đầu để lại đeo tòng teng cái ống nhòm trước ngực. Từ hôm Vịnh-sưa hy sinh, gần như không một phút nào cái ống nhòm rời khỏi ngực em. Em quả quyết nói với các bạn- "Mỗi lần đưa ống nhòm lên mắt, mình đều thấy Vịnh-sưa đứng trong đó, trần truồng, buộc ngang người vào cột thép thu lôi, đang phất phất cờ tín hiệu đánh "móc" về cho đài quan sát".
Tư-dát xin bạn cho nhìn thử. Ðưa ống nhòm lên mắt, vẻ mặt rất chăm chú, sau một lát Tư-dát nghiêm trang gật đầu.
- Ðúng là cậu Vịnh-sưa đang đứng trong đó thật các cậu ạ.
Vẻ mặt và giọng nói của Tư- dát làm nhiều đứa trong đội dựng cả tóc gáy.
5.
Về đến cửa Chánh Tây, đội trưởng cho đội dừng lại.
Khắp cả khu vực cửa Chánh Tây, người đi lại nhộn nhạo: Vệ Quốc Ðoàn, tự vệ. cán bộ các cơ quan tỉnh. Tất cả đều ướt át lấm láp, mệt mỏi. Từng tốp, từng tốp ngồi phệt xuống bờ cỏ trát đầy bùn, bên các gốc cây, hút thuốc, uống nước, chuyện trò nho nhỏ... Đội trưởng cho đội tập họp dưới bóng một cây mù u rồi chạy đi tìm cơ quan chỉ huy cuộc rút lui- Lát sau anh chạy về, vỗ vỗ tay nói:
- Mỗi tổ cử ngay một em theo anh vào trạm tiếp lương, lãnh bánh tét ăn đường.
Nghe nói bánh tét, nét mặt cả đội tươi tỉnh lên một chút.
Bánh tét lãnh về, các tổ khác mỗi đứa được một đòn, riêng tổ Tư-dát, do nó đi lãnh, mỗi đứa được hai đòn. Cả đội nhao nhao hỏi:
Cậu làm răng mà tài dữ rứa?
Tư-dát đắc chí cười hề hề.
Tớ ba hoa thiên địa với mấy chị phát bánh một hồi làm các chị cứ ôm bụng là cười, rồi quăng luôn cho tớ thêm ba đòn nữa - "Ði đi ông tướng! - Các chị nói, - chú mà còn đứng đây thì các chị cười đến đứt ruột mà chết thôi!". Lần đầu tiên cả đội thấy cái miệng liến láu của Tư-dát được việc.
Ba giờ chiều, có tin quân giặc đã tiến đến sân bay Phú Bài. Lệnh trên: "Tất cả phải cấp tốc rời khỏi thành phố."
Trước lúc xuất phát, đội trưởng tập hợp đội thành hàng ngũ chỉnh tề. Anh báo cho cả đội biết: "Sẽ phải hành quân suốt cả đêm hôm nay. Chúng ta sẽ rút lên chiến khu. Các em soát lại ba lô đồ đạc, xem có thứ gì không cần thiết thì vứt bỏ lại để đi đường xa đỡ nặng."
Cả đội yên lặng nhìn anh. Như đoán biết các chiến sĩ nhỏ bé của anh trong giờ phút nghiêm trọng này, đang nghĩ gì và đang chờ đợi cái gì, anh bước ra chính giữa hàng quân, hắng giọng nói:
- Các em! Chúng ta phải rút khỏi thành phố, nhưng không phải chúng ta chịu thua chúng! Không! - Anh quắc mắt chặt mạnh bàn tay vào không khí, nét mặt đanh hẳn lại. Theo chủ trương của Hồ Chủ Tịch và của Chính Phủ, cuộc kháng chiến của chúng ta được chia ra làm ba giai đoạn. Giai đoạn thứ nhất: phòng ngự, giai đoạn thứ hai: cầm cự, giai đoạn thứ ba: tổng phản công. Hiện nay chúng ta đang bắt đầu giai đoạn thứ nhất- Thế giặc lúc này đang còn mạnh, chúng ta tạm thời rút khỏi thành phố, lên vùng núi cao thành lập chiến khu. Chúng ta vừa củng cố xây dựng lực lượng vừa tổ chức đánh giặc. Lúc đầu đánh nhỏ, dần dần ta đánh lớn. Khi thế giặc đã suy yếu, bấy giờ ta sẽ chuyển sang giai đoạn tổng phản công. Chúng ta sẽ dùng đại quân đánh chiếm lại thành phố, làng mạc quê hương, giải phóng hoàn toàn đất nước, giành lại hoàn toàn độc lập. Bấy giờ tất cả chúng ta sẽ được sống cuộc sống sung sướng hạnh phúc như có lần anh đã nói với các em.
Những lời giải thích tình hình kháng chiến hết sức đơn giản đó của đội trưởng đã làm cho gương mặt ỉu xìu của cả đội vụt rạng rỡ phấn chấn hẳn lên. Thật ra các chiến sĩ nhỏ bé này đâu có cần đến những lời giải thích thật thuyết phục với lý lẽ thật đích đáng, điều mà lúc này chúng cần là được người chúng hoàn toàn tin cậy, khẳng định niềm tin. Khẳng định chiến thắng. Mà khẳng định không phải bằng lý lẽ mà bằng thái độ, tình cảm. Bởi một lẽ, các em yêu Cách Mạng, yêu TỔ QUỐC, yêu những lý tưởng cao đẹp của cuộc sống với tình yêu thơ ngây gần gũi như tình yêu cha, yêu mẹ, yêu ông bà... Lẫn trong nỗi đau khổ, uất ức chân chính của người chiến sĩ khi cảm thấy mình phải tạm thời thua giặc có cả lòng tự ái của trẻ con khi bị thua một keo vật, một trận bóng đá...
Hòa-đen hôm về tập trung với đội, dọc đường ghé vào quán mua viên kẹo bi ngậm chơi. Trong quán, ngoài bà bán hàng còn có hai ông khách mặc áo dài đen quần lụa xá xị trắng, đang ngồi sát vách hút thuốc lá Cẩm Lệ.
Nhìn qua cách ăn mặc, Hòa-đen cũng đoán biết hai ông này thuộc loại giầu có hoặc làm quan ngày trước. Hai ông vừa hút thuốc vừa nói chuyện thời thế. Lúc đầu em chẳng để ý câu chuyện của hai ông. Em còn mải mê với viên kẹo bi của bà bán hàng vừa trao cho. Chà, viên kẹo dinh dính trong như thủy tinh, có điểm những vằn xanh, đỏ đẹp mê người. Em thận trọng đút viên kẹo vào mồm, ngậm vào một bên má để mút dần. Chất ngọt mát cứ lan dần ở đầu lưỡi. Ðịnh bước ra khỏi quán em bỗng nghe một trong hai ông khách nói:
- Cà cuống chết đến đít vẫn còn cay? Tây họ đuổi cho chạy ré còi vẫn còn nói cứng. Những là toàn dân kháng chiến, toàn diện kháng chiến, những là trường kỳ kháng chiến nhất định thắng lợi! Thắng lợi chạy dài!
Ông khách thứ hai có hàng ria mép đen nhánh, vắt vẻo điếu thuốc lá sâu kèn trên cặp môi thâm sì cười khẩy tiếp lời:
- Bác không nhớ ngay cái bữa đầu tiên nổ súng tôi đã nói ngay: "Việt Minh răng cũng thua Tây". Ðời thuở mô mác lào đâm thủng xe tăng!
Hòa-đen đứng khựng lại ở ngưỡng cửa. Em đỏ mày say mặt vì tức, còn tức hơn cả cái hồi còn ở nhà, khi có đứa réo tên cha mẹ ra mà chửi. Em muốn cãi lại hai cái lão già mặc áo đen ni để bênh vực cho kháng chiến, cho Việt Minh, cho Vệ Quốc Ðoàn. Nhưng em không biết phải cãi như thế nào. Ðúng là quân ta phải rút lui ở Mặt trận Ruồi thật. Nhưng... nhưng... em giận run lên vì cảm thấy mình bất lực, vì bị xúc phạm một cách cay đắng. Viên kẹo bi vừa ngậm, mới suýt được có hai cú nước bọt, ngọt ngon đến chết được, thế mà em nhổ phăng ngay xuống đất, em quay lại nhìn hai ông khách, trợn mắt chửi:
- Tổ cha bay? Hai đứa bay là đồ Việt gian?
Rồi ù té chạy- ông khách có ria mép chụp chiếc guốc đang xỏ ở chân, nhảy chồm ra cửa ném theo.
Thằng cha ném rất bợm, suýt nữa trúng đầu em. Em vừa chạy vừa chổng mông về phía ông khách, vỗ bồm bộp. gào to:
- Tổ cha hai thằng Việt gian có ăn đít tao đây!
Chửi, vỗ đít mà cơn giận vẫn không sao nguôi được.
Càng nghĩ đến câu chuyện của hai lão già mặc áo dài đen, máu trong người em càng sôi lên. Em bặm môi, nghiến răng, trợn mắt, quát to lên một mình:
- Tao mà có khẩu súng, tao nã cho hai thằng bay hai phát vô giữa lỗ miệng ngay!...
Lúc này đứng trong hàng, Hòa-đen như nuốt từng lời giải thích của đội trưởng. Em chặc lưỡi xuýt xoa tiếc mãi chưa được đội trưởng giảng cho nghe về ba giai đoạn kháng chiến như bữa ni. Mình sẽ giảng cho hai cái thằng già mặc áo đen dài phải cứng họng, trắng mất ra. Mình mô có thèm chửi cho nhớp miệng, vỗ đít cho nhớp tay. Tư-dát quay sang nói với Lượm đứng bên cạnh, giọng buồn buồn:
- Nếu rút lên chiến khu mà đánh không thắng thì làm răng mi hè? Chắc tụi mình phải ở luôn trên đó, làm lấy nhà mà ở, trồng lấy khoai sắn mà ăn, rồi đóng khố để tóc dài như người thượng cà răng căng tai. Có chết thì chôn luôn trên đó.
Lượm sửa lại hai quả lựu đạn mỏ vịt đeo trước bụng, nói giọng lộ vẻ đau đớn.
Theo tao thà ở luôn trên núi, ăn sắn đeo gùi đóng khố, chết thì chôn luôn trên đó, còn hơn là phải về ở chung ở lộn với ba thằng Tây, ba thằng Việt gian, ngày ngày phải ngó tụi hắn đi lại nghênh ngang trên đường phố mình như ngày chưa Cách Mạng!
- Ðúng đó anh Lượm ạ. Em cũng nghĩ như anh rứa.
- Mừng đứng sau lưng Lượm, bật lên nói. Em a, em thà chết đói chứ không thèm ăn một hột cơm của tụi Tây, tụi Việt gian!
Mừng níu tay Tư-dát hỏi:
- Anh Tư này, ba giai đoạn cái chi chi anh hè?
Tư-dát giọng chê trách:
- Phòng ngự, cầm cự, tổng phản công! Có rứa mà không nhớ. Tối bụng tối dạ như mi mà đi học thì cứ gọi lấy bồ mà đựng trứng vịt lộn.
Mừng không để ý đến lời chê trách của Tư-dát. Em còn mải nhẩm đi nhẩm lại cho nhớ: "Phòng ngự, cầm cự, tổng phản công. Phòng ngự, cầm cự, tổng phản công..." Tự nhiên em rớm rớm nước mắt nghĩ thầm:
"Chao, ước chi chừ được gặp mạ, nói cho mạ nghe cái ba giai đoạn, để mạ khỏi lo khỏi buồn mà bệnh thêm nặng. Mạ ơi, Vệ Quốc Đoàn ta răng cũng đánh đuổi được tụi Tây, nước mình răng cũng được độc lập, mạ răng cũng được Chính phủ cho vô nhà thương to nhất, nhiều thứ thuốc quý nhất chữa cho mạ lành bệnh suyễn... Mạ đừng lo chi cả mạ ơi! ".
6.
Các đơn vị lũ lượt lên đường rời khỏi thành phố. Một hồi còi dài. Ðội Thiếu niên trinh sát nối theo sau một đơn vị Vệ Quốc Đoàn, rời khỏi cửa Chánh Tây, theo con đường số Một, đi về phía cầu An Lỗ.
Chốc chốc các em ngoái đầu lại, cặp mắt buồn rười rượi, thương tiếc xót xa- Một ngọn lửa rất to bùng lên từ phía cầu Bạch Hổ. Quân ta đang rưới xăng đốt cầu.
Lúc này mưa đã bớt nặng hạt và chuyển thành một màn bụi mờ dày đặc. Gió lạnh thổi bời bời. thành phố xa dần, chìm khuất sau màn mưa. Chốc chốc trong cái biển bụi mưa đặc sệt đó lại rộ lên những tràng súng dài ằng ặc. Tiếng súng như muốn nhắc cho đoàn quân rút lui biết: "Huế ở phía ni, Huế ở phía ni!" Xa xa, phía nam thành phố, tiếng đại bác giặc nổ rền như sấm đất.
Tư-dát mải ngoái đầu nhìn Huế chân vấp phải hòn đá, kêu "Ối!" Mặt em nhăn nhó xuýt xoa, nhắc bàn chân đau lên nhảy lò cò một quãng:
- Tớ vấp sứt mất cái móng chân rồi các cậu ơi' - Em rên rỉ.
Bồng cúi lượm một hòn đá, ném ngược trở lại căm tức chửi:
- Mả cha ba thằng Tây? Lúc ni trong các vị trí chắc cha con giòng giống tụi hắn đang ôm nhau mà nhảy đầm với hát xì lô, xì la điếc cả đít?
Hình ảnh Bồng bất ngờ gợi lên đó làm khơi ngòi giận đang âm ỉ trong lòng cả đội. Các em cùng nhao lên thi nhau tìm hết lời độc địa để nguyền rủa tui thực dân cướp nước.
Ôi! quả thật không gì làm cho người chiến sĩ đau đớn uất giận hơn khi hình dung quân thù đang ôm nhau nhảy múa trên đất đai quê hương mình!
Tư-dát chân vẫn nhảy lò cò, nói như muốn an ủi các bạn.
- Ðược, cứ để cho tụi hắn ôm nhau nhảy đầm với hát xì lô xì la. đến ngày tổng phản công, tụi ta về chiếm lại Huế. Tụi ta sẽ dùng súng cắm lưỡi lê lùa tuốt luốt cả Tây đầm, lớn, nhỏ, già, trẻ ra sân vận động Ðất Mới Xung quanh sân vận động, tụi ta sẽ bố trí toàn F.M, Hốt kít, Chiêu Hòa hai nòng, rồi ra lệnh cho cha con tụi hắn phải ôm nhau mà nhảy đầm với hát xì lô xi la đúng như hôm ni. Đứa mô không chịu nhảy, chịu hát, ta kéo cổ ra, tạch tạch "phơ" luôn? Rồi các cậu coi tụi hắn vừa nhảy vừa hát vừa đái hết cả ra quần, ra váy làm thối inh cả sân vận động!
Cái viễn cảnh trả thù giặc mà Tư-dát vừa tưởng tượng ra đó làm cho cả đội nguôi nguôi bớt giận. Chúng tranh nhau bàn tán thêm bớt cách thức tổ chức trả thù của Tư-dát.
Ra đến cầu An Lỗ, người chạy giặc ùn ùn càng đông. Ngoài bộ đội, cán bộ, còn cơ man nào là đồng bào. Kẻ gánh người khiêng, người dắt xe đạp, người đẩy xe bò, người dắt con, người bế cháu... ồn ào nhốn nháo như vỡ chợ. Nhiều đoạn đường bị tắc nghẽn không sao nhích lên được. Suốt dọc đường đồng bào vứt lại không biết bao nhiêu đồ lề, của nả mà chẳng ai buồn nhặt. Ngang qua Hương Cần cái làng có quýt ngon nổi tiếng, đội đuổi kịp một đơn vị súng cối tám mốt ly... Anh Vệ Quốc Quân vác cái nòng súng đi giữa hàng quân cao vượt lên. Anh vác cái nòng thép to như cột nhà mà coi bộ nhẹ không. Ðầu anh đội mũ sắt, quần xắn đến bắp vế, hai cẳng chân to và đen không khác chi hai cái nòng súng cối tám mốt. Trông bộ anh quen quen- Mừng nhận ra anh đầu tiên. Nó mừng rỡ chạy vượt lên gọi to:
- Anh So? Anh So?
Anh đổi vai vác nòng súng, rồi quay lại, nhướn mày nhìn bọn trẻ. Anh mở rộng miệng cười hồn hậu phô hết cả hai hàm răng to, vàng khè khói thuốc lá, cả đội liền nhận ra chính là cái anh công binh phụ trách bom cầu Bạch Hổ hôm nào.
Ðội trưởng bước lại, bắt tay anh:
- Đồng chí lại chuyển qua moóc-chê tám mốt à? Răng không ở công binh nữa?
Anh So cười hề hề:
- Trời sinh ra tui là cốt để ăn no vác nặng. Cấp trên thấy tui sức vóc ra ri mà giao cho cầm sợi dây bom quá nhẹ, uổng! Các ông mới điều tui qua để vác cái cột nhà sắt ni đây, đồng chí ạ. Anh đưa bàn tay hộ pháp vỗ đánh bộp cái vào nòng súng moóc-chê.
Tư-dát đứng gần đó làm bộ hớt hải kéo.tay anh:
- Ối, anh vỗ nhè nhẹ chớ vỗ mạnh rứa lỡ bẹp mất nòng súng, Tây đến lấy chi mà bắn anh?
Chú đưa tay sờ vào chỗ nòng súng anh vừa vỗ miệng xuýt xoa:.
- Chết cha rồi, hơi bẹp, hơi bẹp!
Anh trung đổi trưởng moóc-chê cho trung đội nghỉ giải lao mười phút. Ðội trưởng cũng thổi còi cho đội lánh sang bên đường nghỉ cùng với các anh moóc-chê. Mừng từ nãy tới giờ vẫn đứng sát sau lưng anh So. Em ngập ngà ngập ngừng muốn hỏi anh cái gì nhưng thấy anh còn mải nói chuyện nên lại thôi. Anh So sực nhớ, quay lại:
- Mừng đó em? Chút nữa thì anh quên mất. Cách đây nửa tháng, anh có công tác phải về Bao Vinh. Ngang qua nhà em anh tranh thủ tạt vô, thì may cách chi, đúng lúc mạ em đang sửa soạn đồ lề gánh gióng để đi tản cư. Anh liền kể với mạ chuyện anh gặp em: "Thằng con chị nó đi Vệ Quốc Ðoàn ở Đội Thiếu niên trinh sát Trung đoàn Trần Cao Vân coi bộ oách lắm".
Nhưng mạ em nhất định không tin, cứ khăng khăng nói:
"Chú thương chị, bày đặt chuyện ra mà nói cho chị vui lòng, chứ thằng con chị còn sống làm răng được chú ơi? Từ ngày cháu mất đi không đêm mô chị không nằm mê thấy cháu về ngồi dưới chân giường chị, ôm mặt khóc tỉ tê: "Con chết oan uổng lắm mạ nớ..." Anh chưa biết làm cách răng cho mạ em tin thì vừa vặn sực nhớ đến bó lá tầm gửi em gửi anh dạo nọ. Rứa là anh mở ba lô lấy ra đưa luôn cho mạ em: "Chị không tin thì đây, lá tầm gửi thằng con chị nó nhờ tui mang về cho mạ nó, để mạ nó sắc uống lành bệnh suyễn kinh niên đây. Nó còn dặn chị chặt nhỏ lá ra, sao vàng, hạ thổ, đổ năm bát nước sắc lấy một. Uống bốn năm lần là khỏi bệnh. Chị biết không nó khoe với tui là phải trèo lên đọt ngọn cây bút bút cao nhất Huế vào giữa lúc nửa đêm để hái nó đó. Công trình hắn ra rứa nên tui phải giữ cái bó lá nớ còn hơn cả thần giữ của. Chị nghĩ coi, nếu con chị nó không nói thì làm răng tui biết được chị mắc bệnh suyễn kinh niên? Với lại làm răng tui có sẵn lá tầm gửi trong ba lô để đưa ra ngay cho chị?" Lúc đó mạ em mới cầm lấy bó lá, ngó trân trân một lúc, mặt coi bộ dại hẳn đi. Anh sợ quá tưởng mạ em mừng quá hóa điên. Mạ em kêu lên một tiếng làm anh rúng cả tim : "Úi chao ôi! - Ðúng là thằng con tui nó còn sống thiệt rồi chú ơi" Rồi mạ ôm rịt bó lá vô ngực vừa khóc vừa cười và nói: "Ai ngờ con còn sống con ơi? Rứa mà con làm mạ khóc hết nước mắt nước mũi..."
Mạ kể với anh: "Hồi còn ở nhà hễ mỗi lần tui lên cơn hen, là cháu của chú ngồi bên tui suốt ngày suốt đêm chườm ngực cho tui. Rồi lần mô hắn cũng nói: "Mạ ạ, con nghe cụ Ba Trà nói thứ lá cây tầm gửi đậu trên ngọn cây bút bút thật cao, trèo lên đúng lúc nửa đêm mà hái về, phơi khô, sao vàng rồi sắc uống, thì bệnh suyễn nặng mấy cũng lành. Con ước chi có cây bút bút ngọn cao thấu trời, đậu thật nhiều tầm gửi, để con trèo lên hái về sắc cho mạ uống. Cháu của chú nó hiếu nghĩa như rứa đó chú nớ..." rồi mạ em lục gánh, lôi trong bị quần áo ra một bộ áo quần của em còn mới tinh, quần sóc xanh với áo sơ mi trắng cụt tay. Ðưa bộ áo quần cho anh, mạ nói: "Bộ áo quần ni chị may cho cháu nhưng cháu chưa kịp mặc. Mấy lần cháu nó đòi mặc chị lại không cho, nói để dành đến Tết mặc, mình con nhà nghèo, ăn mặc tùng tiệm răng xong thì thôi... Hôm chị mời thầy pháp làm lễ cầu hồn cho cháu chị định đốt về dưới đó cho cháu nó mặc. Nhưng thầy pháp nói ma chỉ biết mặc quần áo giấy thôi. Rứa là chị phải thuê thợ mã dán một bộ quần áo giấy giống in như bộ ni, đốt cho cháu... Chừ may mắn được gặp chú đây, chị muốn nhờ chú đưa giúp cho cháu, nói với cháu giúp chị: "Biết con còn sống, theo Vệ Quốc Ðoàn mạ mừng lắm, mạ không giận con mô. Con phải cố gắng theo kịp bầu bạn, anh em, Vệ Quốc Ðoàn giao cho việc chi phải làm đến nơi đến chốn, phải chăm chỉ giỏi giang. Với lại con nhớ đừng đi dang nắng nhiều mà phải cảm thì khổ mạ..."
Anh nói với mạ em: "Chuyến ni về chưa chắc tui đã gặp lại được nó. Tôi sợ mang theo mà làm mất của cháu thì tội cháu lắm. Chị cứ giữ lấy, răng rồi cũng có bữa hắn được cấp trên cho về phép thăm chị thôi..." Kể đến đó anh tắc lưỡi: "Tiếc quá, biết rứa hôm đó anh mang bộ áo quần đi cho xong. có phải chừ em được mặc áo mới rồi không?" Nghe chuyện mạ, Mừng cơ hồ ngồi không vững nữa. Bàn tay nhỏ bé, đen đũi, các ngón tay bị móp vì dầm lạnh, cứ bíu chặt lấy vai áo anh, như sợ ngã. Em úp mặt vào ngực anh, nước mắt em thấm qua áo anh, nóng bỏng.
Và lạ lùng chưa, cả đội và cả các anh trong trung đội moóc-chê, mắt người nào cũng đỏ hoe.
Chiều hôm sau, đội rút đến cầu Hiền Sĩ. Có tin quân giặc đã tràn vào thành phố.
Đi bộ một ngày một đêm, bàn chân đứa nào cũng rộp phồng. đây là lần đầu tiên trong đời các em phải chuyến đi bộ xa đến thế. Nhiều em phải cởi cả áo, cả quần dài, xé ra bọc bàn chân mới bước nổi. Đội trưởng đi giày săng- đá không bít tất, hai bàn chân anh cũng rộp phồng, nhưng nhất định anh không cởi giày. Phải lội qua nhiều quãng đường ngập nước mưa nên thỉnh thoảng anh lại nằm dài xuống đất, giơ ngược hai chân lên trời để dốc nước trong giày ra. Các em gọi đùa "Ðội trưởng tập xiếc!" Nhắc đến xiếc, cả đội lại nhớ đến những bạn hiện vắng mặt: Vệ-to-đầu, Lai, Du, Nghĩa, Ðoàn, Trà, Tề. Từ hôm các bạn rời Huế theo các đơn vị bổ sung cho Mặt trận phía Nam, không em nào có tin tức gì về. Hiện lúc này các bạn đang ở đâu? Có còn đầy đủ cả không? Có bạn nào bị thương hay hy sinh? Trưa hôm qua, các em gặp một đơn vị thuộc tiểu đoàn Mười tám, vừa từ trong đó rút ra. Các anh kể: "Trong trận kịch chiến ở đèo Mũi Né, có một chú liên lạc không rõ ở đơn vị nào, trạc tuổi các em, đã trúng đạn hy sinh. Chú ta chết mà mặt cứ tươi rói, không ai dám nhìn lâu, đau ruột quá! vì phải rút lui gấp nên không mang chú ta theo được, phải dùng lưỡi lê đào huyệt chôn trên đỉnh đèo. Trước khi chôn, các anh đã cẩn thận lấy cái áo súng khẩu đại liên Hốc-kít bọc xác. Chú ta nằm vừa vặn cái áo súng..." Một anh trong đơn vị này nghe xong câu chuyện đã trầm ngâm kết luận: "Rứa đó các em ạ. đời chiến sĩ Vệ Quốc chúng ta không phải là da ngựa bọc thây mà áo súng bọc thây? Cuộc chiến đấu của chúng ta hôm nay dữ dội và quyết liệt hơn xưa nhiều lắm".
Không hiểu sao cả đội em nào cũng nghĩ chú liên lạc "áo súng bọc thây" đó có thể là Vệ-to-đầu. Cả đội đều biết đứa thân nhất với Vệ là Hiền. Hai đứa đã nhận nhau làm anh em kết nghĩa. Chúng hẹn nhau khi mô đánh Tây xong sẽ về ở với nhau. Cùng làm cùng ăn, cùng sống cùng chết.
Bởi vậy em nào cũng tránh nói ý nghĩ đó ra trước mặt Hiền, sợ bạn buồn tội nghiệp. Riêng Hiền không mấy khi thấy nhắc đến Vệ. Và hễ thấy bạn nào đang nói chuyện Vệ-to-đầu là em lảng xa, Nhưng đêm đến, nhiều bạn ngủ cạnh em phải bừng tỉnh vì tiếng Hiền khóc thổn thức trong mơ, em ú ớ gọi tên bạn...
7.
Vượt qua cầu Hiền Sĩ, các đơn vị rút lui rời bỏ quốc lộ số Một, rẽ trái theo con đường rải đá đi về phía làng Cổ Bi.
Bây giờ núi xanh đã ở trước mặt đoàn quân rút lui. Ðêm đến, đội cùng với các đơn vị rút lui được lệnh nghỉ lại ở làng Cổ Bi. đồng bào ở đây đã chạy lên núi hết. Nhà cửa bỏ trống toang.
Làng nằm cạnh con sông Bồ nước xanh rợn người. Khoảng hai giờ sáng, đội trưởng đánh thức cả đội dậy, đi ra bến sông. Ngoài bến đứng đặc người, lố nhố súng đạn, ba lô, túi dết... Dưới sông, đò đậu thành dãy dài.
Từng toán, từng toán lần lượt xuống đò. Đội xuống một con đò dài như con thoi có một ông cụ và một o chèo đò.
Bóng tối nhòa nhòa không nhìn rõ mặt. Con đò rẽ nước nối đuôi các đò đi trước, ngược sông. Mặt sông gợn sóng lốm đốm sao và ánh lửa chài đây đó. Nhiều quãng núi đá dựng thành vại sát bờ sông. Con đò lướt đi trong bóng núi đen thăm thẳm như chui vào hang sâu- Tảng sáng, đò cập bến làng Trò. Làng nằm giữa một thung lũng hẹp, một mặt là sông xanh rợn người, ba mặt kia vây quanh núi cao trùng điệp, bên kia sông cũng là núi, vách núi hoang vu, chim kêu vượn hú, san sát chuối rừng, song mây.
Nhân vật quan trọng đầu tiên các em gặp lại khi vừa đặt chân lên bến làng Trò là "ông-già-bảy-lăm" khẩu sơn pháo cổ lỗ độc nhất của trung đoàn và đồng thời là niềm tự hào đặc biệt của toàn Mặt trận Huế - Thừa Thiên. Bây giờ nhìn "ông" mới tiều tụy làm sao?
Nòng một nơi, bánh, càng một nẻo. Tất cả các bộ phận trên thân thể "ông" được tháo rời ra chất thành một đống lủng củng dưới gốc cây mít. Nòng ông bị đạn đại bác bô-pho của giặc bắn toe mất đầu hôm ông đứng dưới chân cột cờ khạc đạn. Các anh ở xưởng quân giới phải cưa đứt chỗ bị đạn, dài đến hơn gang tay. Dạo đó được tin này chiến sĩ cả mặt trận lo lắng buồn rầu, coi là một tổn thất không gì bù đắp được...
Cả đội xúm xít quanh ông, em sờ nòng, em sờ càng, em sờ bánh... nét mặt em nào cũng rầu rầu xót xa. Các em có một mối cảm tình đặc biệt đối với "ông". "Ông" đã góp phần làm nên vinh quang cho đội, với chiến công lừng danh Mặt trận của Vịnh-sưa. Bởi vậy mà cả đội nhìn cái thân thể tiều tụy, tàn phế của "ông", lòng cứ xót xa quyến luyến không dứt.
Các anh xưởng quân giới khiêng ra một hòm mỡ súng, tọng vào nòng "ông" chuẩn bị thả "ông" xuống đáy sông Bồ, để "ông" khỏi lọt vào tay giặc- Cả làng Trò nhà nào cũng chật ních cán bộ, bộ đội rút lui. Rất nhiều kho tàng, công xưởng của tỉnh được di chuyển lên đây từ trước.
Các em chạy loanh quanh khắp làng. Trong một vườn mít râm như rừng, các em gặp một cái kho năm gian lớn, chất toàn nồi đồng- Nồi chất cao từ mặt đất đến nóc nhà đủ các cỡ, từ nồi nấu một hai người ăn đến loại nồi ba mươi luộc được năm sáu chục đòn bánh tét. Cái nào đáy cũng bị chọc thủng. Ðó là nồi của đồng bào trong tỉnh ủng hộ trong Tuần-lễ-đồng, để đúc đạn bắn giặc.
Không hiểu sao đứng nhìn cái kho nồi đồng thủng đáy này, cả đội thấy lòng nao nao buồn- Chao, nếu những chiếc nồi này mà biết nói, chúng có thể kể lại biết bao điều cảm động, thú vị về cuộc sống của hàng chục nghìn gia đình khác nhau... có những chiếc nồi quanh năm chỉ nấu toàn cơm độn khoai, sắn, lại có những chiếc mỗi năm chỉ được một vài lần bén hơi lửa, những cái miệng trẻ con mếu máo, gào khóc bên miệng những chiếc nồi không còn dính hạt cơm...
Các em bàn cãi, ước tính nếu đúc hết tất cả số nồi đồng này thì được bao nhiêu viên đạn?
Tư-dát chỉ một cái nồi sứt quai nằm gần sát mái nhà, quả quyết nói: "Ðúng là cái chú nồi đồng điếu của nhà tớ. Tớ chỉ nhìn thoáng là nhận ra ngay. Chú ta sứt mất một quai, mỗi lần bắc chú xuống bếp, mạ tớ cứ phải lót giẻ vô bên mép chú."
Tư-dát rút cái súng cao su trong túi ra, lắp viên sỏi bắn một phát trúng luôn cái nồi sứt quai vừa chỉ. Em nói với cái nồi.
- Chớ em không nhận ra anh à em? Anh là anh Tư-dát yêu dấu của em đây mà. Hay tại bữa ni anh mặc áo quần Vệ Quốc Ðoàn oai quá, nên em lạ? Mạ anh đưa em đi Vệ Quốc Ðoàn từ cái hồi Tuần-lễ-đồng năm ngoái, cùng với em mâm, anh sanh, em còn nhớ không?
Từ đó đến nay cả nhà ai cũng chắc là em đã chui vô nằm trong ngực tụi Tây thực dân rồi chớ. Ai ngờ em còn nằm với đơn vị ở đây.
Tư-dát nghiêng đầu, khum lòng bàn tay đặt lên vành tai, mắt hấp ha hấp háy làm bộ đang chăm chú lắng nghe cái nồi trả lời. Tư-dát hất hất cằm, làm tuồng mặt giận, hỏi lại:
- Răng, em nói là em không nhớ ra anh Tư mô à? Trí nhớ em răng kém dữ rứa? Hèn chi đít em đen thui?
Em quay lại nói với các bạn: "Các cậu không biết, tớ đã học qua sách xem tướng nồi, anh nồi đồng mô mà đít đen thui là rất kém trí nhớ." Em lại nói tiếp chuyện với chú nồi: "Anh Tư mà mỗi lần đi học về là chạy ngay xuống bếp dỡ vung em ra, thò luôn tay còn dính đầy mực vô hông em, vét cơm nguội cục ra ăn với nước mắm dầm ớt ấy mà..."
Câu chuyện ba hoa thiên địa của Tư-dát làm cho cả đội đâm ngùi ngùi nhớ nhà, nhớ mẹ, nhớ cha. Mừng cũng bắt chước Tư-dát nhớn nhác nhìn ngó khắp kho, tìm cái nồi nhà mình- tìm một lúc em mới sực nhớ nhà mình không có nồi đồng. Từ trước đến nay mạ em chỉ nấu cơm bằng nồi đất.
8.
Ðội được lệnh nghỉ lại làng Trò một ngày: chuẩn bị cơm nắm, muối mè để hành quân vượt núi lên chiến khu Hòa Mỹ.
Sáng sớm hôm sau, khi cảnh vật còn tối mờ sương núi, đội đã tập hợp thành hàng ngũ, đến trạm tiếp lương, lĩnh cơm nắm, muối mè. Mờ sáng, đội thành hàng một, đi theo một ông lão dẫn đường, rời làng Trò, tiến về phía dãy núi cao trước mặt. ông lão dẫn đường đầu cạo trọc trụi như sư cụ râu cằm lơ thơ chỉ chừng vài chục sợi. Cặp mắt ông lúc nào cũng nheo nheo như bị chói nắng hoặc bị khói cay. Hai bên mép ông có hai đường nhăn sâu hoắm như lấy dao mà trổ, ôm vòng lấy cái miệng rộng hơi móm, nhìn rất hóm. Ông đội cái nón mê đan bằng tre cật, nặng không thua gì cái mũ sắt, mặc bộ bà ba vải nâu bạc phếch dầy đặc những mụn vá xanh đen và cái quần xà lỏn màu cháo lòng dài đến gối. Đặc biệt ông có cái bụng to tướng như bụng đàn bà chửa bảy tám tháng, bụng của người sốt rét kinh niên thành báng. Chắc do đó mà tên ông là Bụng.
Ông Bụng người làng Hòa Mỹ, làm nghề bứt tranh đốt than. ông được Ban chi huy Mặt trận trưng dụng cùng một số bà con khác trong địa phương, sang làng Trò dẫn đường cho các đơn vị rút lên chiến khu.
Ông Bụng dẫn đội vượt núi theo một con đường dốc ngoằn ngèo, còn nguyên dấu rựa mở đường. Hai bên lối đi lau sậy, cây cối um tùm, hoang vu đến rợn người. Dây leo, giang, mây, song bò ngang bò dọc trên đường như đàn trăn, đàn rắn- Nhiều cây gỗ ba bốn người ôm, mục gãy, đổ ngang lối đi phải khom mình chui qua. Trên mặt đất lớp lớp lá rụng thối, vắt sên như trấu ngo ngoe, ngo ngoe. Bàn chân vừa lướt qua là chúng bám ngay lấy cắn, hút máu; còn lũ vắt xanh thì đậu trên lá cây, rình bám vào cổ, vào vai, chui tọt vào nách, vào bẹn, lúc nào không hay. Chúng cắn hút máu cho đến lúc no tròn như quả sim rồi rụng xuống. Cả đội lúc đầu em nào bị vắt, sên bám phải, cũng sợ rúm người lại. Nhưng rồi thấy sợ không xong với cái tụi hút máu người này, càng co người lại tui hắn càng bám dử. Các em đành phải nhắm mắt, nghiến răng túm lấy cái mình trơn nhớt của bọn sên, vắt dứt ra ném đi. Vài lần đầu còn thấy ghê tay, nhưng chỉ sau một buổi đường là hết sợ. Hai cẳng chân em nào cũng nhoe nhoét máu. Con sên dứt ra rồi, máu vẫn cứ tiếp tục chảy, cái giống này rất tài, bao giờ cũng nhằm trúng mạch máu.
Lần đầu tiên được nếm mùi leo dốc núi, các em mặt bạc trắng vì mệt, thở cả mắt lẫn tai. Nhiều em bò ra dốc. Leo một đoạn dốc ông Bụng lại phải dừng lại đợi.
Ông ngồi xuống một gốc cây, lôi từ trong túi áo một nùi thuốc lá ngọn rứt ra và quấn những điếu thuốc to bằng ngón chân cái. Ông đánh lửa châm thuốc bằng một con dao nhíp, một hòn đá to bằng nắm tay và một cái bùi nhùi. Các em nhìn ông đánh lửa kiểu này phục lăn.
Lạ hơn nữa là hai chân ông không thấy một con vắt nào cắn.
- Làm răng vắt lại không cán ông? - Các em xúm tại hỏi. - hay ông có bôi thứ thuốc chi?
Ông Bụng cười:
- Rứa dọc đường các cháu không gặp cái tụi vắt sên cứ ngo ngoe mà không chịu cắn à? Đó là tụi vô phước cắn nhầm chân miềng nên bị mẻ hết răng đó.
Bọn trẻ trợn tròn mắt nhìn ông, nửa tin nửa ngờ.
Ông phả khói thuốc dày đặc như một đám mây, ho khục khặc nói tiếp:
- Cái thứ răng sên, răng vắt đã thấm béo chi. Mới bữa tê đây thôi, miềng đi từ Hòa Mỹ qua Trò, dọc đường một con chó sói núp trong bụi rậm, nhảy chồm ra, táp luôn vô bắp chân miềng hai miếng, nhay nhay rồi kêu ăng ẳng bỏ chạy. Miềng thấy bắp chân hơi ngưa ngứa, sờ tay xuống gãi thì thấy rớt xuống đất tám cái răng chó trắng hếu mà nhọn quá đinh. Té ra anh ta táp mạnh quá, răng dắt luôn vô da miềng, coi như nhổ răng. Tội nghiệp cái con chó sói đó rồi đến chết đói mất thôi. Rụng mất tám cái răng cửa thì còn ăn uống cách răng. Ông Bụng tặc tặc lưỡi tỏ vẻ thương xót cho con chó sói đã cắn ông. Các em hoang mang không biết ông nói chơi hay nói thật, vì nét mặt, giọng nói của ông không có vẻ một chút gì là đùa vui hết.
Qua khỏi một dốc núi khá cao, ông chỉ cho các em xem những bãi cứt voi to bằng cái thúng úp, còn nóng hôi hổi, chứng tỏ đàn voi vừa đi qua đây xong. Tư-dát ngó bãi cứt voi cười nói:
- Ước chi tụi minh cũng ỉa được những bãi cứt to như ri hè? Tụi mình chỉ việc kéo nhau đến trước cổng đồn tụi Tây, ỉa mỗi thằng một bãi, tụi Tây ngó thấy cũng đủ khiếp mà chết.
Qua khỏi núi rậm, tiếp đến vùng đồi cỏ tranh bạt ngàn san sát như bát úp. Ông Bụng chỉ cho các em những dấu chân cọp mới nguyên, in trên mặt đất ướt.
Các em nhìn những dấu chân hệt dấu chân mèo nhưng to bằng cái bát, sợ xanh mắt, vội vàng đi sát vào nhau.
- Bồng hỏi:
- Ông ơi ông, ở trên Hòa Mỹ có nhiều cọp không ôông?
Ông Bụng nói:
- Tưởng chi chớ cái giống cọp beo thì chẳng thiếu! Nhiều bữa miềng đi bứt tranh, gánh tranh về nhà mở ra phơi, thấy có hai ba cái đuôi cọp máu me đỏ lòm, ngúc nga ngúc ngắc, nằm lẫn trong tranh. Té ra miềng mải bứt, bứt luôn đuôi cả một bày cọp đang ngồi rình mồi mà không biết!
Cả đội phá lên cười, nhao nhao nói:
- Ông nói trạng chi trạng gớm rứa ông ơi!
Ông Bụng mặt vẫn tỉnh khô, ề à kể tiếp:
- Cách đây chừng nửa tháng, một bữa miềng đi bứt tranh về, vừa mở bó tranh ra thì có một cục chi to cỡ bằng trái bưởi, tròn tròn, nâu nâu, nhăn nhăn, lăn ra kêu cái bịch. Miềng lượm lên ngó coi, té ra cả một đùm... dái cọp! Cái liềm mới đưa cho thợ rèn cắt lại chấu, sắc đã gớm, bứt dái cọp mà cứ ngọt xớt như bứt chuối chín!
Tư-dát hỏi ông:
- Rứa chừ mô rồi ông?
- Cái chi?
- Đùm dái cọp ấy?
- Miềng luộc chấm muối ớt ngay bữa đó. Ðể lâu sợ ôi.
Ông chép miệng: "Cái anh dái cọp lơ mơ rứa mà ngọt đáo để, có phần ngọt hơn anh dái voi."
Cả đội bò lăn ra bãi cỏ tranh mà cười, còn ông Bụng mặt vẫn tỉnh khô, thủng thẳng quấn một điếu thuốc lá cũng to bằng ngón chân cái, đánh đá lửa hút.
Ông Bụng nói trạng chơi mà Mừng cứ tưởng thật.
Em hoảng quá, đi nép sát vào Tư-dát, một tay bíu chặt thắt lưng da. Tư-dát quay sang nói:
- Nì, lỡ cọp nó có nhảy ra vồ thì cậu nhớ bỏ nịt tớ ra nghe, cậu mà níu chặt quá, hắn tha luôn cả tớ đi thì chết tớ đó nghe!
Qua làng Sơn Qua, qua khe Nước Nóng, qua làng Thanh Tân. rồi làng Ðất Ðỏ, mọc đặc một giống tre lồ ô. Từ làng Ðất Ðỏ đi men theo bờ con sông Ô Lâu uốn lượn quanh có nước chảy rì rào giữa hai bờ lau sậy um tùm.
9.
Năm giờ chiều hôm đó, Ðội đặt chân lên đất chiến khu Hòa Mỹ.
Chiến khu! Hai tiếng mới mẻ này đã từng gợi lên trong trí tưởng tượng các chiến sĩ nhỏ tuổi trong đội Thiếu niên trinh sát biết bao hình ảnh hùng tráng thơ mộng...
Sau Cách Mạng tháng Tám, lần đầu tiên các em được nghe hai tiếng chiến khu qua bài hát: "Nhớ chiến khu".
" chiều nay xa chiến khu trong rừng chiều. Bên bờ tiếng suối reo ngàn thông réo..." Hồi còn ở mặt trận Huế, mỗi lần sinh hoạt đội cất tiếng hát bài "Nhớ chiến khu" các em lại thấy hiện ra trước mắt những rùng thông vi vu trong gió ngàn, dòng suối bạc lấp lánh chảy róc rách giữa hai bờ đá trắng phau... Một đoàn chiến sĩ ngồi bên suối mài gươm, lau súng. Một toán chiến sĩ khác cưỡi ngựa phi vun vút qua đèo.
Bởi vậy mà chiều hôm đó, khi đã đặt chân lên đất chiến khu Hòa Mỹ rồi mà cả đội vẫn không ngớt mồm hỏi ông Bụng:
- Sắp đến chiến khu chưa ông?
- Đi chừng bao lâu nữa mới tới chiến khu ông?
Ông Bụng khoát tay chỉ bao quát vùng đồi núi trước mặt nói:
- Chiến khu ta đây chớ mô nữa các cháu.
Cả đội sửng sốt:
Chiến khu là đây thiệt hả ông?
Ông Bụng lên giọng giảng giải:
- Cái vùng núi non ni từ đời thủy tổ thì gọi là Hòa Mỹ. Mới đây Chính phủ cải ra tên mới là chiến khu. Chiến khu với Hòa Mỹ cũng là một cả thôi.
Cả đội nhìn nhau tưng hửng. Chẳng có gì giống với những điều các em tưởng tượng trước đây.
Hòa Mỹ là một cái làng ven núi, lơ thơ chừng vài chục nóc nhà nằm rải rác trên một rẻo đất dài và hẹp.
Một bên là núi cao trùng điệp, một bên là con sông Ô Lâu quanh co uốn khúc. Sông hẹp, nhiều khúc vén quần lội qua được, phơi cả sỏi đá dưới dòng. Từng quãng, từng quãng, người ta đắp những cái kè bằng cọc gỗ và đá chắn ngang sông. Nước chảy ào ào qua những chỗ kè để hở, đẩy những chiếc guồng nước nặng nề, kĩu kịt quay đều đều vục nước sông lên đổ vào những cái máng nước trên cao, tưới những thửa ruộng ven sông. Những ngôi nhà tranh, vách đất nép mình dưới những rặng tre lồ Ô dày rậm như rừng. Một lối đi nhỏ ngoằn ngoèo chạy xuyên qua làng. Dọc hai bên lối đi là những rẫy sắn, khoai chen lẫn với những đám cỏ tranh cao quá đầu người. Trên các vồng khoái, sắn rất nhiều dấu chân lợn lòi. Có những đám sắn rất rộng bị lợn lòi dũi nát.
Ðồng bào ở đây người nào nước da cũng xanh mai mái bởi bệnh sốt rét kinh niên.
Về chiều, khí núi một màu trắng đục, dâng lên mờ mịt. Mưa rả rích, gió núi thổi ào ào. Bộ đội, cán bộ, công nhân các cơ quan, công xưởng của tỉnh, từ các ngả đường rút lui khác cũng lần lượt nối nhau đổ lên Hòa Mỹ. Người nào cũng mệt nhoài, mặt mày phờ phạc, ướt mèm, lấm láp suốt từ đầu đến chân.
Khắp làng nhà nào cũng chật ních người, súng đạn ba lô đồ đạc. Những cây sào lồ ô dài phơi đầy quần áo. Ðường đi lối lại, bùn sục lên dưới hàng trăm bàn chân mang vác nặng nề, trơn như đổ mỡ. Tiếng gọi nhau í a ới suốt từ đầu làng đến cuối làng.
Làng Hòa Mỹ được gọi là tiền-chiến-khu. Chiến khu chính nằm sâu trong dãy núi xanh rì đằng sau làng. Ðội Thiếu niên trinh sát trực thuộc Trung đoàn bộ, phải vào đóng ở chiến khu Một, gọi tắt là Xê-ca Một. Từ Hòa Mỹ vào đến Xê-ca Một xa vào quãng hai cây số, qua một dải rừng thấp bằng phẳng. Một con suối khá rộng nước chảy ồ ồ, với những tảng đá xanh rêu trơn nhẫy, đâm sâu vào dãy núi miên man trùng điệp. Men theo bờ suối đi thêm chừng nửa cây số là đến nơi đóng quân. Một dãy lán một mái, dựng ngay bên bờ suối. Dãy lán này mới dựng cách đây chỉ vài hôm, lá lợp, cột, kèo, rui, lạt buộc vẫn còn tươi nguyên. Mỗi bên có một dãy sạp dài suốt từ đầu lán đến cuối lán, để làm giường nằm. Mặt sạp lát bằng những cành cây còng queo, so le, gồ ghề, nằm lên đó khác nào nằm lên một bó củi.
Ðội được chỉ định ở cái lán số ba kể từ dưới lên.
Tư-dát sờ tay lên mặt sạp, gật gù nói: "Người ta nói đời chiến sĩ nằm gai nếm mật là như ri đây, anh em ạ."
Tức cảnh sinh tình, em ứng khẩu đọc luôn một đoạn thơ nhỏ vừa chợt nghĩ ra:
Sống thời nằm trên cành cây,
Chết thời áo súng bọc thây chiến trường
Nhưng ta là Vệ Quốc Ðoàn
Gian nguy đâu có sờn gan anh hùng.
"Hay! Hay!" Cả đội nhiệt thành khen ngợi. Nhiều em yêu cầu Tư-dát đọc lại để học theo. Chỉ một tí là cả đội thuộc. Em hát, em ngâm nhộn nhạo cả khu rừng.
Không khí trong đội phút chốc tươi vui phấn chấn hẳn lên.
Vừa đặt ba lô, túi dết xuống sạp nằm, đội trưởng liền huy động cả đội ra rừng phát củi khô. Trời sập tối, đội trưởng cho nhóm lên ở giữa lán một đống lửa to như đống lửa trại. Khói xông mù mịt, ánh lửa bập bùng. Cả đội vây quanh lấy đống lửa, cởi áo quần ướt ra hơ, trêu chọc nhau cười nói râm ran.
Hành quân mệt lả thế mà cả đêm đó cả đội đều thao thức đến quá nửa đêm, không sao ngủ được- Một phần tại cái sạp nằm cứ đâm nhói nhói giữa lưng, một phần vì những tiếng động dễ sợ của rừng đêm: Tiếng hoẵng kêu, vượn hú, tiếng một đàn voi ào ào đi qua đâu đó trên dốc núi, làm cành cây gãy răng rắc, tiếng chim từ quy khắc khoải buồn thảm và nhiều tiếng rừng huyền bí khác làm cho cả đội cứ sởn hết gai ốc, cứ nhích dần nép sát vào nhau.
Hôm sau, đội ăn bữa ăn đầu tiên của chiến khu. Cơm gạo lức với muối trắng, phải bẻ lá rừng cuộn lại làm bát và bẻ cành cây làm đũa. Ôi, nhớ sao xiết, kể sao hết những gian khổ thiếu thốn của chiến khu những ngày đầu tiên ấy.
Mười năm sau một nhà chép sử đã ghi lại mấy nét tổng quát của hoàn cảnh chiến khu Hòa Mỹ ngày đó như sau:
"Việc tổ chức các chiến khu ở các vùng rừng núi đều làm rất sơ sài. Lương thực dự trữ rất thiếu thốn. Ở Thừa Thiên lúc rút lên núi, lương thực vẻn vẹn chỉ còn hai tấn gạo. Trong lúc đó số người ăn kể cả cán bộ, bộ đội nhân viên các ngành, tự vệ chiến đấu, công nhân cơ xưởng có tới hai ngàn người." Chỉ mấy dòng vắn tắt đó cũng đủ gợi cho chúng ta ngày nay hình dung được một phần sự gian khổ thiếu thốn đáng sợ của hoàn cảnh chiến khu Hòa Mỹ những ngày đầu tiên ấy.
10.
Hai hôm sau, sau bữa cơm chiều, trung đoàn trưởng Hà Văn Lâu đến gặp đội.
Ngay trước mặt lán là dòng suối mấp mô đá phủ rêu trơn tuột, phía sau là dốc núi cao dựng, hai bên là rừng rậm, nên đội không thể tập họp thành hàng ngũ chỉnh tề để đón trung đoàn trưởng như hồi nào. Các em phải ngồi xếp bằng trên sạp nằm để đón ông. Tất nhiên đội trưởng cũng không thể hô nghiêm khi thấy trung đoàn trưởng bước vào đầu lán.
Chỉ sau mấy tuần gặp lại mà ông lạ hẳn đi. Người ông gầy sọp, gương mặt hốc hác, hai mắt trũng sâu, thâm quầng tưởng đâu như có đến trăm đêm nay rồi ông không chợp mắt.
Ông ngồi lên mép sạp, nhìn cả đội khắp lượt. Cặp mắt thâm quầng mệt mỏi của ông vẫn ánh lên vẻ dịu dàng, trìu mến của người cha. Ông chợt nhíu trán lại hỏi đội trưởng:
- Quân số đội sao ít hẳn đi thế nảy? Có em nào đi đâu không?
Ðội trưởng ngồi cạnh ông nói:
Báo cáo anh, đội hiện nay chỉ còn mười chín đội viên. Bốn em đã hy sinh, và tám em được cử vào tham gia chiến đấu ở Mặt trận phía Nam chưa có tin tức gì.
Trung đoàn trưởng ngồi yên lặng một lúc khá lâu- Mắt ông đám đăm nhìn dòng suối ồ ồ chảy xiết dưới chân lán. Nhìn nét mặt ông, các em hiểu ngay rằng ông sắp nói với mình những điều quan trọng-..
- Các em ạ, - ông ngẩng lên nhìn cả đội và nói,- hoàn cảnh chiến khu của chúng ta lúc này gian khổ thiếu thốn như thế nào, anh không nói chắc các em cũng đã rõ. Và mai đây chắc sẽ còn gian khổ thiếu thốn nhiều hơn nữa. Sắp đến, cả chiến khu sẽ phải ăn cháo, ăn rau rừng thay cơm... Trong những ngày chiến đấu vừa qua hầu hết các em đã tỏ ra xứng đáng là bạn chiến đấu của người liệt sĩ thiếu niên anh hùng chết trên cột thép thu lôi. đội các em đã góp phần không nhỏ công lao và xương máu cho cộng cuộc kháng chiến cứu nước. Anh xin thay mặt Ban chỉ huy trung đoàn biểu dương và khen ngợi tất cả các em! Nhưng hoàn cảnh chiến đấu của bộ đội chúng ta sẽ vô cùng gian khổ nặng nề. Anh sợ rằng sức vóc nhỏ bé của các em khó lòng kham chịu nổi. Bởi vậy đêm qua Ban chỉ huy trung đoàn đã họp để giải quyết vấn đề đội của các em. Cuộc họp đã đi đến quyết nghị là anh sẽ đến gặp trực tiếp các em, hỏi ý kiến các em. Em nào muốn trở về sống với gia đinh thì trung đoàn đồng ý cho các em về. Trung đoàn sẽ bố trí người đưa các em về đến chỗ mà một mình các em có thể trở về tìm lại gia đình được- Các em thấy thế nào?
Trước ý kiến đột ngột của trung đoàn trưởng, cả đội ngồi lặng đi rất lâu, lòng xao xuyến bồn chồn khôn tả.
Tiếng củi nổ lép bép, tiếng suối chảy ồ ồ, lúc này nghe sao mà to mà vang đến thế? Tự nhiên cả đội em nào cũng thấy cổ mình nghẹn lại muốn khóc. Nhưng chưa rõ tại sao mình muốn khóc? Có lẽ đó là cảm giác khi thấy mình sắp phải rời bỏ một cái gì vô cùng thân thiết, mà nếu mất nó là mất hết mọi mềm vui trên đời, là chẳng còn biết mình phải sống ra sao đây.
- Các em cho anh biết ý kiến đi? Trung đoàn trưởng nhắc lại và ngạc nhiên khi thấy tất cả những cặp mắt đang nhìn ông đều ướt đỏ hoe. Mừng thì khóc thật sự, nước mắt chảy ràn rụa trên hai gò má đen nhẻm bụi tro than.
Lượm ngồi ở gần cuối lán bỗng nhảy xuống đất. Em bước lại gần đống lửa, nhìn trung đoàn trưởng mím mím môi như đang cố nuốt cái gì cứ chực trào lên cổ. Em nói giọng rung lên:
- Thưa anh, các bạn khác trong đội nghĩ răng em không biết. Riêng em, em tha thiết xin trung đoàn cho em được ở lại chiến khu. Dù mai đây có đói khổ gấp mười ri em cũng xin chịu. Em ưng thà phải ở truồng, ở lỗ mà chết đói trên chiến khu còn hơn phải trở về thành phố mà ở chung, ở lộn với tụi Tây, tụi Việt gian.
Những tiếng nói sau cùng của em biến thành tiếng nấc nghẹn ngào.
- Dạ thưa anh, em cũng xin như bạn Lượm.
- Em cũng xin như rứa!
- Cực khổ chi em cũng xin ở lại chiến khu.
Tất cả đội cùng giơ cao tay lên và tranh nhau nói với Trung đoàn trưởng.
Mừng cũng nhảy từ trên sạp xuống đất, bước lại đứng sát bên Lượm, nói giọng gần như van lơn:
- Thưa anh, chúng em còn nhỏ, chưa làm được chi nhiều cho chiến khu thì trung đoàn cho chúng em ăn ít đi cũng được- Mỗi bữa các anh ăn một chén cơm thì chúng em chỉ xin ăn nửa chén thôi. Ðừng bắt chúng em phải về nhà, tội chúng em lắm anh nờ.
Ôi, những lời van xin thơ ngây mà thống thiết, van xin được nhận phần gian khổ thiếu thốn, được cùng sống cùng chết với chiến khu, được chiến đấu hy sinh vì sự sống còn của TỔ QUỐC của các chiến sĩ nhỏ tuổi này đã làm cho trung đoàn trưởng phải rơi nước mắt. Ông rút mùi xoa trong túi thấm nhanh hai mắt, rời chỗ ngồi, bước lại ôm Mừng vào lòng và nói:
- Một lần nữa các em càng làm cho anh thêm tin rằng các em đã xứng đáng và sẽ xứng đáng là bạn chiến đấu của em Vịnh. Bây giờ thì thế này: Nếu tất cả các em đều tình nguyện ở lại chiến khu để tham gia chiến đấu, anh sẽ về báo cáo lại với toàn thể Ban chỉ huy trung đoàn, chắc chắn các anh cũng sẽ đồng ý để các em ở lại thôi- Còn bây giờ anh chúc các em đêm nay ngủ một giấc thật ngon Và sáng ngày mai chúng ta sẽ cùng nhau bắt tay vào việc xây dựng tổ chức chiến khu. Chuẩn bị để bước vào trận chiến đấu mới.
Ðội trưởng vỗ vỗ hai bàn tay nói với đội:
- Các em, chúng ta hãy hát lên một bài thật to, thật hay để tiễn trung đoàn trưởng nào!
Kỳ đang ngồi xếp bằng trên sạp, vụt đứng ngay dậy. Em thay Quỳnh làm quản ca của đội. Quỳnh vẫn nằm ở trạm quân y Mặt trận, nghe đâu trạm đang trên đường chuyển lên chiến khu. Kỳ ngẩng cao đầu, hơi phướn người lên rồi cất giọng trong ngần, lanh lảnh cao vút:
"Đoàn Vệ Quốc Quân một lần ra đi..." Cả đội vùng đứng hết cả dậy trên sạp, lấy hết hơi sức hòa theo:
"Nào có mong chi đâu ngày trở về. Ra đi, ra đi bảo tồn sông núi. Ra đi, ra đi thà chết không lui..." Tiếng hát bay lượn trên mặt suối, tràn qua những lớp lớp cây rừng, tràn qua gai góc tối tăm, quấn quít theo chân trung đoàn trưởng cho đến tận bìa rừng.
Tiếng hát của các em hôm nay làm cho ông thấy lòng cảm động, xốn xang khác thường. Trước khi trèo khuất sang bên kia dốc núi, ông dừng lại lắng nghe cho đến lúc tiếng hát tắt hẳn. Ông bỗng có cảm giác những lời hào hùng quyết liệt và sục sôi nghĩa khí kia không phải do các chiến sĩ nhỏ bé của ông hát lên mà chính là tiếng đồng vọng thôi thúc của ý chí Nhân Dân và Ðất Nước trong giờ phút vô cùng nghiêm trọng của lịch sử.
Tiếng hát như một ngọn lửa bùng lên cháy rực rỡ giữa đêm rừng lạnh tối, nó làm cho rừng và lòng ông ấm hẳn lại, vui hẳn lên.
Phần Thứ Tư
1.
Chiếm xong Huế, giải vây được cho đồng bọn bị quân ta vây hãm sau gần hai tháng, viện binh giặc tiếp tục đánh dốc ra phía Bắc Thừa Thiên. Thế giặc mạnh như lũ tràn. Các làng xã nằm ven đường số một: An Hòa, Hiền Sĩ, Phú Ốc, Phò Trạch, Mỹ Chánh... Lần lượt lọt vào tay chúng.
Cuộc kháng chiến của tỉnh Thừa Thiên bước vào thời kỳ khó khăn, gian khổ, đen tối nhất.
Khoảng mười lăm ngày sau khi chiếm đóng Huế, giặc Pháp đã thiết lập xong chính quyền bù nhìn. Tên Nguyễn Khoa Toàn, hồi Pháp thuộc làm đốc học, mấy lần ẩn núp ở xó xỉnh nào nay chui ra lên ghế tỉnh trưởng.
Chúng cấp tốc cho dọn dẹp sửa sang lại thành phố, phục hồi sinh hoạt. Chúng ráo riết dựng gấp bộ máy kìm kẹp, đàn áp nhân dân. Ngoảnh đi ngoảnh lại khắp thành phố đã mọc lên nhan nhản nào Ty An Ninh, sở mật thám Phòng Nhì, sở mật thám Liên Bang, ty Cảnh sát, nhà tù...
Những tên lính ngụy đầu tiên xuất hiện trên đường phố Huế. Chúng vừa được bọn Pháp tuyển dụng trong vòng mười hôm trở lại nên chưa có đồng phục, ăn bận táp nham như thường dân. Ðứa sơ mi cộc tay, quần soóc, chân đất; đứa áo vét tông cháo lòng, đội mũ phớt; đứa áo quần bà ba, kéo guốc lẹp kẹp; trước ngực áo đeo lủng lẳng tấm biển bằng bìa cứng, hình quả trám, to bằng cỡ bàn tay, nền vàng, viền đỏ có ba chữ B.V.Q (Bảo Vệ Quân).
Hàng ngày máy bay đakôta bay lượn từ đầu tỉnh đến cuối tỉnh, xổ truyền đơn trắng xóa: "Hỡi đồng bào! Ai tản cư đâu thì nên mau mau hồi cư về thành phố. Ðồng bào về được quân đội liên hiệp Pháp và chính phủ Nam triều che chở, bảo vệ như xưa. Cấm không được chạy theo Việt Minh! Chạy theo Việt Minh là cầm chắc cái chết trong tay. Quân lính của Việt Minh đã bị quân đội Pháp đánh cho tơi bời, kiệt quệ và hoàn toàn tan rã. Quân đội Pháp hiện đang tiếp tục truy lùng chúng và sắp sửa tiêu diệt những tên sống sót cuối cùng!".
Đọc những tờ truyền đơn này, nhiều đồng bào Huế băn khoăn lo nghĩ. Lòng tin vào cuộc kháng chiến của nhiều người khác nào cây con trước cơn bão lớn. Người hồi cư về Huế ngày một đông. Phần lớn họ trở về bằng đường sông. Từ sáng tinh mơ đến tối mịt thuyền lớn, đò nhỏ, nối mũi, nối lái nhau xuôi về thành phố, trên các con sông An Cựu - Đông Ba, sông Sinh, Sông Hương. Thuyền, đò chất cao ngất nghểu những rương hòm, bao bị, bàn ghế, nồi niêu, thúng mủng, và hàng trăm thứ đồ đạc linh tinh khác. Người chen chúc ngồi chóc ngóc trên đồ đạc, trên mui thuyền. Nét mặt người nào cũng đầy vẻ thấp thỏm, lo âu. Ai đoán chắc được cuộc sống sắp đến trong lòng thành phố giặc chiếm sẽ lành dữ ra sao đây? Nhiều bà già ngồi xếp bằng giữa đống đồ đạc, vừa lần tràng hạt vừa lâm râm niệm Phật.
Vào một buổi chiều, trong số thuyền đò hồi cư trên sông Sinh có một chiếc đò nhỏ một mui, chở một gia đình bốn người. Một người đàn ông đã đứng tuổi và ba đứa con nít. Chiếc đò chỉ một người chèo. ông lão chèo đò trạc gần sáu mươi, cằm lơ thơ một chòm râu tiêu muối, mặc áo tứ thân vải nhuộm đà, quần xà lỏn xanh vá chằng đụp, lấp lửng đầu gối.
Cái gia đình hồi cư trên chiếc đò này hơi lạ. Họ gần như chẳng có đồ đạc gì ngoài mấy bọc áo quần để trong khoang thuyền và ba cái áo tơi lá để một đống sù sụ trước mũi đò. Thật khó đoán được quan hệ gia đình giữa bốn con người trong đò. Người đàn ông khoảng trên dưới bốn mươi tuổi, mặt vuông chữ điền, tóc rễ tre rậm bù xù, lông mày mũi mác, râu ria lởm chởm. Ba đứa con nít suýt soát tuổi nhau, trạc mười bốn, mười lăm. Một đứa mặt mũi khá xinh trai, da dẻ trắng trẻo, mắt một mí, tóc để rẽ, mặc quần ka ki xám, áo len dài tay màu rượu chát. Một đứa gày nhom, cao lòng khòng, hai ống chân thẳng đuột như hai ống quyển, miệng rộng ngoác, mũi hếch ngược, vẻ mặt liến láu. Nó mặc cái áo sơ mi cũ ngắn cũn như áo đi mượn và cả cái quần bà ba vải chúc bâu trắng, cố kéo mãi mà hai ống quần vẫn chỉ lơ lửng đến giữa bụng chân, đứa thứ ba thấp nhỏ hơn hai đứa kia một tí, nước da ngăm ngăm đen, đầu húi cua, trán vuông mà giô, cặp mắt to thô lố. Nó mặc bộ áo quần bà ba vải đà vá víu, nếu đội thêm cái nón mê, và cầm trong tay một cây roi thì đúng là một chú bé chăn trâu chính hiệu.
Để ý cách xưng hô thì thấy ba đứa gọi nhau cậu, tớ và gọi người đàn ông khi thì anh, khi thì ba. Và mỗi lần nghe chúng gọi anh, người đàn ông liền lừ mắt một cái, chúng liền vội vàng chữa ngay sang gọi ba, và tủm tỉm cười.
Đò về đến ngã ba Sình thì trời lắc rắc đổ mưa.
Thằng bé có vẻ mặt liến láu, thò đầu ra ngoài mui đò, mặt nghênh lên nhìn trời. Nó thụt đầu vào khoang đò, nói với người lớn tuổi, giọng lo lắng:
- Anh ơi! à... Ba ơi! Trời sắp mưa to rồi. Lấy mấy cái tơi vô không thì ướt hết!
Người lớn tuổi lừ mắt, đặt ngón tay trỏ lên môi ra hiệu. Thằng bé vội im ngay. Nó đã nhớ ra vừa nói một điều thậm vô lý- áo tơi lá là để đi mưa lại còn sợ mưa ướt! Nếu không vô lý thì chắc là đã hớ hênh tiết lộ một điều bí mật gì đó đang nằm trong mấy cái tơi lá kia.
Con đò qua khỏi ngã ba Sình được một quãng bỗng từ trên bờ bên phải có tiếng gọi giật giọng như quát:
- Ê! Chiếc đò một mui, một người chèo kia! Chèo vô đây ngay.
Nghe tiếng quát ba đứa trẻ giật bắn người, nhớn nhác ghé vào kẽ hở mui đò, nhìn lên bờ. Người lớn tuổi hỏi ông cụ chèo đò, vẻ mặt như ngơ ngác, ngờ nghệch:
- Ai gọi chi mà xẵng giọng vậy cụ ơi?
- Tụi hắn gọi đò để kiểm soát đó! - ông cụ chèo đò cộc cằn trả lời- òng khoáy khoáy mái chèo ghìm con đò đi chậm lại.
Nghe hai tiếng kiểm soát, mặt ba đứa trẻ tái đi trông thấy. Người đàn ông nói với ông cụ chèo đò:
- Cụ cứ chèo thẳng cho mấy cha con tôi đi được không cụ? Đò ta thì có đồ lề chi mà kiểm soát. Chèo vô chèo ra, e về tới nhà tối mất cụ ơi!
- Không được mô, ông cụ lắc đầu nói, Tụi hắn đã gọi mà không vô là tụi hắn bắn ngay. Sáng bữa qua có một chiếc đò ba mui chở tám mạng người, bị tụi hắn bắn chìm ở khúc sông ni rồi.
Miệng nói, tay ông cụ cậy mạnh mái chèo, chèo con đò vô thẳng phía bờ.
Biết không thể nào lọt qua trạm kiểm soát của giặc ở Cửa ngõ Huế này, người đàn ông vội quay lại, ra hiệu cho ba đứa trẻ nhích đến gần và nói rất khẽ:
- Anh dặn gì các em phải nhớ kỹ nghe?
Ba đứa cùng gật đầu, ngồi im thin thít, vẻ mặt từ bi từ tại. Thằng bé có bộ mặt liến láu, cơ hồ không ngồi vững- Nó ngả lưng xuống sạp thuyền, đầu gối lên bọc quần áo, nhấm mắt vờ ngủ, nhưng hai đầu gối cứ rung rung đánh nhịp.
Còn đò cập bến. Trên bến có hai tên lính Pháp cao lớn tay cầm tiểu liên, và một thằng Bảo vệ quân mặt dài như mặt ngựa, mặc bộ áo quần "Sóoc" ka ki vàng, lưng đeo súng lục, tay cầm roi cặc bò. Nó bước xuống bến, vung vẩy cây roi, hách dịch ra lệnh:
- Người trong đò lên hết cả đây để các quan lớn xét!
Bốn "cha con" chui ra khỏi mui, lục tục bước lên bờ- Người đàn ông chắp tay chào chúng, dáng bộ khúm núm, sợ sệt:
- Chào các quan lớn ạ!
Hai tên Pháp giương cặp mắt vàng như mắt rắn, hết nhìn người đàn ông lại nhìn ba đứa con nít. Thằng Bào Vệ Quân tay chống nạnh, hất hàm hỏi:
- Chúng mày đi đâu?
Người đàn ông hai tay vẫn chắp trước bụng, lưng khòng xuống như vẫn tiếp tục chào, lễ phép trả lời:
- Dạ bẩm... dạ... gia đình chúng tôi hồi cư về Huế ạ.
- Về đâu?
- Dạ Vĩ Dạ.
- Chúng mày là thế nào với nhau!
- Dạ, bẩm bốn cha con ạ!
- Cha con? - Thằng Bảo vệ quân gằn giọng hỏi lại, vẻ nghi ngờ.
Người đàn ông chỉ từng đứa một, nói như phân trần.
- Dạ, bẩm hai cháu này là con vợ cả, còn cháu này, - anh chỉ thằng bé mặt mũi liến láu, - là con vợ lẽ ạ.
- Chúng nó lên mấy?
- Dạ bẩm, cháu này mười ba. - Anh chỉ thằng bé nước da ngăm ngăm đen. - Còn hai cháu này đều mười bốn cả. Chẳng là hai mụ nhà cháu ở cữ cùng một tháng.
- Mày bao nhiêu tuổi?
- Dạ bẩm băm chín, tuổi mão.
- Vợ mày đâu?
- Dạ bẩm, mụ cả nhà cháu chết bệnh từ năm kia.
- Còn mụ hai nhà cháu thì mới chết đầu tháng trước phía ngoài Phò Trạch... trúng phải đạn máy bay.
- Chết là đáng kiếp? Ai khiến chạy theo tụi Việt Minh làm chi!
- Dạ bẩm đâu có dám ạ! Sợ súng đạn quá rồi chạy quáng chạy quàng đó thôi.
- Dưới đò chở những chi?
Người đàn ông thở dài nhăn nhó.
- Dạ bẩm chẳng có chi... Chỉ có mấy bọc áo quần rách của các cháu với mấy cái tơi lá... Có ít nhiều của nả chạy tản cư bị mất sạch trơn.
Thằng Bảo vệ quân quay lại xì lồ xì là một tràng với hai tên Pháp- Hai tên Pháp mắt giương thao láo, gật gật đầu. Tên B.V.Q dắt cây roi cặc bò vào thắt lưng, rút súng lục lên đạn, bước xuống đò lục soát. Ba đứa trẻ đứng quay lưng ra sông, mắt cụp nhìn xuống đất- Mỗi tiếng động lộc cộc, !ệch kệch từ dưới con đò vọng lên làm chúng giật mình thon thót nhất là khi nghe tiếng mấy cái áo tơi lá bị đá kêu loạc xoạc, mặt ba đứa đều xám xanh cả lại- Trời chiều hôm đó rét căm căm thêm gió sông thổi hun hút, mà hai thái dương chúng mồ hôi cứ rịn ra lấm tấm. Người đàn ông khẽ đưa mắt nhìn chúng với ánh mắt ngầm bảo: "Bình tĩnh lại các em" Thằng B.V.Q sau một hồi lục soát khá kỹ, đút súng lục vào bao, đạp mũi con đò nhảy lên bờ. Hắn lại xì lồ xì là với hai tên Pháp, rồi quay sang nói với người đàn ông:
- Cho đi! Về nhà phải an cư lạc nghiệp, không được nghe theo tụi Việt Minh xúi bậy mà làm loạn nghe chưa?
- A lê! cút!
Lúc con đò chèo ra đến giữa sông ba đứa bé coi bộ mới hoàn hồn.
Thằng bé mặt mũi liến láu, thè lưỡi ngoẹo đầu nói:
- Lúc nghe hắn đá loạc xoạc vô mấy cái tơi lá, tao tưởng tim rụng mất bay ạ.
- Tao cũng rứa - Tháng bé mặt xinh trai quệt mồ hôi trán nói thì thào như còn sợ bọn trên bờ nghe tiếng.
- Tao thấy ớn lạnh cả xương sống.
Trong ba đứa thì thằng bé nước da ngăm đen coi bộ gan, bình tĩnh hơn cả. Nó ghé mắt vào khe hở mui đò, chăm chăm nhìn lên bờ, lầm bầm chửi.
- Mả cha hắn? Làm Việt gian mà coi bộ hống hách đã gớm? Ðến lúc tổng phản công thì mi có chạy đằng trời!
Người đàn ông ngồi xích lại gần ba đứa, nói vừa đủ chúng nghe:
- Lần sau các em phải gắng giữ thái độ bình tĩnh hơn nữa. Anh thấy mặt các em lúc đó cắt không được chút máu.
Ba đứa gật gật đầu, cùng nói:
- Thưa ba, chúng con xin nhớ ạ!
Và chúng cùng cất tiếng cười to.
2.
Các gia đình hồi cư kỳ quặc này chính là một tổ trong đội Thiếu niên trinh sát được cử về Huế hoạt động sau khi thành phố bị giặc chiếm được hơn hai mươi ngày. Người đàn ông là anh Ðồng, cán bộ của ban quân báo trung đoàn, mà anh em trong ban quen gọi là Đồng-râu.
Còn ba đứa trẻ là đội viên của Ðội.
Thằng bé mặt mũi xinh trai là Kim, cùng tổ với Tư-dát, hay làm điệu làm bộ, các bạn đặt tên cho là Kim-điệu. Thằng gầy nhom vẻ mặt liến láu chẳng phải ai xa lạ, chính là Tư-dát.
Thằng bé thứ ba, "con vợ cả" như anh Đồng-râu giới thiệu là Lượm, có cái răng cửa sứt, các bạn quen gọi là Lượm-sứt. Sau cái hôm Trung đoàn trưởng Hà Văn Lâu đến gặp đội ở chiến khu một, ông đã trực tiếp giao nhiệm vụ chiến đấu đầu tiên cho đội: Cử ngay một tổ trở lại Huế hoạt động quân báo, và một tổ ba đội viên khác làm nhiệm vụ liên lạc cho tổ quân báo từ Huế về chiến khu. Hai tổ này sẽ do một cán bộ của Ban Quân báo trung đoàn cử sang trực tiếp phụ trách. Anh Đồng-râu là chiến sĩ Vệ Quốc Ðoàn Nam tiến, chiến đấu suốt ở mặt trận An Khê, Phú Phong. Trước ngày Huế nổ súng kháng chiến ít lâu, anh được điều ra công tác ở trung đoàn Trần Cao Vân.
Trở lại Huế chiến đấu! Tin này làm cho cả đội em nào cũng thấy ruột gan nôn nao như say sóng. Tuy chưa biết đội trưởng sẽ cử ai, nhưng bọn trẻ suốt ngày hôm đó cứ bổi hổi bồi hồi, ngồi đứng không yên. Chúng cảm thấy vừa mừng vừa lo, vừa thích, vừa sợ...
Hôm đó, đội trưởng vào chiến khu hai làm việc với ban Tham mưu trưởng đoàn từ sáng sớm, mãi đến quá trưa anh mới về. Cả đội reo lên chạy ùa ra đón anh ở tận đầu dốc núi. Chúng hau háu nhìn cuốn sổ tay anh đang cầm tim đập thình thịch, hồi hộp, chờ đợi. Chúng biết chắc danh sách của tổ quân báo và tổ liên lạc đã ghi sẵn trong cuốn sổ tay bìa xanh kia. Ðứa nào sẽ được cái may mắn đáng mừng và đáng sợ đó?
Về đến lán, đội trưởng mở sổ tay lật lật các trang giấy ghi chi chít những chữ bút chì. Ðến một trang anh đặt cây bút chì vào đó rồi gập lại. Bọn trẻ nhìn nhau và nói với nhau bằng mắt: "Đợi đó! Chính là cái trang mà đội trưởng đánh dấu bằng cây bút chì ấy. Ðứa mô được về Huế đánh Tây đã nằm sẵn ở đó rồi."
Ðội trưởng tập hợp đội ngay trong lán. Anh nói với các đội viên nhỏ của mình, vẻ như muốn an ủi tất cả những đội viên nào không may không trúng vào danh sách của tổ quân báo và tổ liên lạc.
- Tất cả các em, theo anh nhận xét đều xứng đáng được cử về Huế làm nhiệm vụ. Nhưng tiêu chuẩn quan trọng đầu tiên mà Ban tham mưu Trung đoàn yêu cầu chọn các em vào tổ quân báo là phải ít nhiều biết tiếng Pháp. Vì các em lọt vào Huế sẽ phải hàng ngày đụng đầu với bọn Pháp, sẽ phải tìm cách bắt chuyện, nghe ngóng chúng để thu lượm tin tức...
Thế là đủ. Với tiêu chuẩn này bọn trẻ đã đoán được ngay những đứa nào sẽ được chọn.
Cả đội chỉ có Kim-điệu là học hết năm đệ nhất trường Khải Ðịnh, đọc sách tiếng Tây làu làu như cháo.
Tư-dát, và Lượm-sứt đã đỗ bằng "rim"... còn hầu hết chỉ mới học lớp năm lớp tư (bằng lớp một lớp hai bây giờ); một số em còn chưa biết chữ như Mừng, Ðối, Bồng, Hòa-đen .
Bọn trẻ đoán không sai, ba đứa được chọn vào tổ liên lạc là Hiền, Châu-sém và Bồng. Theo đội trưởng, tiêu chuẩn để anh chọn vào tổ liên lạc là thông thuộc đường lối từ Huế lên chiến khu, lại phải có sức khỏe, cặp giò dẻo cuốc bộ suốt ngày không biết mỏi.
Anh nhìn khắp lượt những gương mặt đang ỉu xìu vì không được chọn, nói thêm:
- Còn các em khác thì hãy sẵn sàng chuẩn bị tinh thần để nhận những nhiệm vụ còn nặng nề và nguy hiểm hơn cả nhiệm vụ của tổ quân báo và tổ liên lạc.
Nghe đến hai tiếng nguy hiểm, mặt bọn trẻ đang ỉu xìu vụt tươi lên hơn hớn.
* * *
Trưa hôm sau, đội trưởng dẫn sáu đội viên: Kim-điệu, Tư-dát, Lượm, Châu-sém, Hiền, Bồng trèo qua hai dốc núi đến lán làm việc của Ban Tham mưu trung đoàn.
Lê Hường, Trưởng ban quân báo Trung đoàn và anh Ðồng-râu làm việc với sáu đứa cho đến lúc mặt trời khuất núi.
Nhiệm vụ của tổ quân báo, kế hoạch lọt về Huế, những bước tuần tự phải làm khi đã đặt được chân lên Huế, kế hoạch liên lạc với tổ liên lạc với chiến khu...
Cả sáu đứa hết sức ngạc nhiên và khâm phục trước bản kế hoạch tỷ mỉ và chu đáo của người chỉ huy tình báo mới ngoài hai mươi tuổi này.
Công tác quan trọng đầu tiên mà tổ quân báo phải làm là mang theo một ngàn tờ truyền đơn về Huế. Và sau đó khi có lệnh, sẽ rải ở những địa điểm quy định.
Lê Hường chỉ mấy bó truyền đơn còn chưa ráo mực in để trên cái bàn ghép bằng cành cây, bốn chân bàn chôn xuống đất, nói với sáu chiến sĩ nhỏ tuổi:
- Truyền đơn ni kêu gọi đồng bào Huế mình hãy tin tưởng và ủng hộ kháng chiến, kháng chiến nhất định thắng lợi. Ðồng thời cảnh cáo bọn người cam tâm làm tay sai cho giặc. Chúng phải liệu hồn, cách mạng và kháng chiến ở ngay bên nách chúng, nếu chúng không sớm tỉnh ngộ, bỏ nghề Việt gian, thì kháng chiến sẽ mượn "cái đội mũ" của chúng. "Mượn cái đội mũ" của tụi Việt gian! Cả sáu đứa cứ cười khúc khích hoài với cái hình ảnh mới mẻ và lý thú này của anh trưởng ban quân báo. Lê Hường đẩy mấy bó truyền đơn tới trước mặt sáu đứa nói giọng cười cười:
- Tất nhiên là các em không thể xách truyền đơn mà đi về Huế như xách xâu thịt heo được! Các em phải tự nghĩ mẹo đưa nó qua lọt các trạm kiểm soát của tụi giặc. Khôn nhờ dại chịu đó nghe!
Mang cả ngàn tờ truyền đơn qua hàng chục trạm kiểm soát giặc không phải chuyện dễ. Không khéo lộ, bọn giặc cho ăn đạn như chơi.
Sáu đứa cùng với anh Đồng-râu họp bàn mãi. cuối cùng Lượm nghĩ được mẹo giấu truyền đơn vào giữa các lớp lá áo tơi lá.
Anh Đồng-râu lấy tiền của ban tình báo cấp, mua bốn cái áo tơi lá đã cũ của đồng bào ở chiến khu Hòa Mỹ. Bọn trẻ phải kỳ cục mất cả buổi sáng để gấp và nhét ngàn tờ truyền đơn vào bốn cái tơi lá. Bởi vậy mà khi nghe thằng Việt gian lục soát con đò, đá vào mấy cái tơi lá kêu loạc xoạc, Tư-dát muốn rụng cả tim và Kim-điệu thấy ớn cả xương sống.
Chuẩn bị xong xuôi, anh Đồng-râu và bọn trẻ cải trang làm một gia đình hồi cư, từ chiến khu băng đồi núi, qua đường quốc lộ về đồng bằng. Con đường quốc lộ khét lẹt mùi ô tô, mùi xăng- Những thôn xóm giặc vừa tràn qua, dấu giầy đinh còn chi chít trên các lối đi. Tre, cau đổ gục ngả nghiêng như sau một cơn bão lớn. Nhà cửa bị giặc đốt vẫn còn nghi ngút khói. Chúng gặp nhiều o, nhiều bà mệ, ông cụ vùa khóc, vừa kể lể, bới các đống tro than tìm những đồ đạc còn sót lại chưa cháy hết. Một em bé gái cổ chân đeo cái vòng bạc bị đại bác phanh ruột cạnh một gốc mít, ruồi nhặng bâu kín cả mặt em. Nhìn những cảnh tượng đó, lần đầu tiên sáu đứa được biết thế nào là lòng căm thù giặc. Ðó là một cái gì làm cho ruột gan chúng sôi sục lên. Một nỗi tức giận mà chúng chưa từng biết đến, bốc ngùn ngụt trong đầu. Trong giây phút ấy chúng bỗng thấy thèm ghê gớm có sức khỏe, có võ nghệ phi thường như Trương Phi, như Võ Tòng, như Tề Thiên Ðại Thánh, như Phù Đổng Thiên Vương. Chúng sẽ nhổ phăng cả cây mít to như cột đình kia, và cứ thế múa tít xông thẳng đến chỗ bọn giặc đang đóng. Chúng sẽ quật gốc mít vào bọn giặc cho xương thịt nát bét, bắn tung tóe khắp cả tỉnh Thừa Thiên...
Bồng và Châu-sém tính cục hay nổi nóng nhất đội.
Mắt hai đứa vụt đỏ kè như mắt con kỳ nhông lúc cắn nhau. Bước mấy bước hai đứa lại ngoái đầu nhìn xác em bé gái cổ chân đeo vòng bạc bị đạn giặc phanh ruột bên gốc mít. Hai đứa cùng lầm bầm chửi:
- Mả cha tụi Tây!
Mỗi lần đi ngang qua những ngôi nhà cháy có các o, các mệ vùa đào bới tro than, vừa khóc lóc kể lề, cả sáu đứa mặt đều cúi gầm và cố rảo bước thật nhanh. Chúng tưởng như các o, các mệ đều biết chúng là Vệ Quốc Ðoàn. Họ đang nhìn theo chúng, chỉ chỏ, xì xầm bàn tán: "Mấy cái thằng mang tơi lá vừa đi qua là Vê-cu-đê chính cống đó. Tụi hắn không vất súng chạy dài thì mô đến nỗi Tây đến được đây mà đốt hết cửa nhà của bà con mình?" Phải đi mất gần hai ngày hai tổ liên lạc và quân báo mới về đến chợ Sịa, một vùng quê cách Huế chừng mươi cây số. Sịa là một làng to giàu có, trù mật, bao quanh những trảng cát. Những người hồi cư tụ tập ở đây khá đông, sửa soạn đò giang xuôi sông về Huế. Nó phảng phất cái không khí vùng chợ Bao Vinh ngày Huế còn vây hãm giặc.
Sau khi bổ trí chỗ ăn ở của tổ liên lạc, giao cho Hiền làm tổ trưởng, quy định ngày giờ và mật hiệu liên lạc anh Ðồng-râu thuê chiếc đò nhỏ một mui đưa tổ Quân báo xuôi sông về Vĩ Dạ.
Ở Vĩ Dạ anh có người o ruột ngoài sáu mươi tuổi. Bà góa chồng sớm, chỉ có một người con trai đi bộ đội Nam tiến từ năm bốn sáu đến nay không có tin tức gì về. Bà sống một mình với túp nhà tranh nhỏ bé và khu vườn rào dậu kín đáo, trồng cây ăn quả. Tính bà rộng rãi và cứng đầu cứng cổ có tiếng ở trong vùng. Thấy việc phải, dù thiệt hại đến thân cũng làm, thấy việc chướng tai gai mắt là can thiệp. Cách can thiệp và chống lại những chướng tai gai mắt của bà là chửi, về khoa chửi của bà thì vô địch, chửi có sách, có vần, có vè, như bà con trong xóm thường nói.
Hồi quân ta còn vây giặc trong thành phố, bà con lối xóm tản cư hết, chỉ riêng một mình bà vẫn ở lại bám chắc lấy nếp nhà tranh và vườn cây quả của mình. Mấy lần anh Đồng-râu về giục o đi tản cư, nhưng bà đều khăng khăng: "Tau chẳng chạy đi mô hết. Sống chết nhờ trời. Nếu có rủi ro xuống phải đạn giặc mà chết thì chết ngay trên thềm nhà mình còn sướng hơn là chết đường chết chợ".
Anh Đồng-râu biết chắc o mình vẫn ở lại nhà. Anh quyết định đưa tổ quân báo về ở nhờ nhà o trong buổi đầu đặt chân lên Huế và sau đó sẽ tùy cơ ứng biến.
3.
Khoảng sáu giờ chiều, con đò về đến Vĩ Dạ. Từ Vĩ Dạ có đường cái lớn chạy thẳng về đến Huế và khoảng cách chừng hai cây số.
Kim-điệu, Tư-dát và Lượm thò đầu ra khỏi, mui đò, mặt ngớp ngớp nhìn về phía Huế, tim đập thình thịch trong lồng ngực. Chúng bồn chồn hồi hộp và cảm động đến nghẹt thở. Mới xa Huế chưa đầy tháng mà chúng có cảm tưởng như đã xa Huế hàng năm trời. Biết bao kỷ niệm da diết... Huế tưng bừng, sôi sục trong ngày tổng khởi nghĩa, Huế lẫm liệt ngang tàng nổ súng kháng chiến, Huế gầm thét dữ dội năm mươi ngày đêm vây hãm quân thù, Huế hài hước cười cợt bất cứ trong hoàn cảnh nào. Rồi bóng dáng thân thương những thằng bạn cùng đội mà nay không còn nữa... Những thằng bạn cùng hát chung một bài hát, cùng cắn chung một miếng bánh bột lọc, cùng đắp chung một chiếc mền, cùng lặn lội trong cái chiến hào mặt trận B, mặt trận C... Thằng Vịnh, thằng Để, thằng Lộc, thằng Sơn... Chúng đã mãi mãi nằm lại cùng với Huế ở cái tuổi mười ba, mười bốn, mười lăm. Những đứa trẻ bán báo đánh giày, bán kẹo gừng, đậu phụng rang, bán "cà-rem" đã chết cho Huế.
Chết vẻ vang, oanh liệt như những anh hùng trong sử sách xưa.
Tất cả, tất cả, hiện ra dồn dập trong trí nhớ chúng. Phút chốc ba đứa bỗng thấy mắt mờ đi, cảnh vật vụt nhòe như nhìn qua một tấm kính đục. Chúng đã khóc lúc nào không biết.
Anh Đồng-râu chui khỏi mui đò, bước đến đứng đầu mũi, đưa tay chỉ cho ông lão chỗ đò cập bến.
Con đò nhẹ nhàng ghé vào cái bến đất, có cây sung to mọc nhoài ra sông.
Bốn người tay xách bọc quần áo, khoác áo tơi lá, chào ông lão chèo đò, nối nhau bước lên bờ. Trời vẫn rả rích mưa, khoác tơi lá mà đi vào xóm thật hợp thời. Tư-dát nhìn trước nhìn sau không thấy ai, nói nhỏ với các bạn:
- Ước chi có tê-lê-phôn, quay lên Xê-ca báo cho tụi trên đó biết: Ba thằng mình đã đổ bộ an toàn lên Huế.
Anh Đồng-râu dẫn ba đứa đi men theo con đường đất pha cát ven sông, rẽ vào một đường kiệt hai bên hàng rào dâm bụt mọc cao quá đầu. Xóm vắng tanh. Bốn người dừng lại. Một nếp nhà tranh nằm sâu giữa một khu vườn xum xuê cây ăn trái: mãng cầu, chanh, bưởi, ổi, thanh trà. Xung quanh vườn cây kín hàng rào chè tàu cao quá đầu ba đứa. Cổng ngõ đóng kín bằng cánh cửa tre ken dày những cành tre gai.
Anh Ðồng-râu nhón chân nhìn qua hàng rào và gọi nhỏ:
- O ơi, o! O ơi!
- Chớ ai gọi chi ngoài đó rứa? Trong nhà có tiếng bà già hỏi vọng ra.
- Cháu đây o ơi! Thằng Ðồng đây mà o. Tiếng bước chân tất tưởi chạy ra. Cánh cổng tre hé mở. Trước mắt bọn trẻ là một bà già trạc sáu mươi. Tóc bà mới đốm bạc, chải gọn ghẽ, búi thành lọn sau gáy. Mắt bà tinh anh và lưng thẳng như lưng con gái. Anh Đồng-râu kêu "O!" còn ba đứa lễ phép chào "Chào mệ ạ?".
Bà già cứ đứng trân trân nhìn "bốn cha con", rồi bất chợt kêu lên giọng vừa mừng vừa lo:
- Ủi chao! chớ tụi bay về đây khi mô rứa?
- Vô trong nhà cái đã rồi cháu sẽ thưa chuyện với o.
Anh Đồng-râu quay lại giục ba đứa. - Vô nhà cả đi, mấy em vô nhà cả đi!
Trong lúc mấy "cha con" đi vô nhà thì bà o, bước ra đường ngó ngược ngó xuôi, rồi mới trở vô đóng cánh cổng cài thật chắc.
Trong nhà chẳng có đồ đạc gì nhiều. Một bộ phản mọt, cái chõng tre để bộ ấm chén, cây đèn dầu hỏa, mấy cái ghế đẩu. Chính giữa gian giữa, trên cao treo cái trang thờ Phật buông tấm màn vải điều, thoang thoảng mùi trầm hương. Chái nhà bên phải là gian buồng ngăn bằng liếp tre đan, cánh cửa cũng bằng tre, khép hờ.
Bà o bước vào nhà, hết nhìn anh Ðồng-râu lại nhìn ba đứa như vẫn chưa hết sửng sờ ngạc nhiên. Bà ngồi xuống phản, nói mà miệng hơi mếu:
- Rứa mà o cứ tưởng chẳng còn khi mô được gặp lại tụi bay nữa. Tây hắn thả truyền đơn nói là đã giết sạch các tụi bay rồi, xương cốt Vệ Quốc Đoàn chừ đã mục hết trên núi xanh. Ngó chỗ tụi bay mà o cứ tưởng nằm mê. Anh Đồng-râu cười:
- Miệng Tây đít trẻ còn lạ chi o ơi!
Tư-dát ngồi im từ nãy đến giờ đã thấy ngứa miệng, gặp dịp liền nói leo vô:
- Mệ ơi, xương cốt tụi cháu sắt nguội còn thua, dễ chi mục được mệ? Tụi cháu về đây là cốt để dần cho tụi Tây mục xương, để mệ coi cho sướng chơi. Bà o đang mếu phải phì cười:
- Được rứa thì mệ vật ngay con heo trong chuồng tê - bà chỉ xuống phía bếp - mệ khao tụi bay ngay.
Tối hôm đó bà cho "bốn cha con" ăn một bữa cơm khá thịnh soạn. Những món ăn mà mỗi người dân Huế, dù đi đến cuối đất cùng trời, nếm đủ cao lương mỹ vị cũng không thể nào quên được. Cá bống thệ kho khô, rắc hạt tiêu, thịt heo ba chỉ luộc chấm tôm chua, canh cá tràu nấu dưa chua, chao.
Đã lâu lắm mới ăn được một bữa cơm ngon miệng đến vậy, nên "bốn cha con" chẳng khách khí tí nào. Nhất là bọn trẻ, đứa nào cũng lén nới thắt lưng. Tư-dát lúc ngồi xuống ăn người như que diêm, lúc đứng dậy bụng như con ệnh oang.
Suốt bữa ăn bà o chỉ chống đũa nhìn "bốn cha con".
Bà thủ thỉ hỏi ba đứa nhà cửa ở mô, cha mẹ làm chi, có mấy anh chị em, đi việc nước từ khi mô. Nghe chúng kể, chốc chốc bà lại kéo vạt áo lau nước mắt, chép miệng nói:
- Nhỏ nhoi như các cháu mà đã biết bỏ nhà bỏ cửa, xa cha xa mạ để đi lo việc nước việc dân. đời mệ tra từng ni tuổi mới được thấy là lần đầu.
Tiện thể, anh Đồng-râu bắt luôn chuyện, muốn nhờ o nuôi giấu, che chở cho "bốn cha con" anh hoạt động.
Anh không ngần ngại nói cho bà rõ, việc chứa chấp "bốn cha con" anh, không phải là không nguy hiểm. "Nếu tụi Tây biết được, không tha chi chúng không đốt nhà o, cho o vô Lao Thừa Phủ cho rệp ăn thịt". Bọn trẻ rất không ngờ bà cụ già mau nước mắt này đã trả lời rất khẳng khái:
- Mấy đứa bay đầu còn xanh tuổi còn trẻ còn dám liều thân vì nước vì dân, huống chi o đây đã gần kề miệng lỗ lại còn tham sống sợ chết, tiếc của, tiếc nhà. Chuyến ni o cũng quyết liều cái mạng tra với ba toong Tây một phen. Sống mà để tụi hắn đè đầu cưỡi cổ thì thà chết còn hơn!
Cơm nước xong xuôi, o đi dọn dẹp chỗ ngủ cho "bốn cha con". Bà nói: "Tụi bay phải đi ngủ sớm để còn lấy sức mà lo việc nước". Ba đứa vừa đặt lưng xuống phản mắt đã ríu lại. Chúng ôm nhau ngủ say mùi mẫn, anh Đồng-râu còn ngồi lại nói chuyện với bà o bên ngọn đèn vặn nhỏ. Anh bàn tính với o kế hoạch che mắt bà con hàng xóm và tai mắt tụi ngụy quyền, việc "gia đình" anh đến ở nhờ nhà o.
Quá nửa đêm Tư-dát bỗng tỉnh giấc. Nhà tối om, gió thồi xào xạc ngoài vườn khuya. Bà mệ ngủ trong buồng, anh Đồng-râu ngủ trên chõng tre, im ắng lạ lùng. Tư-dát lay lay Lượm nằm sát bên cạnh, thì thào gọi :
- Lượm-sứt? Lượm-sứt!
Lượm vốn rất tỉnh ngủ. Ngủ đang say thế mà Tư-dát mới gọi nhỏ hai tiếng nó đã choàng ngay dậy. Nó hỏi khẽ giọng lo lắng:
- Có chuyện chi rứa mi? - Ðầu nó hơi ngóc lên lắng nghe động tĩnh xung quanh.
- Tau đau bụng quá! - Tối om, không nhìn rõ mặt, nhưng nghe giọng Tư-dát, Lượm cũng biết Tư-dát vừa nói vừa nhăn nhó.
- Chắc tại tối qua mi ních nhiều quá chớ chi? Tham thực thì cực thân mi ơi!
- Thì mi ních cũng kém chi tau! - Tư-dát làu bàu cãi lại.
- Mi lấy dầu hỏa bôi vô giữa rốn. Hồi ở nhà hễ đau bụng tao cứ bôi dầu hỏa là khỏi.
- Nhưng tao mót đi ca-bi-nê.
- Thì đi đi.
- Nhưng tối quá! mà tao không biết chuồng tiêu chỗ mô- Ðánh thức mệ dậy hỏi, tao ngại lắm.
- Mi cứ mò ra sau nhà đi tạm. Mai dậy thật sớm mà hót, mệ không biết mô.
- Ừ, rứa tao đi nghe! - Giọng Tư-dát coi bộ đã cuống quít lắm.
Lượm cố nhịn cười, giục:
- Mau lên không lại tháo ra quần thì ê chệ lắm mi ơi!
Tư-dát tụt xịch xuống phản. Lượm dặn với theo:
- Mệ già tỉnh ngủ lắm đó. Mi phải cố đi nho nhỏ nghe. "Bắn súng máy" vô cho lắm, mệ nằm trong buồng nghe tiếng là "lộ bem" ngay.
- Nhưng lỡ không... ấy được thì làm răng
- Rứa thì cố nín hơi, rặn từ từ. Hãm bớt "ga" lại, đừng có bắn liên thanh mà phải chơi phát một "cú pạc"
Tư-dát "Ừ, ừ" lia lịa, sờ soạng trong bóng tối, rút then, kéo nhẹ cánh cửa lách ra ngoài.
Lượm vừa đặt lưng nằm xuống đã nghe phía sau hè nhà tiếng pành pạch nổi lên liên tiếp. Nó giật mình lẩm bẩm.
Chết cha rồi! Anh Tư-dát không hãm được "ga" bắn ghê quá. Nó vội vàng ho lên sù sụ để át bớt tiếng "súng liên thanh" của Tư-dát. Hễ sau nhà tiếng pành pạch nổi lên, nó lại họ sù sụ, hết pành pạch nó lại im. Phối hợp rất ăn khớp, nhịp nhàng.
Sáng hôm sau, anh Đồng-râu bảo Lượm:
- Em phải giữ ấm cổ, lấy phula quàng vào. đêm qua anh nghe em ho nhiều lắm đó.
Lượm cười khúc khích, ghé vào tai anh thì thầm.
Anh tủm tỉm cười rồi cốc vào đầu nó.
- Anh đến chịu tụi bay! - Quay sang hỏi Tư-dát. - Ðã dọn sạch chưa?
Tư-dát liến thoắng:
- Em giải quyết xong "chiến trường" từ lúc trời chưa sáng.
4.
Sau bữa cơm sáng, anh Đồng-râu họp tổ để giao nhiệm vụ.
Trước khi bàn vào công việc, anh nhắc lại những nguyên tắc mà mỗi đội viên quân báo hoạt động trong lòng địch phải tuyệt đối tuân theo.
-"Giữ bí mật cho đội!" lời thề của toàn đội trước bàn thờ TỔ QUỐC hôm làm lễ tuyên thệ chính lúc này đây cần phải ghi nhớ, giữ trọn, hơn lúc nào hết.
"Giữ bí mật" là nguyên tắc quan trọng hàng đầu của công tác quân báo. Một sơ hở nhỏ, lộ bí mật, có thể làm hỏng hết mọi việc, bản thân mình và đồng đội dễ dàng sa vào tay giặc, bị tù đày, bị giết. Nếu không may bị giặc bắt được thì mỗi đội viên phải làm đúng lời thề thứ năm trong mười lời thề danh dự của Vệ Quốc Ðoàn: "Lỡ bị quân thù bắt dược, dù bị cực hình tàn khốc đến thế nào, cũng quyết không bao giờ phản bội xưng khai"
Ðể khắc sâu thêm ý nghĩa thiêng liêng của lời thề vào trí nhớ ba chú đội viên nhỏ, anh Đồng-râu kể cho chúng nghe những tấm gương bất khuất của các bậc cách mạng tiền bối như: Trần Phú, Hoàng Văn Thụ, Lê Hồng Phong. Riêng Lượm nó muốn kể thêm vào bên cạnh tên những nhà cách mạng lừng danh trong cả nước đó, tên người cha thân yêu của mình: Trần Hàm. Cha Lượm bỏ nghề dạy học đi làm chánh trị cộng sản. Năm 1934 (lúc Lượm mới hai tuổi) cha bị tụi Pháp bắt được. Tụi mật thám tra tấn cha chết đi sống lại nhiều lần, bắt khai tên các đồng chỉ của cha. Nhưng cha đã khinh bỉ trả lời chúng: "Tên các đồng chí của tôi, tôi biết là để mưu đồ việc cách mệnh chứ không phải để khai ra với các người!" Chúng đày cha lên Buôn Mê Thuột. Cha vượt ngục, chúng bắt lại, cha lại vượt ngục, vượt đúng năm lần, rồi bị bắt lại. Chúng đày cha ra Côn Lôn, và bắn chết ở ngoài đó. Sau ngày cách mạng thành công, dân làng Thượng Thủy đã nhất trí đồng thanh đặt tên cho con đường cái chính chạy qua làng là đường Trần Hàm.
Gian nhà cửa đóng kín, tối mờ mờ- Mùi nhang thắp trên trang thờ Phật tỏa ngào ngạt. Tổ quân báo ngồi quây quần trên phản gỗ. Giọng anh Đồng-râu kể nho nhỏ vừa đủ cho ba chú đội viên nghe. Bà o ở trước vườn, vừa cuốc xới vừa làm nhiệm vụ canh gác. Không gian một màu xám nhạt rây rây làn mưa bụi đầu xuân. Cuộc họp thân mật, đơn sơ nhưng không khí nghiêm trang, cảm động khác thường. Ba đứa ngồi xếp bằng tròn, không nhúc nhích, mắt mở to chăm chú như nuốt từng lời kể. Nghe chuyện nhà cách mạng Lê Hồng Phong trong tù bị giặc đánh vào đầu giữa lúc đang bưng bát cơm ăn, máu đầu chảy chan đỏ cả bát cơm. Lê Hồng Phong không thèm kêu một tiếng đưa bát cơm lên miệng, và cơm nhai nuốt, chẳng coi tụi giặc ra chi. Ba đứa thấy khắp người nổi hết gai ốc. Chúng kiêu hãnh nhủ thầm: "Rứa mà chừ đây được là cháu của Lê Hồng Phong, được làm đội viên quân báo của trung đoàn, chui hẳn vào giữa bụng giặc mà đánh chúng, thật sướng nhất đời. Rồi mai đây có thể tụi giặc bắt được mình bỏ tù, tra tấn hoặc đem mình đi bắn như Hoàng Văn Thụ, như Trần Phú, và nếu mình trung thành, bất khuất, cũng dám như Lê Hồng Phong bưng bát cơm chan đỏ máu đầu lên miệng mà và, thì mấy chục năm sau chắc cũng sẽ có người kể lại chuyện mình cho tụi con nít nghe như bữa ni anh Đồng-râu kể với tụi mình".
Và trong giây phút đó, cả ba đứa cảm thấy thèm muốn ghê gớm được lập ngay những chiến công thật vang dội; được mặt đối mặt với kẻ thù để tỏ rõ lòng gan dạ, bất khuất, trung thành với TỔ QUỐC; được chết thật vẻ vang, thật oanh liệt...
Anh Đồng-râu đã kéo chúng ra khỏi những mơ ước sôi nổi, và đòi hỏi chúng phải tuân theo những kỷ luật cần thiết trước mắt, rất bình thường nhưng lại rất khó khăn. Anh nói:
- Các em tuyệt đối không được liên lạc với gia đình. Theo anh biết thì các em đều có gia đình, họ hàng, bà con ở Huế, có thể là họ đã hồi cư. Các em phải cố hết sức tránh mặt những người quen, dù là cha mạ, anh, chị. nếu bất thình lình gặp họ dọc đường. Gặp người quen hoặc gia đình, các em sẽ rất khó lòng, dấu được các em trở về Huế để làm gì. Việc lộ bí mật là bắt đầu từ đó.
Anh ngừng lại, nhìn chằm chằm cả ba đứa.
Cặp mắt ẩn dưới đổi mày mũi mác rất rậm, ánh lên vẻ nghiêm khắc. Anh nói giọng gần như ra lệnh:
- Các em nhớ chứ?
- Dạ nhớ ạ.- Cả ba đứa cùng đáp, mắt cúi nhìn xuống, chột dạ trước lời dặn nghiêm khắc và khá bất ngờ với chúng.
Thật tình, vừa đặt chân lên Vĩ Dạ cả ba đứa đã có ngay ý định sẽ lẻn tìm về thăm nhà. Bây giờ thế là hết.
Anh Đồng-râu như đi guốc trong bụng chúng. Chúng thầm nghĩ vậy. Và anh đã ngăn chặn, răn đe.
Anh giao nhiệm vụ cho từng đứa: Kim phụ trách khu vực mặt trận B cũ, Tư-dát khu vực mặt trận C, và Lượm khu vực mặt trận A cũ. Trong vòng ba ngày, mỗi đứa phải cố gắng thu lượm sơ bộ tình hình và tin tức hoạt động của địch trong khu vực được phân công: Những nơi bọn giặc đóng quân, nơi chúng để kho tàng quan trọng như đạn dược, xăng, lương thực. những cầu cống bị phá sập đang được chúng sửa hoặc xây lại, những địa điểm chúng đặt công sở v.v... Những vị trí trọng yếu phải vẽ sơ đồ... Anh nhấn mạnh thêm:
- Hiện nay ban Tham mưu trung đoàn đang rất nóng ruột chờ tổ chúng ta cung cấp những tin tức tình báo này.
Anh vạch kế hoạch cho chúng khi vào thành phố hoạt động sẽ đóng giả những chú bé chạy tản cư bị lạc mất cha mất mạ, lần mò về Huế để tìm gia đình... Nếu bọn giặc chặn xét hỏi thì tuy cơ ứng đối. Sau này tùy tình hình, anh sẽ nghiên cứu bố trí cho mỗi đứa làm một công việc gì đó thích hợp như bán báo, đánh giầy hoặc cắp sách đi học, để tiện việc đi lại và che mắt địch.
Riêng Lượm, anh giao nhiệm vụ trong ngày mai phải trở về Sịa gặp tổ liên lạc, thông báo cho tổ liên lạc biết tình hình của tổ quân báo, bàn định kế hoạch ngày giờ, địa điểm gặp gỡ để nhận tin tức, và kế hoạch bố trí đường dây liên lạc từ thành phố về chiến khu.
Một tuần lễ trôi qua. Công việc của tổ tình báo chạy đều và khá tốt. Tuy mới vào nghề nhưng cả ba đứa đều tỏ ra có năng khiếu tình báo. Chúng nhanh trí tháo vát, thông minh và đặc biệt tích cực. Những tin tức, tình hình địch chúng thu lượm được, gửi về C.K. được Ban Tham mưu trung đoàn đánh giá cao. Đích thân trung đoàn trưởng đã gửi lời về biểu dương khen ngợi chúng.
Thành phố Huế lúc này người hồi cư đã khá đông. Một số hiệu buôn, hàng ăn uống, hàng tạp hóa đã mở cửa. Các chợ Đông Ba, An Cựu, Bao Vinh, người họp đã gần kín chợ. Ngày càng có nhiều người từ các làng quanh thành phố vào mua bán, sắm sanh đồ lề. Trên sông Hương ghe đò xuôi ngược. Trên đường phố nhộn nhịp trẻ con bán kẹo gừng, bán báo, cà- rem, đậu phụng rang, bánh mì nóng giòn... đi lại lăng xăng, rao hàng inh ỏi. Nhờ vậy, việc trà trộn đi lại để làm nhiệm vụ của tổ tình báo ngày càng thêm thuận lợi.
Ba đứa hàng ngày phải luôn luôn đụng đầu với bọn lính Pháp, Bảo Vệ Quân, Cảnh Sát, An Ninh, nên dạn dĩ dần nên. Và chỉ sau một tuần, chúng đã học được khá nhiều cách đối phó, nghĩ được khá nhiều mưu mẹo để đánh lừa, che mắt bọn này.
Sau mỗi ngày hoạt động ba đứa lại trở về Vĩ Dạ gặp anh Đồng-râu, báo cáo công tác và nhận nhiệm vụ mới.
"Bốn cha con" lại ngồi quây quần chung quanh mâm cơm tối, vừa ăn vừa chuyện trò. Chúng kể cho anh nghe những tin tức, tình hình địch thu lượm được trong khu vực phụ trách, những tình huống khó khăn hiểm nghèo chúng vấp phải, những sáng kiến chúng ứng phó để thoát ra... Anh thủng thẳng và cơm, lặng nghe chúng.
Qua những báo cáo miệng của chúng, anh tổng hợp lại, và đã dần dần nắm được tình hình của bọn giặc trong thành phố Huế. Trong bụng anh rất vui vì nhận thấy ba chú đội viên nhỏ của mình tiến bộ rất nhanh trong công tác mới mẻ, khó khăn, và nguy hiểm này. Với mỗi đứa anh đều có nhận xét, góp ý trong từng trường hợp cụ thể. Qua đó, anh bồi dưỡng, huấn luyện cho chúng về nghiệp vụ tình báo, và uốn nắn những hớ hênh, thiếu sót sai lầm mà chúng có thể mắc phải. Và không lần nào anh không nhắc đi nhắc lại với ba đứa phải tuyệt đối giữ bí mật, không được chủ quan, không được tếu trong công tác.
Khi ba đứa ôm nhau ngủ say trên bức phản gỗ mọt anh ngồi xuống bên ngọn đèn tù mù, kê trên chiếc chõng tre, viết báo cáo trên những tờ pơluya rất mỏng, để hôm sau Lượm kịp chuyển về cho tổ liên lạc, gửi lên chiến khu.
5.
Một buổi sáng, Lượm mang báo cáo của anh Đồng-râu về Sịa cho tổ liên lạc. Đây là lần thứ năm, nó mang báo cáo về Sịa, kể từ ngày tổ tình báo đặt chân lên Huế.
Ði liên lạc từ Huế về Sịa mỗi ngày một trở nên khó khăn, nguy hiểm. Bọn giặc bắt đầu đánh hơi thấy có nhiều bộ phận của Việt Minh, trà trộn theo những người hồi cư, lọt về Huế. Lác đác nơi này nơi khác trong thành phố đã có những tên mật thám, việt gian bị bắn chết; lựu đạn nổ trong công sở, truyền đơn kêu gọi kháng chiến rải trên đường phố, ở chợ hoặc dán ở những chỗ đông người qua lại.
Để ngăn chặn sự xâm nhập đáng sợ của Việt Minh, bọn giặc cấp tốc dựng thêm nhiều trạm kiểm soát dọc các con đường ra vào thành phố. Trên sông, chúng lập những trạm kiểm soát lưu động bằng thuyền, xuồng máy. Ðàn ông, đàn bà, cả trẻ con ngang qua trạm kiểm soát chúng đều chặn lại khám xét rất gắt gao. Chúng còn tổ chức nhiều cuộc vây ráp, khám xét bất thình lình ở khắp các ngả đường.
Qua mấy lần đi liên lạc, lần nào Lượm cũng bị các trạm kiểm soát chặn lại khám xét rất kỹ. Nhưng nhờ gan dạ, bình tĩnh, nhanh trí, Lượm đều đi về trót lọt.
Tất nhiên cũng có những lần chúng làm cho Lượm toát mồ hôi hột.
Mỗi lần đi, Lượm đều thay đổi cách cất giấu tài liệu và cách hóa trang. Lần nó đóng vai thằng nhỏ đi chợ tay xách giỏ rau, tay xách mấy con cá tràu, cá trê; dây lạt xâu mang. Báo cáo, tài liệu nó cuộn tròn, bọc giấy bóng, nhét sâu vào bụng cá. Đến nơi, thằng Hiền, Tổ trưởng tổ liên lạc phải dùng dao mổ bụng cá mới lấy được tài liệu ra. Có lần nó đóng vai cháu đi về quê thăm bà ngoại, tay xách một xâu bánh ít. Ruột bánh đã được Tư-dát khéo léo moi hết tôm thịt ra chén, và nhét thay vô đó tài liệu. Có lần nó giả làm thằng bé chạy chơi lêu lổng ngoài đường. Chân đất, đầu không nón không mũ, mặc phong phanh cái áo sơ mi cộc tay với quần đùi. Tay nó cầm đẫn mía, vừa đi vừa cắn, nhai, hít nước ngọt, nhả bã. Ngang trạm kiểm soát, bọn giặc chặn nó lại, bắt giơ cao hai tay lục tìm khắp người. Bọn giặc cứ việc soát nó cứ bình thản cắn mía, nhai rạo rạo, hít nước, nhả bã. Nước mía nhễu cả xuống cằm. Soát không thấy gì, bọn giặc cho nó đi. Nhưng nó chưa đi vội, cứ đứng đó cắn tước mía, làm ra vẻ tò mò xem chúng lục soát những người qua đường khác. Nó còn cố ý làm vướng chân vướng cẳng bọn cảnh sát, làm chúng phát cáu.
Một thằng quất cho Lượm một roi cặc bò quắn mông đít trợn mắt chửi:
- Con mạ mi còn đứng đó làm chi?Ccút!
Bấy giờ nó mới ôm mông đít, nhăn nhó xuýt xoa, rồi cắm cổ chạy biến. Tài liệu nó gấp nhỏ đặt giữa lòng bàn tay cầm đẫn mía: Cách giấu này có vẻ như rất hớ hênh nhưng lại rất kín đáo. Kín đáo vì bất ngờ. Bọn giặc kiểm soát không thể ngờ tới được.
Lần đi liên lạc này, Lượm đóng giả một thằng bé đi bắn chim. Đầu nó đội cái mũ phở, áo sơ mi cộc tay, quần "sóoc" xanh vá đít. Một tay cầm súng cao su lắp sẵn viên đạn sỏi, tay xách xâu chim bắn được: Ba con sẻ, một con chào mào, một chim cu gáy. Hai túi quần nó cộm lên những viên sỏi, viên nào cũng tròn vo, những viên đạn sỏi xứng đáng với một tay bắn súng cao su thiện nghệ. Nó phải mất khá nhiều công phu chọn những viên đạn sỏi này ở mấy đống sỏi ven đường. Tuy mới vào nghề tình báo, nhưng nó đã thấu hiểu đôi khi chỉ vì một sơ suất rất nhỏ trong công tác mà hỏng mất việc lớn, có thể nguy hiểm đến tính mệnh. Ví dụ: Nếu không chịu khó, bốc bừa một nắm sỏi bỏ túi gọi là cho có. Những cặp mắt cú vọ của bọn giặc kiểm soát có thể đánh dấu hỏi: "Với những viên sỏi ba vạ như ri mà nó bắn trúng chim được à? Thằng ni chắc chưa biết bắn súng cao su. Nhưng làm răng hắn lại bắn được cả một xâu chim kia?" Thế là chúng sẽ nghi ngờ, khám xét kỹ hơn và thế là tài liệu cất bị phát hiện.
Trong tổ chỉ có Tư-dát là thiện nghệ bắn ná cao su.
Hồi còn đánh nhau ở Huế, cả đội đều phải ghen với nó về tài bắn ná. Cái ná cao su Lượm đang cầm chính là mượn của Tư-dát. Tư-dát có thói quen, bắn được con chim nào đều lấy máu bôi vào cán ná để lấy khước. Do thế, cái cán ná gỗ ổi đen kịt những máu khô. Còn xâu chim thì chiều qua, Lượm sang tận chợ Bến Ngự mua của mấy ông đi bẫy chim, bằng tiền của quỹ quân báo.
Sáng nay, nó buộc chân treo từng con chim một lên,. nhờ Tư-dát bắn chết. Nó cuộn, xe tròn bản báo cáo của anh Đồng-râu thành cái que nhỏ bằng mút đũa, dài bằng ngón tay trỏ. Nó vạch mỏ con chim ngói, đút cuộn báo cáo vào bụng. Nhưng nghĩ ngợi thế nào nó lại rút ra, đút vào bụng con chào mào- Nó lấy dây buộc chim chết thành một xâu. Tất cả phải làm cho thật giống, thật tự nhiên, hệt một tay bắn chim thiện nghệ, làm cho bọn giặc kiểm soát không một chút mảy may nghi ngờ.
Suốt dọc đường đi, thỉnh thoảng nó nghếch nghếch mặt nhìn ngọn cây, nghiêng nghé, chăm chú tìm chim cúi lom khom, giương ná lên lại hạ ná xuống. Mấy lần làm như quá mải mê, nó vờ suýt đâm sầm vào những người qua đường làm họ gắt ầm lên.
Bọn con nít gặp nó dọc đường, đều nhìn xâu chim nó xách tòng teng, trầm trồ thán phục. Lúc đó mặt nó hơi vênh lên, tỏ vẻ ta đây thiện xạ tài ba. Tất cả đều phải cho thật giống như một diễn viên giỏi lúc lên sân khấu.
Qua khỏi cầu Bao Vinh một quãng, nó chạm trán một trạm kiểm soát lưu động của bọn cảnh sát. Trạm có ba thằng. Chúng hỏi:
- Thằng tê? đi mô?
- Em đi bắn chim chơi! - Lượm đưa xâu chim lên trả lời như khoe.
Một thằng hai má gày hóp, cặp mất sâu như hai lỗ đáo, để ria con kiến, lưng gù gù, "giò heo" đeo xệ bên hông, không nói không rằng thọc tay vào túi áo túi quần Lượm, lục soát. Hắn sờ nắn khắp tà áo, lưng quần, cổ áo, lai quần. Hắn lật cả cái mũ phở Lượm đội, xem xét kỹ bên trong mũ. Bọn nầy vừa được sở mật thám phòng Nhì Pháp phổ biến: Tụi liên lạc Việt Minh hay cất giấu giấy tờ vào các chỗ kín đó.
Soát không thấy gì, hắn trợn mắt nạt nộ:
- Chim nhà nước nuôi, ai cho mi được phép bắn.
Và nó giật luôn xâu chim trong tay, Lượm. Lượm tái mặt. Một tình huống hoàn toàn bất ngờ. Nhưng chỉ một thoáng nó đã lấy lại được bình tĩnh, nói với giọng thật ngây thơ, dễ thương:
- Bác cho cháu xin. Cháu bắn nó đậu trên cây mà.
Thằng cảnh sát đứng cạnh, miệng sáng lóa răng vàng, cười hô hố:
Thằng ni nói lạ, chim không đậu trên cây thì đậu trong chảo mỡ phi hành à?
Lượm nhìn ba tên giặc giận tím ruột, nhưng mắt phải làm như sắp khóc, nói giọng van vỉ:
- Các bác có lấy thì lấy con chim cu, to mà béo. Cho cháu lại mấy con chim nhỏ (nó cố tránh tiếng chào mào) không tí nữa về nhà, em cháu nó đòi, nó khóc, dì ghẻ đánh cháu chết mất.
Vẻ mặt và giọng van xin của Lượm hình như cũng làm chúng động lòng thương hại. Thằng răng vàng đầy mồm nói với thằng cướp xâu chim:
Thôi "xếp" quăng lại cho nó mấy con chim sẻ, ăn không dính chân răng mà vặt lông cũng đủ hết ngày hết buổi.
Hắn cầm lấy xâu chim trong tay thằng để ria, đưa tay nắn nắn, bóp bóp lườn con chim cu, đầu gật gù: "Con cu gáy béo thiệt! béo thiệt."
Trong khoảnh khắc ấy, Lượm có cảm giác đang đứng cheo leo bên một bờ vực sâu hun hút, và dưới đáy vực là lởm chởm đá nhọn. Hai mắt nó tối sầm lại vì một nỗi kinh hoàng không sao lấn lướt nổi. Chỉ cần thằng cảnh sát ngứa tay nắn cổ con chào mào... thế là đi đứt!
Một dự tính lướt qua rất nhanh trong óc nó. Nếu tay hắn nắm qua con chào mào, và mặt hắn đổi sắc là mình sẽ lao ngay ra bờ sông, nhào xuống nước, lặn một hơi ra đến giữa sông, rồi lặn một hơi nữa qua thấu bên kia bờ.
Nó chăm chăm nhìn mặt thằng cảnh sát, mắt quên chớp. Nó bỗng thấy người nhẹ hẳn đi, như đang bơi gần kiệt sức, sắp chìm nghỉm, hai chân bỗng chạm nền đất cứng... Tên răng vàng đầy mồm bứt con chim cu ra khỏi xâu chim quăng trả lại mấy con sẻ và con chào mào cho nó. Nó đưa tay hứng xâu chim. Và trong đời nó chưa bao giờ biết mừng rỡ như lúc này.
Thằng để ria vẫn với giọng nạt nộ:
- Lần ni thì ông nội mi tha cho mi! Lần sau mà còn bắn bậy chim của nhà nước, ông nội mi cho tù mọt gông nghe chưa? A lê! cút!
- Dạ! Lượm xách xâu chim đi như chạy, làm như sợ chúng sẽ cướp lại. Ði một quãng đã khá xa, nó còn nghe tiếng cười hô hố của cái thằng miệng đầy răng vàng đuổi theo. Bất giác, nó thấy hai mắt mờ đi. Nó đưa tay lên vuốt mặt. Mặt nó mồ hôi chảy lút, như vừa bị ai dội lên đầu cả một gầu nước đầy.
6.
Lượm xách xâu chim về đến đầu làng Mậu Tài, một làng nghe nói bọn giặc đã lập xong hội tề. Trước mặt nó là chiếc cầu ván, bắc qua con hói nước đục như nước hến, chảy lờ đờ. Ngay đầu cầu bên kia, một cây si cổ thụ, cành lá ngã ra che rợp đến hai phần cầu. Mặt trời gần đứng bóng, đường vắng tanh, không một bóng người qua lại trên cầu. Chỉ có một thằng ngồi câu cá bên mép cầu.
Thằng câu cá trạc tuổi Lượm, cởi trần, mặc cái quần đùi đen bạc phếch hai ống vo lên đến bẹn. Ðầu nó đội cái nón mê sùm sụp mặc dầu cầu rợp bóng mát. Nước da nó cháy nắng, đen thui, đen như cái cần câu hóp gác giàn bếp nó đang cầm trong tay. Nó ngồi câu coi bộ chăm chú lắm, cái cần câu không động đậy.
Vừa nhác thấy thằng câu cá, tự nhiên Lượm chột dạ, chân hơi khựng lại, tưởng như trên cầu bất ngờ xuất hiện một trạm kiểm soát của bọn giặc. Lượm nhớ rất rõ, ba lần trước đi qua cầu, đều gặp đúng cái thằng câu cá nước da đen thui này, và lần nào, Lượm đi ngang qua sau lưng hắn, hắn cũng làm như vô tình, ngoái đầu lại, nhìn vào mắt Lượm. Khuôn mặt hắn to bè bè, mũi hếch ngược, trán vừa hẹp vừa thấp, coi bộ rất ngu, nhưng riêng cặp mắt hắn thì thật đáng gờm. Cặp mắt vụt lóe sáng dưới vành nón mê rách tả tơi, chỉ trong khoảnh khắc mà xuyên thấu ruột gan Lượm.
Hắn chỉ nhìn Lượm một cái, lẹ như chớp, rồi quay ngoắt lại, cúi xuống với cái phao nổi lềnh bềnh trên mặt nước. Nhưng không hiểu sao, Lượm cảm thấy ánh nhìn chớp lóe, xoi mói của hắn cứ như dính chặt vào người, và theo suốt cả chặng đường liên lạc. Lượm đã báo cáo chuyện này với anh Đồng-râu, anh có vẻ suy nghĩ hung lắm, và lần nào trước khi ra đi anh cũng dặn: "Em nhớ cẩn thận với thằng câu cá. Nếu có thể tránh hắn được thì em phải tìm cách tránh".
Lần này, Lượm đã đổi giờ đi, hy vọng sẽ không gặp hắn. Nhưng không ngờ hắn đã ngồi chực sẵn đó rồi.
Lượm muốn lộn lại, lội hói vòng qua cánh đồng, nhưng không được. Nó có cảm giác thằng câu cá đã nhìn thấy nó từ xa. Nếu lộn lại, hắn sẽ nghi ngay. Chỉ còn một nước là phải đi thẳng tới, đối đầu với nguy hiểm.
Lượm làm bộ rất thản nhiên bước lên cầu. Ðến giữa cầu, nó dừng lại chỉ cách thằng câu cá vài bước chân, nghếch mặt nhìn ngọn cây tìm chim... Nó muốn tỏ cho thằng này biết mình hoàn toàn vô tâm, chẳng hề chú ý gì đến hắn. Thằng câu cá vẫn không hề ngẩng mặt lên. Mấy lần nó đưa ná lên lại hạ xuống làm như con chim định bắn bay mất rồi. Cứ thế nó đi qua cầu, mặt vẫn ngước nhìn ngọn cây. Qua khỏi cầu chừng mấy bước, nó làm như mải nhìn đuổi theo đường bay một con chim, ngoái đầu lại. Và ngay lúc dó. mắt nó chạm phải cặp mắt lóe sáng của thằng câu cá, nó vội ngước nhìn lên ngọn cây, tránh cặp mắt của hắn, nó kéo ná cao su bắn bừa một phát, óc thì nghĩ: "Đúng thằng ni ngồi chực ở đây để theo dõi mình chứ câu kéo chi?" Ði cách cầu chừng vài trăm thước, Lượm bỗng có cảm giác có người theo sau lưng mình- Nó ngoảnh lại: Thằng câu cá! Hắn đã rời chỗ câu từ lúc nào, vác cần câu trên vai, đi theo sau Lượm chỉ cách mấy chục bước.
Trống ngực Lượm đập thình thịch. "Tổ cha mi! - nó tức tối chửi thầm - mi định gây sự với tau chắc?" Nó cố rảo bước nhanh hơn, gặp một con đường kiệt, nó rẽ luôn và nghĩ bụng: "Nếu hắn không rẽ theo mình, là mình chỉ sợ bóng, sợ gió"- Nhưng khi ngoái đầu, nó thấy cái nón mê rách bươm của thằng câu cá, nhấp nhô đằng sau. Biết không xong với thằng câu cá mà không thể lẩn vào đâu được, nó đành quay phắt lại thủ thế. Nó gằn lên trong cổ họng: "Mi đã muốn sinh sự thì tau quyết chơi nhau với mi một trận cho mi biết tay. Nhỏ tau là nhỏ Vệ Quốc Ðoàn, có mô tau sợ mi?" Thằng câu cá vác cần câu lừng lững đi đến. Còn cách Lượm vài bước, hắn đứng lại, đưa tay hất cái nón mê về đằng sau. Lượm tức tối trừng mắt nhìn hắn- Hắn chẳng phải tay vừa, trừng cặp mắt ốc nhồi nhìn lại, ra vẻ: "Mi chẳng dọa nổi tau mô!" Trông hai đứa, giống hệt cặp gà trống choai sắp sửa nhảy vào đá nhau.
Thằng câu cá hất mặt, hỏi trống không, đặc giọng anh chị:
- Ni, đi mô mà coi bộ hấp ta hấp tấp dữ rứa?
Cái mặt ngạo và giọng hỏi anh chị của hắn làm - Lượm nổi xung:
- Đi mô thì việc chi đến mi? - Lượm cũng hất mặt đáp lại giọng anh chị không kém.
- Không việc chi à? - Hắn cười khẩy. Tau đi guốc trong bụng là mi đi mô rồi. Hỏi là hỏi chơi rứa thôi. Tau gặp mi qua lại cầu ni ba lần. Mòn cả mặt!
Lượm cũng giở giọng khinh khỉnh đáp:
- Qua lại mấy lần thì mặc kệ người ta, việc chi đến mi mà cũng xỏ mồm vô?
Hắn bỗng quăng cái cần câu đang vác trên vai xuống đất, chỉ tay vào mặt Lượm, nói như quát:
- Tau biết mi là ai rồi? Ðừng có lấy vải sưa mà che mắt thánh!
- Ai? - Lượm quát trả.
- Là Việt Minh chính cống? Tau phải trói cổ mi đem nộp cho ông lý trưởng để ông đem lên đồn nộp cho Tây. Ông lý làng tau ra lệnh hễ ai bắt sống được Việt minh đem nộp lên đồn sẽ được thưởng một trăm đồng Ðông Dương. Tau đang thiếu tiền ăn bánh bột lọc đây.
- Mi chỉ nói láo- Lượm cố lấy giọng tức tối cãi- Mi chỉ được cái vu tội chết cho người ta.
Thằng câu cá lại cười khẩy:
- Mi mà không phải Việt Minh thì tau cứ đi đầu xuống đất.
"Phải xông vô tấn công thằng Việt gian ni trước khi hắn chưa kịp đề phòng, đập cho hắn lộn nhào rồi chạy!"- Quyết định đó lóe lên trong óc Lượm và không kịp suy nghĩ gì thêm, nó nhào tới, vung tay trái (nó thuận tay trái) nhằm đúng quai hàm thằng câu cá đấm một cú móc rất mạnh. Nhưng thằng câu cá nhanh không kém. Hắn thụp đầu tránh được. Cú đấm trượt làm bay cái nón mê trên đầu hắn lên hàng rào bông cẩn gần đó. Thằng câu cá hét lên:
- A! Thằng ni gớm hè? - Và nhào tới định đánh trả.
Ngay lúc đó từ ngách con đường kiệt phía sau chỗ Lươm đứng, nhảy ra một thanh niên cao lớn, lực lưỡng. Tay thanh niên này ôm phắt ngang mình Lượm, bó gọn luôn cả hai cánh tay nó vào trong vòng tay đen cứng như tre đực gác giàn bếp lâu ngày của mình. Lượm chưa kịp vùng vẫy thì tay thanh niên đã nhấc bỗng nó lên chân hổng đất, nhẹ như nhấc con ếch. Thằng đi câu rút luôn cuộn dây dừa dắt sẵn trong cạp quần, xông vào trói giật cánh khuỷu Lượm. Lượm quẫy đạp lung tung, giẫy giụa như con cá bất thình lình mắc phải lưới. Thằng câu cá vừa trói vừa hằm hè.
- Tổ cha mi! Ðã muốn đạp, tau trói luôn cả chân!
- Trói cho mi mệt, - Tay thanh niên nói mặt tỉnh khô- Hắn mà còn đạp, tau sẽ bẻ cặp giò hắn kêu cái cắc, như bẻ giò gà.
Biết có chống cự cũng vô ích, Lượm đành đứng im. Và làm như bị trói đau quá, nó thả cái ná cao su và xâu chim đang cầm chặt trong tay xuống rê cỏ ven lối đi.
Tưởng thoát, nhưng thằng câu cá cúi xuống nhặt luôn cái ná, xâu chim và cái cần câu của hắn. Tay thanh niên nói:
- Chừ ta dong hắn ra sau miếu Cây Thị, soát người hắn coi có tài liệu, súng đạn chi không, sau đó ta giải lên nộp ông lý.
Thằng câu cá nói, vẻ thích chí ra mặt:
- Được tiền thường hai anh em ta chia đôi. Anh năm chục, tui năm chục.
Lượm vừa lo sợ, vừa căm tức nghĩ bụng- "Giọng lưỡi hai thằng ni đúng giọng lưỡi Vê-giê (Việt gian) chính cống".
Chúng lôi Lượm đi vào con đường kiệt, rồi tạt vào một ngôi miếu rêu phong đồ nát. Cạnh đó có một cây thị cổ thụ, tán lá phủ trùm mái ngói và cái sân gạch nát um tùm cỏ dại.
- Tau giữ tay chân hắn, mi lột áo quần hắn ra khám nghe.
Thằng câu cá vứt đồ đoàn trong tay xuống thềm miếu, rồi cởi cúc áo, cúc quần Lượm. Lượm vùng vẫy không cho cởi. Hắn cúi nạy một viên gạch vỡ, giáng cao trước mặt Lượm, trợn mắt nói:
- Mi mà còn vùng, tau choang hòn gạch ni bể sọ dừa mi ngay.
Nghe giọng và nhìn vẻ mặt hắn, Lượm biết hắn sẽ choang thật chứ không phải dọa.
Khi bị lột quần, trần như nhộng, Lượm co người lại vì xấu hổ. Thằng câu cá nói, không nhìn mặt Lượm:
- Toàn đàn ông với nhau cả, việc chó chi mà phải ôốc dôộc (xấu hổ.).
Hắn cầm quần áo Lượm, sờ nắn tìm kiếm rất kỹ, còn kỹ hơn cả mấy thằng cảnh sát lúc nãy. Hắn còn giang rộng áo, quần đưa lên trời soi. Vẫn không thấy gì Lượm bấy giờ mới được thể nói:
- Người ta đã nói người ta đi bắn chim chơi, mà cứ vu oan cho người ta.
Tay thanh niên buông tay giữ Lượm, nói giọng có vẻ ngờ:
- Hay không phải?
Thằng đi câu sa sầm nét mặt, hết nhìn Lượm lại nhìn bộ áo quần trong tay, giọng ấm ức:
Tui theo dõi hắn đúng ba bữa liền, vừa gặp hắn lần thứ nhất tui đã ngờ ngay... Hay hắn dấu chỗ mô?
Hắn chợt nhìn trật xuống xâu chim và cái ná cao su vứt trên thềm miếu- Hắn cầm lên. Trước tiên hắn xem xét cái ná. Hắn lật đi lật lại, xem xét từ cái miếng da để bọc đạn, đến chỗ buộc chun, cái cán ná. Không thấy gì hắn dắt ná vào cạp quần, soát đến xâu chim. Hắn vạch cánh, lật đuôi nắm bụng từng con chim một. Lượm ớn lạnh suốt dọc xương sống, mồ hôi toát đầm đìa hai bên thái dương. Hắn nắn đến con chim chào mào, cồ con chim có đút cuộn tài liệu, ngẩng ra một cách không tự nhiên. Cặp mắt thằng đi câu vụt lóe sáng. Hấn bậm môi cầm đầu chim, giật mạnh. Cổ chim đứt lìa. Cuộn tài liệu bọc giấy bóng từ trong bụng chim văng ra, rớt xuống đất, Lượm nhào ngay tới, định chộp cuộn tài liệu cho vào miệng nhai nuốt. Nhưng thằng câu cá nhanh hơn, xô Lượm ngã chúi sang một bên, vồ lấy cuộn tài liệu. Vồ được hắn cầm thật chặt như sợ bị cướp mất, tay run lẩy bẩy vì quá mừng. Hắn reo lên, giọng hả hê, đắc thắng:
- Tui đoán có sai mô anh! Hắn bịt răng được mắt tui?
Hắn bỗng quay lại, trợn trừng mắt nhìn Lượm. cái bộ mặt to bè của hắn méo mó đi vì tức giận. Và hết sức bất ngờ hắn hét tướng:
- đồ Vê-giê? Ăn cứt Tây! - Và tiếp luôn là một quả đấm tạt ngang, đúng giữa quai hàm Lượm. Hai tay bị trói, cú đấm lại rất mạnh, nên Lượm bị mất đà ngã nhào xuống đất như võ sĩ trên đài bị quả nốc ao.
Nằm bẹp dưới đất, Lượm đau đến nổ đom đóm mắt, nhưng chưa bao giờ nó thấy mừng rỡ đến như thế. Có thể nói mừng đến ứa nước mắt- Lượm cố hết sức ngóc đầu lên, hét trả vào mặt thằng câu cá:
- Ðây không phải Vê-giê? Ðây là Vê-cu-đê!
Người thanh niên và thằng câu cá chụm đầu lại cùng đọc bức thư mất của anh Ðồng-râu.
Còn Lượm vẫn nằm dài dưới đất, nhìn hai người vừa trói đánh mình, với cặp mắt hả hê của người thắng cuộc.
Sau khi đọc xong bức thư, cả hai nhìn nhau, rồi bật cười to:
- Té ra cánh Việt Minh ta cả!
Cả hai cùng cúi xuống nâng Lượm dậy, cởi trói và cười với nó như muốn xin lỗi. Lượm mặc quần áo. Ba người cùng ngồi xuống bậc tam cấp. Thằng câu cá trả lại bức thư, cái ná, xâu chim, nói với Lượm:
- Chắc đằng nớ giận mình lắm hè? Lúc đó mình tưởng đằng nớ là Vê-giê thật, tức quá nên đấm có hơi mạnh tay...
Lượm đưa tay lên quai hàm, sờ sờ nắn nắn chỗ vừa bị đấm, phì cười:
- Chút nữa thì bay mất quai hàm còn hỏi. Nhưng lúc nghe cậu hét: Đồ vê- giê, tớ biết ngay cậu cũng là Việt Minh nên tớ quên cả đau. đúng là bị đấm đau nổ đom đóm mắt mà thấy sướng hơn ăn thịt ăn chả. Rứa cậu làm chi cho Việt Minh ở đây?
Tớ là liên lạc của du kích xã.
- Rứa anh? Lượm quay sang hỏi anh thanh niên:
- Cũng họ "du" như thằng ni. - Anh chỉ thằng câu cá - Anh vừa đi gác về thì được lệnh của chỉ huy xã đội ra ngay cầu ván phối hợp bắt Vê-giê chính cống. Có ngờ mô bắt nhầm phải Vê-cu-đê!
- Em nghe nói làng ni Tây kéo về bắt lập hội tề rồi tê mà?
Anh thanh niên cười:
- Tề ấm ớ. Ngoài miệng thì tề mà trong bụng thì Việt Minh đặc sệt.
- Cậu tên chi? - Lượm hỏi thằng câu cá.
- Tặng! Rứa cậu?
- Lượm, Vê-cu-đê Trung đoàn trăm lẻ một. - Mũi nó hơi phổng lên một tý. - Làm răng cậu lại nghi tớ là Việt gian chính cống được?
- Chú chỉ huy xã đội giao tớ hàng ngày phải ra cầu ván giả đò đi câu cá, theo dõi những người lạ mặt khả nghi đi qua làng. đã có mấy thằng Việt gian lọt vô làng, điều tra chỉ điểm cho Tây trên Huế kéo quân về càn, đốt hơn chục nóc nhà, bắt đi sáu bảy người có tham gia du kích. Du kích căm lắm, quyết theo dõi tóm cho được mấy thằng đó, đem chặt đầu mới hả tức- Tớ để ý thấy cậu thường đi qua lại đây. Mỗi lần ăn bận một khác. Tớ ngờ ngay: "Không khéo thằng ni là Vê-giê". Tớ báo cáo với chú chỉ huy xã đội, chú ra lệnh: " Nếu còn thấy hắn qua đây là phải tìm cách bắt cho được". Chú còn cử thêm anh Cận phối hợp với tớ bắt cậu cho thật gọn. Lúc bắt phải giả đò Việt gian bắt Việt Minh, để giữ bí mật.
Ba bốn hôm ni, ngày mô tớ cũng vác cần câu ra cầu, ngồi từ sáng sớm chờ cậu. Không thấy cậu trở lại, tớ chán cách chi! Bởi rứa, khi thấy bóng cậu từ đàng xa, tớ mừng chảy cả nước đái! Tớ nghĩ ngay: Hễ mà tóm đúng vê- giê chính cống, việc đầu tiên là phải quại cho hắn một cú vẹo quai hàm bõ cái công mấy ngày chờ đợi?
Lượm cười, giọng trách yêu:
- Cậu hấp tấp quá. Ai lại chưa xét kỹ giấy tờ đã quại luôn. Quai hàm tớ mà không cứng thì bể rồi còn chi?
Tặng cười xí xóa:
- Ai khiến cậu. Trông bộ dạng cậu giống Việt gian thấy tổ?
Lượm sực nhớ, nói với cả hai người:
- Chuyện chi đọc được trong tờ giấy nớ là phải tuyệt đối giữ bí mật đó nghe.
- Cậu không phải dặn. - Tặng nói. - Tớ cũng được chú xã đội giao đưa công văn tối mật lên huyện luôn.
- Đây là công văn lên tỉnh, còn quan trọng hơn. Chừ mình phải đi cho kịp. Ðường đến trạm liên lạc còn xa lắc.
Anh Cận nói:
- Nếu em không vội thì về nhà anh làm bụng cơm đã Nhà bữa ni có nồi cá tràu kho xơ mít ngon lắm.
- Anh cho em khi khác- Bữa ni em sợ muộn mất, đưa xong thư em còn phải trở lại Huế trước giờ thiết quân luật.
Tặng bỗng đứng phắt dậy.
- Cậu gắng ngồi đây chờ tớ một tẹo thôi- Tớ có cái ni cho cậu đi đường phòng thân.
Chưa kịp để Lượm hỏi, nó vùng chạy biến vào ngõ xóm. Chừng mười phút sau đã thấy nó từ trong ngõ phóng ra, tay cầm con dao rựa, vai vác cây mía tím to bằng bắp tay dài hơn một sải. Nó chống cây mía xuống trước mặt Lượm, giơ cao con dao rựa phứt mạnh một lát Cây mía đứt làm đôi.- Nó ấn cả hai đẫn mía vào tay.
Lượm, nói:
- Giống mía mừng đó, ngọt và mềm lụn. Cậu ăn đi một đẫn, còn một đẫn làm ba toong chống cho đỡ mỏi, mà đập chó, đập rắn, đập Việt gian cũng tốt. Lúc mô khát nước lại ăn luôn.
Lượm cầm hai đẫn mía, mắt tự nhiên rưng rưng.
Vừa mới choảng nhau gần vỡ quai hàm đó, chừ đã cho nhau mía, mà giọng nghe thân thiết làm răng! Tưởng như đã cùng ở với nhau một đội từ ngày Huế mới nổ súng.
Lượm chào anh Cận và Tặng, rồi lên đường. Hai ba lần nó ngoái đầu lại vẫn thấy Tặng đứng giữa đường, chống con dao rựa xuống đất, nhìn theo, đầu gật gật...
7.
Ðã hơn mười một giờ đêm- Thành phố Huế vùi dần Trong yên tĩnh. Con sông Hương sau một ngày náo động mệt lả bởi đò dọc đò ngang, ca nô, xuồng máy giặc chạy ngược, chạy xuôi, lúc này dường như cũng đã thiu thiu ngủ. Tiếng sóng vỗ bờ uể oải như tiếng thở dài buồn bã trong mơ.
Giờ thiết quân luật, cả thành phố không còn một bóng người dân qua lại. Thỉnh thoảng một chiếc xe tuần tiễu của giặc ầm ầm lướt qua dọc các đại lộ hai bên cầu Tràng Tiền- Trên xe lố nhố bóng mũ sắt và nòng súng.
Một vài toán Bảo vệ quân xách súng đi rong nện giầy đinh côm cốp trên hè phố.
Riêng trong khu vực thành nội im ắng hoàn toàn.
Bọn giặc ỷ thành nội có thành cao, hào sâu, các cửa thành như Thượng Tứ, Đông Ba, Nhà Đồ, Chánh Tây đều có bốt gác, Việt Minh khó lòng đột nhập nổi, nên chúng không tổ chức tuần tra nghiêm ngặt như ngoài phố. Nhiều con đường tối om không có đèn đóm gì.
Nhiều công sở không có lính gác. Đại Nội, hồ Tĩnh Tâm, khu Tam Tòa lục bộ, khu Ngọ Môn, dãy nhà để súng thần công v.v... Vắng lặng đến rợn người.
Chính giữa cảnh tối tăm vắng lặng đó, bỗng xuất hiện hai bóng đen nhỏ bé, lúc ẩn lúc hiện, dọc con đường um tùm bóng cây, chạy qua khu Tam Tòa lục bộ.
Một bóng đen đeo một cái giỏ, còn bóng kia cầm cái cần câu dài ngoằng. Hai thằng bé câu ếch.
Một phần trời tối, một phần chúng đi len lỏi dưới bóng các tán cây đen xẩm, nên không thể nhìn rõ mặt. Xem chừng chúng chỉ đeo giỏ vác cần cho có lệ chứ chẳng câu kéo gì hết. Mà cung cách chúng đi có vẻ dè dặt, lén lút, lo sợ người bắt gặp. Ngang qua một gốc cây một cột điện hoặc cổng một ngôi nhà công sở. Hai đứa đều dừng lại. Thằng vác cần câu rút trong ngực áo ra- một vuông trăng trắng, kêu sột soạt. Thằng đeo giỏ thọc vào miệng giỏ một cái que đen đen, rồi cầm que quệt quệt lên gốc cây cột điện. Thằng vác cần câu dùng cả hai tay áp vật trăng trắng vào đó. Thằng đeo giỏ thì thào: "Khéo không lộn ngược!" - Thằng vác cần nói, đầu không ngoái lại - "Cứ yên trí!". Khi hai đứa rời chỗ, trên thân cây, cột điện, bức tường màu xám nhờ, hiện ra một hình chữ nhật trăng trắng như đột ngột trổ ra một khuôn cửa nhỏ.
Cứ như thế hai đứa đi dọc theo các con đường lớn trong thành nội. Và lúc qua nửa đêm, hai thằng mất hút sau dãy nhà dài để súng thần công trước cửa Ngọ Môn.
* * *
Một giờ hai mươi phút sáng. Phía khu vực đồn Hộ Thành bỗng lóe chớp và tiếp theo là một tiếng nổ lay chuyển cả trời đêm. Rồi tiếng súng máy, súng trường và cả tiếng lựu đạn nổ dồn dập, xối xả. Ðạn lửa bay đỏ lừ, rạch ngang rạch dọc bóng tối như muốn cắt thành từng tảng lớn nhỏ.
Ôi quang cảnh hào hùng, sôi sục của năm mươi lăm ngày đêm chiến đấu bao vây giặc như bỗng chốc hiện về, dựng cả thành phố dậy. Cả thành phố đang ngủ say nhảy quáng quàng trên giường xuống đất, nằm bẹp, co đầu, rụt cổ. đồng bào vừa kinh ngạc, vừa mừng, vừa sợ.
Họ thi thào hỏi nhau trong bóng tối: "Răng tụi hắn rải truyền đơn, đăng nhật trình, nói là Việt Minh đã bị tụi hắn tiêu diệt sạch rồi!"- "Cứ chờ đó mà coi, chưa biết ai tiêu ai!". Và phần đông bà con trong bụng chỉ thầm mong tiếng súng cứ thế mà nổ mãi, nổ mãi, to hơn nữa, mạnh hơn nữa, rung trời rung đất hơn nữa? Dù có phải tản cư lần nữa, dù có phải mất hết đồ đạc, tan cửa nát nhà lần nữa, Họ cũng sướng bụng.
Chỉ mới trong vòng một tháng sống trong lòng thành phố giặc chiếm, mà đồng bào đã thấy thấm thía gớm ghê nỗi tủi cực của người dân mất nước.
Nhưng thật đau lòng, chỉ khoảng một tiếng đồng hồ sau, tiếng súng thưa dần rồi im hẳn.
Rạng sáng hôm sau, một tin lan truyền đi rất nhanh khắp thành phố: Vệ Quốc Đoàn không biết bằng cách nào đã lọt vào được thành nội, tập kích đồn Hộ Thành do hai trung đội Bảo vệ quân đóng giữ. Họ đã giật bom sập rụi cổng đồn, giết hơn một chục lính Bảo vệ cắt mất mấy ngàn thước dây điện thoại- đặc biệt hơn nữa, trên nhiều gốc cây, cột đèn điện, tường các công sở, dán trắng xóa truyền đơn của Việt Minh.
Truyền đơn kêu gọi đồng bào Huế hãy tin tưởng vào kháng chiến. Trường kỳ kháng chiến nhất định thắng lợi. Cảnh cáo bọn người cam tâm làm tay sai cho giặc, bán nước hại dân. mật thám, an ninh, Bảo vệ quân v. v... Kháng chiến không ở đâu xa mà ngay sát nách chúng. Nếu chúng không mau mau hồi tỉnh thì kháng chiến sẽ thẳng tay trừng trị. Nhiều người còn thêm thắt đồn đại là truyền đơn được dán bằng một thứ hồ gì mà dính đến nỗi tụi cảnh sát bóc mãi không ra, phải lấy lưỡi lê mà cạo.
Bọn Pháp và tay sai bị một đòn sấm sét bất ngờ, vừa khiếp đảm, vừa tức tối. Chúng đã bị Việt Minh làm cho mất mặt với đồng bào Huế. Mới hôm qua, báo, loa còn oang oang nói thánh nói tướng nào là trật tự hoàn toàn đã được lập lại trên toàn cõi Ðông Dương, nào là bọn đội Việt Minh đã bị tiêu diệt đến tên cuối cùng. Thế mà đùng một cái, Việt Minh chơi cho một vố ngay giữa trung tâm thành nội, có thành cao hào sâu bao bọc.
Để vớt lại thanh thế, bọn giặc huy động một lực lượng quân khá đông, vây ráp khu thành nội. Từ năm giờ sáng, chúng đã cho đóng chặt các cửa ra vào, đặt các trạm kiểm soát trước mỗi cửa thành- Chúng ra lệnh dân chúng thành nội, nội bất xuất, ngoại bất nhập. Ai dám trái lệnh, xích cổ đưa về lao Thừa Phủ. Chúng chia quân thành nhiều toán, súng cắm lưỡi lê, đạn lên nòng, lùng soát vây ráp, ngồi trên xe bọc thép có gắn đại liên, chạy ngược chạy xuôi như ngựa tế. Tên chỉ huy vây ráp oang oang ra lệnh cho các toán quân vây ráp: "Kẻ nào khả nghi, có ý chạy trốn hoặc chống lại, cho phép nổ súng hạ sát ngay tại chỗ!".
8.
Chính vào lúc đó, trên con đường kiệt ở ngã tư âm Hồn, đột ngột xuất hiện Tư-dát và Lượm. Chúng đang đi về phía cổng Tam Tòa, nơi bọn giặc đang đi lại lố nhố rất đông. Hai đứa đầu trần chân đất, mặc sơ mi cộc tay màu cháo lòng, quần đùi xanh. Nếu nhìn kỹ, khắp trên hai má, cánh tay, cẳng chân, nốt muỗi đốt dày dịt, và nhiều vết gai cào xước. Lượm đi tay không, Tư- dát tay ôm một quả bóng tết bằng lá chuối khô và dây chuối. Trông dáng bộ nó ôm quả bóng lá chuối khô mà giống hệt một cầu thủ nhà nghề ôm bóng da ra sân cỏ. Thỉnh thoảng nó làm điệu dội bóng xuống mặt đường, nhưng quả bóng nằm bẹp dí như cục bùn. Nó lấy bàn chân hất ngược bóng lên, bắt lấy, cầm quả bóng xoay xoay, xem xét.
- Banh non hơi! - nó nói - đi đá tranh giải vô địch, đoạt "cúp" sư tử vàng mà banh biếc ra ri thì gay thiệt!
Ngang qua một gốc cây có dán tờ truyền đơn mà bọn cảnh sát chưa kịp bóc, nó vội lánh xa sang bên kia lề đường, mắt liếc xéo một cái rất nhanh nói nhỏ với Lượm:
- Dán lộn ngược rồi mi ơi! Chừ ai muốn đọc là phải làm xiếc trèo lên cây, móc hai chân vào cành cây đầu chúc xuống đất mà đọc. Khổ!
Lượm phì cười nói:
- Theo tao thì nhổ cây lên, dựng ngược rễ lên trời mà đọc đỡ mệt hơn. - Hay để tao sang bóc ra dán lại hí! - Nó dợm chân như định chạy sang bên gốc cây bóc tờ truyền đơn. Biết nó đùa mà Lượm vẫn hoảng, chụp níu tay nó lại, cau mắt nói khẽ.
- Ba láp vừa chứ mi?
Cả hai đứa đều nhớ rõ là đêm qua khi dán đến tờ - truyền đơn này, tờ truyền đơn cuối cùng thì phía đồn Hộ Thành rung lên tiếng bom nổ- Hai đứa giật mình, chui bừa qua một hàng rào bông cẩn cao quá đầu người, ngồi thụp xuống chân rào. Lượm thì thầm hồi hộp nói:
- Chắc là các anh lớn lọt vô choảng tụi nó rồi! Hèn chi trong tờ lệnh của ban Tham mưu trung đoàn tối hôm qua tao đưa về cho anh Ðồng-râu, có dặn là tổ mình phải rải truyền đơn đúng vô đêm ni. Lúc đọc cái lệnh đó tao đã hơi ngờ... Không biết đơn vị mô đang chơi trận ni mi hè?
- Tao đoán là tiểu đoàn mười tám. Vỡ mặt trận, không thấy tiểu đoàn mười tám rút lên chiến khu Hòa Mỹ.
Căng hai tai lắng nghe tiếng súng một lúc một nổ rát- Tư-dát băn khoăn.
- Các anh lọt vô lối mô được mi hè? Các cửa thành thì không qua được rồi nghe, lính gác đặc! Mà trèo thành thì trèo làm răng- Cao nghệu, lại có hồ sát chân thành?
- Xì- - mi cứ lo chim không biết bay?
Tư-dát vẫn mải theo đuổi ý nghĩ của mình. Nó nói: "Nếu là tiểu đoàn mười tám thì chưa chừng có thằng Vệ-to-đầu đang đánh ở đó. Tao nhớ hắn quá mi ơi?"
Tiếng súng, tiếng lựu đạn, thưa thớt dần rồi im hẳn.
Lượm nói:
- Chắc các anh rút rồi.
- Rứa, tau với mi cũng phải tìm cách mà chuồn ra khỏi thành thôi chứ mi?
- Chuồn lúc ni là rất nguy. Tao chắc tụi lính gác các cửa thành đang đốt hết đèn đóm lên, canh gác còn ngặt gấp mười lúc thường- Theo tao chui hẳn vô giữa vườn tìm chỗ kín núp chờ cho trời sáng. Cửa thành mở, ta cứ đàng hoàng đi ra, tụi hắn mới khỏi nghi.
Tư-dát nghe phải. Hai đứa lủi như hai con chuột vào giữa vườn, ngồi dựa vào lưng nhau dưới gốc một cây bưởi. Xung quanh cỏ tốt ngập đầu, muỗi hơn trấu. Muỗi bâu lại cắn hai đứa mỗi lúc một dày đặc. Chốc chốc, hai đứa lại đưa bàn tay xoa một cái, lòng bàn tay dính dính máu. Tư-dát đã thiu ngủ. Nó giả giọng "các mệ" nói trong trạng thái dở thức dở ngủ:
- Mi mắc cái màn buồm với trải cái đệm lông chim cho "mệ" nghỉ lưng một chút... Mệ hơi oải ba sườn.
Nó nằm dài luôn xuống đất lổn nhổn gạch đá, đầu gối bừa lên một búi cỏ, và bắt đầu ngáy. Lượm cũng mệt và muốn ngủ không kém, nhưng nó cố hết sức chống chọi. Hai đứa, phải có một đứa thức, lỡ gặp phải chuyện chi còn biết đường mà xoay trở. Nó nghĩ vậy. Nó căng mắt cố nhìn xuyên bóng tối bao quát cả khu vườn. Khu vườn như bỏ hoang lâu ngày không có người chăm sóc, chắc chủ nhà chưa hồi cư... điều nhận xét này làm cho nó hơi yên bụng. Nó nâng đầu Tư-dát đặt lên đùi nó rồi nhổ búi cỏ làm phất trần xua muỗi cho bạn và cho mình. Tư-dát vẫn ngủ say mê mệt. Nó còn ú ớ nói mê khá to, làm Lượm hốt hoảng đưa tay bịt mồm nó lại.
Ðến một lúc, Lượm cũng không còn đủ sức chống lại cơn buồn ngủ. Búi cỏ làm phất trần tự nhiên tuột khỏi tay, đầu nó ngoẹo sang một bên, gật lia gật lịa rồi dựa hẳn vào gốc cây ngủ thiếp luôn.
Khi hai đứa choàng tỉnh dậy, trời đã sáng trợt. Hai đứa bò trong cỏ rậm, định chui rào ra ngoài. Nhưng ngoài đường tiếng xe chạy rầm rầm, tiếng giày đinh cồm cộp, tiếng súng lên đạn rôm rộp. Hai đứa vội thụt đầu bò lùi lại, nép sau một bụi chuối. Hú vía! Nếu chui ra thế nào cũng chạm trán tụi giặc đang vây ráp.
Nhưng ở lại trong vườn cũng không xong. Lỡ chủ nhà đi ra vườn, trông thấy hai đứa, họ hô hoán lên lại càng chết. Chưa biết làm cách nào, Lượm chợt trông thấy những bẹ lá chuối khô liền nảy ra một mẹo. Nó ghé sát tai Tư-dát thì thầm. Tư-dát gật gật đầu.
- Mẹo nghe được! Nghe được!
Lượm bứt lá chuối khô để thành một đống.
Tư-dát cuộn lá chuối lại, dùng dây chuối bện thành một quả banh lớn hơn quả bưởi. Tư-dát bện banh lá chuối phải nhận là thiện nghệ. Chỉ một loáng, đống lá chuối đã biến thành một quả banh khá tròn.
Chờ cho ngoài đường im ắng hẳn, hai đứa ôm banh chui ra...
Và lúc này hai đứa đang đi về phía cửa Thượng Tứ.
* * *
Dọc đường hai đứa chạm trán hết toán lính Tây Lê Dương này, lại toán Bảo vệ quân khác - Súng cắm lưỡi lê sáng quắc, mắt trợn trừng trợn trạc, chúng hằm hè xông vào các khu vườn, các ngôi nhà hai bền đường, lúc soát.
Hễ nhìn thấy một toán giặc từ xa đi lại là Tư-dát thả quả banh xuống đường. Hai đứa làm bộ làm tịch tranh banh rất hăng - Vừa tranh banh vừa la lối om sòm.
- Ê! ê! Cấm chơi xấu! Cấm chơi xấu?
- Mi bị "manh" rồi! "Manh-pê-răng-ti" hẳn hoi nghe!
- Mi bị cú "coóc-ne" thì có. Tau phải sút phạt mi cú "coóc-ne"!
Và hai đứa làm như vô tình sút luôn quả banh vào chân bọn giặc.
Tụi Bảo vệ quân tức tối nạt nộ:
- Đồ con ranh con lộn? Con cái nhà ai, hả?
- Đây là chỗ tụi bay chơi đây, hả?
- Ai cho tụi bay được đá banh giữa đường?
- A lê cút?
Tư-dát vội nhặt quả banh, miệng liến thoắng rối rít:
- Dạ, dạ... Tụi cháu lỡ... Xin các bác tha!
Khi chúng qua khỏi, hai đứa đưa mắt nháy nhau, nhe răng cười. Tư-dát nói nhỏ:
- Tụi hắn chắc đang tức Vệ Quốc Ðoàn nổ lòng bóng mi hè?
- Tức mà thôi à? Sợ đái ra quằn ấy chứ!
- Lọt ra thành thôi chứ mi?
Ra chưa được mô. Mi không nghe tụi hắn loa- Cấm dân trong thành, nội bất xuất, ngoại bất nhập à?
Tư-dát nhăn nhó:
- Lỡ mả cha hắn động, cấm hết cả ngày ni thì làm răng Tau đói xều mếu rồi. Tau xấu máu đói lắm... Được, cứ để coi cái đã. Lúc đó ta sẽ nghĩ mẹo mà ra. Chừ tao với mi giả đò lừa banh đến trước cửa đồn Hộ Thành, điều tra tình hình coi các anh đánh có kết quả không, để về báo cáo với anh Đồng-râu.
Hai đứa vừa chạy đuổi nhau vừa lừa quả banh lá chuối đến trước cửa đồn Hộ Thành. Cổng đồn xây bằng gạch khá kiên cố, lúc này chỉ còn là một đống gạch vụn.
Bên trong đồn, giữa sân, đồ đạc, bàn ghế vứt lung tung lộn tùng phèo như cảnh bị nhà cháy. Tụi lính nhốn nháo đi lại thu dọn, mang vác...
Hai đứa lừa banh qua cổng đồn, mắt liếc rất nhanh bao quát toàn cảnh bên trong- Mặt chúng tự nhiên ỉu xìu, trong lòng dậy lên một nỗi buồn tiếc ghê gớm- Chỉ trừ cái cổng đồn, còn nhà ngang dãy dọc vẫn nguyên vẹn cả. lúc mà đêm qua, ngồi trong khu vườn hoang lắng nghe tiếng bom tiếng súng, chúng hồi hộp, hả hê hình dung cả cái đồn này đang bị các anh nghiền thành cám.
Bên trái cổng đồn, cạnh đống gạch vụn ngổn ngang, có một xác chết đặt nằm giữa trên tấm cửa chớp. Xác chết ăn mặc áo quần Vệ Quốc Đoàn, da mặt đen xạm dập nát, bám đầy bụi vôi, bồ hóng, miệng há to như đang hét xung phong. Vạt áo trước. rách tả tơi, loang lổ máu khô bầm. Bên vai anh vẫn còn đeo một đòn bánh tét Ruồi, nhặng xanh vo ve bâu kín mảng áo dính máu, bò ngang bò dọc trên mặt anh. Chắc anh bị thương rồi chết vùi dưới vôi gạch, đơn vị rút vội không kịp phát hiện để mang đi. Bọn giặc bới được xác đem bêu ra đây cho người qua lại ngó thấy.
Lừa quả banh qua khỏi cổng đồn chừng vài trăm thước. Lượm như bỗng kiệt sức. Nó lảo đảo ngồi phịch xuống lề đường. Cặp mắt đỏ hoe, chăm chăm nhìn về phía cổng đồn. Tư-dát tái mặt lay lay vai bạn nói gần như van vỉ:
- Đi mi! đi. Ngồi đây lâu, tụi hắn nghi chết.
Lượm như không nghe thấy bạn nói gì. Nó lắp bắp thì thào như trong cơn mơ ngủ.
- Thấy mấy con ruồi xanh bò bò trên mắt anh, tao chỉ muốn chạy lại xua tay đuổi... Ngó mà không làm chi được tao đau ruột quá mi ơi. Nói đến đó, miệng Lượm bỗng mếu xệch.
Tư-dát nhìn bạn, miệng tự nhiên cũng mếu theo. Nó ngồi xuống cạnh bạn, giọng dỗ dành:
- Nhưng biết làm răng được chừ... mi. Tụi hắn chết mười, bên mình chết có một... như rứa chắc anh ấy cũng thỏa.
Lượm nghẹn ngào:
- Cớ chi biết được nhà cha mạ anh ấy ở mô hè... mà tìm báo cho cha mạ anh biết, lên xin đem xác về chôn...
Tư-dát đứng ra giữa đường đo bóng nắng, kêu:
- Trưa quá rồi mi ơi. Phải tìm cách mà lọt ra thôi. Anh Đồng-râu ở nhà chắc đang nóng ruột lắm.
Lượm như chợt tỉnh, đứng lên. Hai đứa lại lừa trái banh lá chuối về phía cửa Đông Ba.
Lúc này bọn giặc đã mở cửa thành, cho người vào ra, nhưng lục soát rất gắt gao. Một toán vừa Bảo vệ quân vừa Cảnh Sát, An Ninh, đứa súng trường, đứa súng lục đứng lố nhố trước cửa thành.
Còn cách cửa thành chừng trăm thước. Lượm với Tư-dát sút banh thảng về phía cửa thành- Tư-dát lăn xả vào chặn banh, nhảy như choi choi, miệng la bai bải:
- Ê! Không được chơi xấu? Không được chơi xấu!
Khi trái banh lăn tới còn cách cửa thành chừng chục bước, Lượm la lên:
- Ê! "manh rồi"! "Manh pê-răng-ti" hẳn hoi nghe!
- "Manh" mô mà "manh". Chỉ trúng ở cùi chỏ thôi!
Tư-dát gân cố cãi.
- Mi chơi ăn gian! "Manh pê-răng-ti" sờ sờ còn chối. Biết điều thì giữ gôn đi cho người ta sút phạt!
Tư-dát tỏ ý chịu thua. Hai đứa loay hoay tìm chỗ làm cọc gôn. Tư-dát chỉ từ bên này lề đường sang bên kia lề đường:
"Gôn" ri được chưa?
- Hẹp quá! - Rộng thì có! Mi coi cổng gôn ngoài "Xịt-tát" cũng còn hẹp hơn.
Lượm chịu. Tư-dát đứng ra giữa đường, chổng mông ra phía cửa. Nó xắn tay áo, lưng cúi lom khom, vẻ mặt căng thẳng, làm bộ tịch anh giữ gôn đang sẵn sàng đón bắt quả banh sút phạt đền sáu mét.
- Ðúng sáu bước nghe!
Một tên Bảo Vệ- quân, cầm cây roi cặc bò bước đến quát:
- Tụi con ranh con lộn. Chỗ ni là chỗ tụi bay chơi đấy hả? Hắn quất luôn một roi vào cái mông nhọn veo của Tư-dát đang chổng về phía hắn.
Tư-dát nhảy dựng lên kêu: "Ối!" Vừa lúc đó, Lượm sút rất mạnh, quả banh vọt qua chân Tư-dát, lăn ra đến tận bên ngoài cửa thành. Lượm nhảy lên reo to.
- Bờ-ra-vô! Thủng lưới rồi!
Tư-dát ôm cái mông gày nhom, nhăn nhó.
- Phải sút lại! sút lại" Tại bác Bảo Vệ đánh tau đau quá, tau mới không bắt được. Nó quay lại, mếu máo nói với tên Bảo Vệ Quân:
- Bác làm cháu bắt trật mất cú phạt "manh pê răng- ti" oan quá!
Tên Bảo vệ quân giáng cao cây roi lên, chửi:
Con mạ mi, Có xéo ngay không?
Tư-dát nhảy tránh ra gần phía cửa, mắt le lé nhìn cây roi trong tay tên Bảo Vệ Quân, Lượm chạy đến kêu:
- Ðược rồi, cho mi chạy ra nhặt banh vô, tao sút lại. Lần này mà còn bắt trật là mặc kệ mi đó nghe!
Làm bộ quá mải chơi, hai đứa cùng một lúc chạy ùa ra khỏi cửa thành, xô đến bên trái banh lá chuối nằm lăn lóc cạnh lề đường. Chúng vừa la hét ầm ĩ vừa gàn chân nhau giành banh, hăng hái như một trận quyết đấu vậy. Rồi làm như vô tình, hai đứa cứ sút mãi trái banh mỗi lúc một xa cổng thành, trước hàng chục cặp mắt của bọn lính Bảo Vệ Quân, Cảnh Sát, An Ninh.
9.
Khoảng mười giờ sáng hôm đó. Kim-điệu từ phía trường Pơ-rô-vi-đăng đi ra đường ngang. Ðến Nông khố ngân hàng cũ, (bây giờ là một đống gạch vụn) nó rẽ xuống con đường qua Đập Ðá để sang Vĩ Dạ. Chiều qua, trước lúc lên đường làm nhiệm vụ, anh dặn cả tổ: "Muộn lắm là mười giờ sáng mai phải có mặt ở nhà để báo cáo công tác."
Nhưng mới đi được mấy bước, nó lộn trở lại, vòng lên lối Trung bộ phủ cũ, và ra bến đò ngang sông Hương- "Bây giờ chưa đến mười giờ, ta qua chợ Đông Ba, ních bụng bánh khoái rồi về cũng không sao!" - nó nghĩ vậy. Nó không bao giờ ngờ được rằng, mấy bước lộn trở lại đó đã mang lại biết bao nhiêu tại họa khủng khiếp cho cả tổ quân báo... Và cho chính cả cuộc đời nó.
Từ tám giờ đêm hôm qua, nó đã rải xong số truyền đơn được giao. Nó không khỏi hứng chí tự đắc về thành tích của mình. Mấy buổi đầu bắt tay vào công tác tình báo nội thành nó run lắm. Gặp khó khăn nguy hiểm nó dễ hốt hoảng, rối trí, mất bình tĩnh. Nhưng chỉ sau một tuần, quen dần với hoàn cảnh và công việc, qua vài lần rải truyền đơn, dán báo "Giết giặc", vẽ bản đồ kho tàng, vị trí địch trót lọt, được anh Ðồng-râu biểu dương trước cả tổ, thế là nó phổng mũi. Nó sinh chủ quan, nghĩ bụng: Tưởng công tác tình báo nội thành khó khăn như răng, chứ dễ ợt như ri thì mình có thể hoạt động được cả đời! Cầu trời, ban quân báo Trung đoàn giao cho mình những công tác thật khó, thật nguy hiểm, cả đội không đứa mô làm nổi. Mình làm nổi, cả đội phải phục lác mắt. Vụt thấy mình tài giỏi, can đảm hơn hẳn các bạn, nó đã tự ý làm một vài việc không cần thiết, có thể dẫn đến tai họa. Chẳng hạn, đêm qua nó dành lại một tập truyền đơn và sáng nay nó đi thật sớm, đem rải trước ngõ mấy nhà những đứa bạn trước đây cùng học với nó ở trường Khải định. Hoặc như lúc này, đáng lý phải về ngay nơi trú quân, nó lại lẻn qua chợ Đông Ba ních bánh khoái.
Con đò ngang ở bên kia bờ. Trên bến, lác đác mấy người gồng gánh ngồi, đứng đợi đò. Kim-điệu hai tay đút túi quần, miệng khe khẽ huýt sáo điệu nhạc bài hát "Nước non Lam Sơn", năm đầu ngón chân khẽ nhịp nhịp.,Ngắm làn nước xanh trong, nhăn nhăn sóng, nó thấy lòng rộn ràng vui thích. Nó đang tưởng tượng cái cảnh mấy thằng bạn thân lúc ra ngõ vớ được những tờ truyền đơn nó vừa rải sáng nay... Tụi hắn lượm lên gọi nhau í ới, châu đầu lại đọc. Mới đọc được mấy dòng, mặt đứa nào cũng xanh mét cả lại. Chúng nó chạy té tát hết vào nhà, nói lắp bắp không thành tiếng "Truyền đơn Việt Minh rải trắng ngõ nhà mình, cha ơi! mạ ơi!.." Tụi hắn chắc đứa mô cũng tưởng cái ông Việt Minh gan cóc tía dám đi rải những tờ truyền đơn đó, phải tài giỏi lắm. Võ nghệ cao cường lại có tài biến hóa xuất quỷ nhập thần như Long hình quái khách, Người Nhạn trắng, Côn lôn tiểu khách... Tụi hắn có đến nằm mê cũng không đám tin cái ông Việt Minh rải truyền đơn đó lại chính là thằng Kim, bạn nối khố của tụi hắn!
Nghĩ đến đó nó khoái chí, bật cười to, làm mấy người ngồi đợi đò phải ngoảnh lại nhìn. Nó cứ tiếp tục huýt sáo, nhịp chân, tảng lờ như không biết.
Ðò vẫn chưa sang. Người tụ tập đợi đò mỗi lúc một đông. Tụm năm, tụm bảy, họ thì thầm bàn tán về trận đánh đồn Hộ Thành tối qua, chuyện truyền đơn Việt Minh rải tứ tung bát giác, khắp cả ngoài phố, trong thành, mấy trăm Bảo vệ quân chia nhau đi lượm cả buổi sáng không hết!
- Nghe nói đi rải truyền đơn toàn là quân cảm tử.
Kim-điệu thôi huýt sáo. Nó lắng nghe chuyện mọi người thì thầm bàn tán. Nó khoái chí đến tột độ. Da mặt như căng lên, rần rật, nó bỗng thấy ngứa mồm ngứa miệng cách chi! Nó thèm được bước lên mấy bước, vỗ ngực nói với những người đợi đò: "Quân cảm tử Việt Minh chính là tôi đây! Chắc bà con không ai ngờ hè?" Vừa lúc đó có mấy tên lính Bảo vệ quân mang súng đi đến. Chúng nghiêng nghiêng, ngó ngó, nhìn những người đợi đò, trợn trạc, dò xét, nhác trông thấy tụi lính, sự thèm muốn khoe khoang ngông cuồng trong lòng nó vụt tan biến hết. Mặt nó tự nhiên hơi tái đi, chân run run, tim đập thon thót. Nó chụm môi lại cố huýt sáo, nhưng huýt mãi không thành tiếng. Nó hụt hơi.
Ðò cập bến. Người dưới đò bước lên. Người trên đò tranh nhau bước xuống.
Con đò sang đến bến chợ Đông Ba. Kim đi vào chợ.
Nó lượn một vòng quanh chợ, rồi sà luôn vào cửa hàng bánh khoái. ăn một bụng no nê đã đời, môi đỏ mọng lên vì húp nước lèo và cắn rau ráu ớt tươi.
Nó bước khỏi cửa hàng mấy bước thì bất ngờ chạm trán Nguyễn Trì, ông anh nuôi của nó hồi còn ở Trung đoàn bộ.
* * *
Phải gánh vác trách nhiệm nặng nề của người chiến sĩ cứu nước, nhưng các đội viên đội Thiếu niên trinh sát vẫn còn là những chú bé. Các em thèm khát được yêu thương, vỗ về, chăm chút, và thỉnh thoảng được làm nũng với cha, mạ, anh chị... Xa gia đình, cha, mạ, anh, chị ruột các em nhận cha nuôi, mẹ nuôi, anh, chị nuôi.
Anh, chị nuôi là các chiến sĩ hơn tuổi cùng đơn vị, hoặc ở các đơn vị khác mà mỗi em cảm thấy gắn bó, yêu thương. Phần lớn các đội viên trong đội Thiếu niên trinh.sát đều có anh nuôi, chị nuôi. Riêng Kim-điệu không những chỉ có một mà đến ba bốn ông anh nuôi, ba bốn bà chị nuôi. Nó xinh trai, láu lỉnh nhất đội nên được nhiều anh, nhiều chị thích nhận làm em nuôi. Và nó rất biết lợi dụng cái ưu thế của nó. Nó nhận anh chị nuôi này một thời gian thấy không thích nữa, lại bỏ, nhận anh chị nuôi khác. Và nó cũng rất thích thú, hãnh diện khi thấy vì nó mà các anh chị nuôi, nhất là các chị nuôi, giận hờn, ghen tức nhau. Có chị còn khóc đỏ cả mắt khi thấy người khác tranh mất đứa em nuôi xinh trai của mình.
Nguyễn Trì là ông anh nuôi thân thiết, gắn bó nhất của nó. Trước ngày Huế nổ súng, Nguyễn Trì làm quản lý của cơ quan Trung đoàn bộ. Ngày đó Lượm và Kim đều là liên lạc của trung đoàn bộ. Nguyễn Trì yêu Kim bao nhiêu thì ghét Lượm bấy nhiêu. Ngược lại Lượm cũng ghét Nguyễn Trì ra mặt ngay từ buổi đầu mới gặp Lượm thấy ghét Nguyễn Trì mà chính nó cũng không hiểu tại sao. Không những ghét Nguyễn Trì, nó còn ghét luôn cả Lê Thành, thư ký đánh máy của Trung đoàn bộ, bạn thân của Trì. Do ghét mà tự nhiên Lượm thường xuyên để mắt xem xét lời nói, việc làm của Trì và Thành. Một hôm nó nghe lỏm được Nguyễn Trì bàn với Lê Thành: Sáng hôm sau đi nhận gạo ở kho quân lương của Trung đoàn, Nguyễn Trì sẽ lấy cắp hai bao một trăm cân gạo, giao cho Lê Thành đi bán. Trì hẹn Thành đón gạo ở chân cầu Đông Ba cũ. Lượm gặp tham mưu trưởng Phùng Ðông - sau này là Chỉ huy trưởng mặt trận C - báo cáo điều nghe lỏm được. Tham mưu trưởng bèn bố trí lính cảnh vệ bí mật theo dõi, và bắt quả tang hai đứa ăn cắp gạo. Cả hai bị tống vào cải hối thất.
Sau khi ra khỏi cải hối thất, tham mưu trưởng đưa Nguyễn Trì về một đại đội làm lính trơn. Ít lâu sau nhờ chú em nuôi Kim, Nguyễn Trì biết được chính Lượm đã tố cáo hắn. Ðối với Lượm, Nguyễn Trì không phải chỉ là ghét mà thù hận. Có lần Trì nói với chú em nuôi dễ thương và xinh trai của mình: "Nếu tình cờ anh gặp thằng chó chết đó ngoài mặt trận, anh thề sẽ cho hắn ăn đạn". Nét mặt Trì sa sầm và cười gằn một cách dữ tợn.
Kim lo lắng kể chuyện lại với - Lượm, và khuyên :
"Hay là mi chịu khó tìm anh ấy mà xin lỗi...".
Lượm tức tối nói: "Việc chi tau phải xin lỗi thằng ăn cắp của Vệ Quốc Đoàn ? Hắn có đạn cho tau ăn dễ chừng tau không có đạn cho hắn ăn chắc?"
* * *
Nguyễn Trì đang từ cửa hàng bún bò khô đi ra. Trì vẫn như ngày làm quản lý ở Trung đoàn bộ. Mặt đầy trứng cá, nặn nhiều nên từng đám đen bầm, đầu tóc đít vịt chải bi-dăng-tin bóng loáng tưởng ruồi đậu cũng phải trượt chân ngã oạch; cổ tay đồng hồ vàng lấp lánh. Chỉ có khác trước kia là Trì mặc quân phục kaki gabađin, bây giờ mặc "com-lê" mới tinh như vừa lấy ở hiệu may ra, chân dận giày da đen mõm nhái soi gương đượ,c đầu đội mũ phớt, mắt đeo kính râm.
Kim đâm bổ tới, mừng rỡ gọi:
- Anh Trì, anh Trì!
Trì quay lại, nhìn Kim vẻ hơi ngớ ra một chút.
Nhưng chỉ thoáng một giây, Trì đã đổi ngay nét mặt tươi cười vồn vã:
- Kim đấy à? Dạo này chú em lớn và đẹp trai quá ta?
Mặt Kim rạng rỡ lên vì được khen. Nó bước đến sát bên anh nuôi thì thầm hỏi:
- Chớ anh về đây khi mô?
Trì đưa mắt nhìn quanh vẻ sợ sệt, nhíu trán lại nói khẽ với Kim :
- Ðứng đây nói chuyện không tiện. Anh em mình ra cái ghế đá ngoài kia.
Trì dắt tay Kim ra khỏi chợ, đến cái ghế đá gần đầu cầu Tràng Tiền- Hai anh em ngồi sát bên nhau. Trì rút thuốc lá châm hút, vừa thở khói vừa hỏi:
- Em đi mô mà qua đây?
- Em ở bên nhà qua. Mạ em biểu qua chợ mua mấy hộp hương vòng thắp bàn thờ Phật... - Lúc này Kim đã nhớ lại lời dặn của anh Đồng-râu.
- Em hồi cư lâu chưa? Chạy đến mô thì lộn lại?
- Em rút theo Trung đoàn bộ, ra đến Hiền Sĩ thì gặp gia đình em tản cư ở đó. Em liền bỏ trốn về nhà. Em theo cha mạ hồi cư đã được gần tháng nay. Rứa anh?
- Anh thì chán quá! - Nguyễn Trì lắc lắc đầu, vẻ buồn bã, trả lời - Chạy ra đến Cổ Bi bị lạc mất đơn vị. Anh tìm đỏ cả mắt đến tận Mỹ Chánh cũng chẳng thấy tăm dạng. Chắc các cha hoảng quá, chạy tuốt ra thấu Vinh hay rút lên núi rồi cũng nên. Anh đành phải chôn súng chôn đạn bò về Huế. Dọc đường, mấy lần suýt bị Tây bắn chết...
Nguyên Trì thở dài, búng cái tàn thuốc ra xa, nói tiếp giọng uất ức:
- Không ngờ Vệ Quốc Ðoàn ta lại tan rã mau đến rứa! Bao nhiêu công lao cướp chính quyền, làm cách mạng, rứa là tan ra mây khói hết...
Kim-điệu lúc này tự nhiên thấy thương hại cho ông anh nuôi to xác, diện ngất trời của mình. "Chắc là anh ấy chưa được biết chuyện chiến khu, chưa được học tập về ba giai đoạn kháng chiến... nó nghĩ thầm vậy". Nó nói, mặt hơi vênh lên:
- Anh cứ tưởng rứa chứ tan răng được anh?
- Em nói không tan, răng chẳng còn thấy bóng một mống Việt Minh nào?
- Rứa anh không nghe chuyện Vệ Quốc Ðoàn đánh đồn Hộ Thành đêm qua với truyền đơn rải trắng đường phố đó à? - Nó suýt buột miệng khoe - "Chính em rải truyền đơn đó chứ ai. Anh đang ngồi cạnh Việt Minh chính cống mà anh không biết". Nhưng nó đã cố gắng hết sức kiềm lại được. Nguyễn Trì châm điều thuốc khác, chuyển giọng trầm trồ thán phục.
- Không biết đơn vị mô của Trung đoàn mình chơi cái vố Hộ Thành tối qua khá thiệt!
Kim-điệu hơi ngập ngừng một chút, rồi hỏi:
- Giả dụ anh mà được gặp họ anh có theo không?
Nguyễn Trì đang đưa lưng vào thành ghế đá, thở khói liền ngồi thẳng ngay dậy, giọng sôi nổi.
- Răng lại không theo? Em tưởng anh không nát ruột nát gan trước cảnh nước mất nhà tan ni à?
- Tưởng anh bây giờ đã đi làm việc cho Tây?...
- Làm cho Tây ấy à? - Nguyễn Trì khinh bỉ nhổ toẹt một bãi nước bọt qua kẽ răng. - Thà chết đói chết khát, xách bị đi ăn mày, chứ đời mô thanh danh là một thằng lính Vệ Quốc Đoàn cũ như anh lại chịu nhục đi làm việc cho Tây.
Vẻ mặt và giọng nói cảm khái của ông anh nuôi làm Kim-điệu tan biến hết mọi lo lắng, nghi ngờ. Nó cho rằng đã có thể thổ lộ với Nguyễn Trì những điều bí mật, và cùng chia sẻ với anh nuôi nỗi vui thích hãnh diện đang tràn ứ trong lòng. Nó còn nảy ra ý định sẽ dắt Nguyễn Trì về Vĩ Dạ giới thiệu với anh Đồng-râu, đề nghị anh kết nạp Trì vào tổ quân báo "Thêm được một người, tổ mình càng mạnh, thả sức mà hoạt động." Như đoán được chú em nuôi xinh.trai, bồng bột, nhẹ dạ đang nghĩ gì, Nguyễn Trì làm vẻ mặt đau đáu, thở dài nói:
- Nếu anh mà được biết quân mình bây giờ đang ở đâu, thì a-lê hấp! Anh sẽ quăng hết những thứ này xuống sông. - Trì trỏ bộ áo quần, giày, mũ phớt, đồng hồ vàng. - Dù họ có ở tận rừng xanh, rú đỏ anh cũng mò tới tìm theo.
Kim hạ thấp giọng:
- Em chắc quân mình không ở xa mô. Có khi ở sát ngay bên nách anh em mình cũng nên...
- Làm chi có chuyện đó em - Nguyễn Trì ném mẩu thuốc lá xuống đất - đánh xong là phải tìm đường rút. Tây, Bảo vệ quân ở đầy thành phố. Việt Minh có ba đầu sáu tay cũng chẳng dám ở lại...
Kim nói gần như thì thầm:
- Rứa anh có dám tham gia hoạt động không?
- Hoạt động cái chi rứa? - Nguyễn Trì hỏi lại giọng ngờ nghệch.
- Hoạt động tình báo!
Nguyễn Trì ghé sát mặt chú em nuôi, giọng run lên hồi hộp: - Nhưng biết chỗ họ ở mô mà đến xin hoạt động em?
- Ở đây chứ còn ở mô nữa! - Kim đưa ngón tay cái chỉ vào ngực mình, cặp mắt long lanh đắc thắng hãnh diện. Nó thích thú thấy Nguyễn Trì cứ nhìn nó, mặt ngây ra. - Em không giấu gì anh, không phải em theo gia đình hồi cư mô... Em được Trung đoàn cử về Huế hoạt động tình báo. Tất cả những truyền đơn đó đều do tay em rải cả.
Nó đưa tay lên định phác một cử chỉ để nhấn mạnh thêm cho điều bí mật quan trọng mà nó vừa tiết lộ. Bất ngờ tay nó chạm phải một vật cứng và lạnh dắt bên sườn ông anh nuôi khuất bên trong áo vét tông. Tay nó rụt ngay lại như chạm phải lửa. "Ui trời? Súng lục!" Nó muốn kêu lên vậy mà không thành tiếng. "Hay là?" Nó bàng hoàng nhìn Nguyễn Trì. Nó vùng đứng ngay dậy, định bỏ chạy. Nhưng ông anh nuôi với bàn tay cứng như sắt nguội đã chộp lấy vai nó kéo giằng xuống, và nói qua kẽ răng:
- Ngồi im đó. Cựa quậy tao cho ăn đạn ngay!
Kim-điệu mặt tái nhợt, nhìn ông anh nuôi, giọng như sắp òa khóc:
- Anh Trì, anh mà nỡ đối với em rứa à?
Nguyễn Trì không trả lời, đưa mắt nhìn sang bên kia đường, đưa hai ngón tay lên búng tách một cái ra hiệu.
Từ dãy phố bên kia đường, một thanh niên mặc áo ca rô, đầu đội bê- rê lệch, quần ống tuýp, đi giày bốt-tin trắng, vừa huýt sáo vừa băng qua đường, đến đứng khép nép trước mặt Nguyễn Trì, Trì nói nhỏ giọng ra lệnh:
- Giữ thằng này ngồi yên tại đây, chờ tao. Việt Minh chính cống đó. Coi chừng để nó thoát là mày phải thế mạng.
- Thưa xếp, thằng em đã canh giữ, thì nó có chạy đằng trời? Thằng mặc áo ca rô ngồi xuống sát bên Kim đưa tay choàng qua vai ra chiều thân mật, kiểu đôi bạn tri kỷ khoác vai nhau dốc bầu tâm sự. Kim vừa quay người lại thì một họng súng lục thúc đau nhói bên mạng sườn. Hắn gằn giọng nói:
- Cứ ngồi yên vị như lứa? Mi mà cựa quậy, con "chó lửa" ni tức mình sủa lên là rồi đời đó nghe! Hắn thúc mạnh hơn họng súng vào mạng sườn Kim để nhấn mạnh cho lời hăm dọa. Kim-điệu ngồi chết cứng trên ghế đá, mồ hôi vã ra, ướt đẫm suốt từ đầu tới chân.
Nguyễn Trì đi đến một bót cảnh sát gần đó.
Chừng hai chục phút sau một chiếc xe "jép" chạy đến đỗ xịch sát lề đường trước mặt ghế đá, máy vẫn nổ rù rù. Trên xe, ngoài thằng lái xe, còn có hai tên Bảo vệ quân cầm tiểu liên. Nguyễn Trì từ phía bót cảnh sát đi đến. Hắn đưa hai ngón tay búng đánh tách, ra lệnh cho thằng mặc áo ca rô:
- Đưa nó về Ty An Ninh!
Thằng này đứng lên, xốc nách Kim đứng lên theo dìu đến bên cửa xe, nói:
- Mời chú em lên xe!
Kim như người mất hồn, run rẩy đặt một chân lên thùng xe. Thằng này lên gối thúc mạnh vào lưng Kim.
Mất đà, nó ngã nhào vào trong xe, đầu va phải cái cạnh ghế ngồi, máu lõa ra, chảy đỏ lòm cả mặt.
Chiếc xe rồ máy lao đi, giữa những cặp mắt hãi hùng ngơ ngác cửa những người qua đường.
10.
Gần hai giờ chiều. ở Vĩ Dạ, anh Ðồng-râu hết đi ra lại đi vào. Anh bồn chồn nóng ruột, đợi mãi không thấy Kim về. Mâm cơm để phần nó vẫn còn úp lồng bàn trên phản.
Lượm và Tư-dát về từ lúc mười một giờ kém mười lăm. Hai đứa ăn cơm chưa kịp uống nước, xỉa răng đã phải tất tả mang báo cáo về cho tổ liên lạc ở Sịa. Lần này anh cử Tư-dát cùng đi với Lượm, để nó quen đường.
Lỡ khi Lượm vắng mặt, nó có thể đi thay. Theo thông báo của ban quân báo trung đoàn, lần này phải chuyển về Huế khá nhiều truyền đơn và báo "Giết giặc".
Tư-dát cùng đi với Lượm, lỡ đọc đường gặp chuyện bất trắc, hai đứa có thể giúp nhau, bàn bạc, giải quyết.
Bà o cũng vừa cắp rổ đi chợ, ở nhà chỉ còn một mình anh. Quanh xóm im ắng khác thường. Xóm này người hồi cư còn thưa thớt. Nhiều nhà còn cửa đóng, then cài, sân đầy rêu, bậc cửa mốc meo.
Anh vào buồng định chợp mắt một tí. Chờ đến ba giờ nêu không thấy Kim về, anh sẽ nhờ bà o lên phố dò la tin tức.
Anh vừa đặt lưng xuống giường, bỗng nghe ở phía đầu xóm có tiếng lao xao lạ tai- Anh bật ngồi dậy dỏng tai chăm chú lắng nghe- Tiếng nhiều bước chân huỳnh huỵch và tiếng xát quy- lát súng. Tiếng một con chó sủa váng lên, hốt hoảng. Linh tính dường như báo cho anh biết có sự chẳng lành- Anh nhảy đến góc buồng, mở thạp gạo, thọc tay vào lôi ra một khẩu súng mô-de, quấn trong cái khăn mặt cũ. Anh mở ra, lau nhanh khẩu súng, tháo băng đạn, kiểm tra rồi lắp vào và bật chốt an toàn. Ngay lúc đó, phía trước ngõ nổi lên một tiếng còi chói tai, và tiếng hàng rào bị đạp gãy răng rắc.
Tiếng hô dữ tợn vang lên:
- Không được để nó chạy thoát!
Biết mình đã bị bao vây, anh Ðồng-râu đạp mạnh bức phên sát đầu chõng tre (bức phên này anh đã cẩn thận mở bứt nhiều nốt lạt buộc từ trước). Bức phên đổ ụp. Anh dẫm lên bức phên đổ lao ra phía vườn sau. Anh thấy lố nhố giữa những hàng cây ăn quả, mũ sắt và những họng súng.
- Nó thoát ra phía ni bay ơi. Bắn!
Một viên đạn rít, nóng bỏng sát sau gáy anh. Anh cúi khom người, siết chặt khẩu súng trong tay, bươn về phía bờ tre bên trái khu vườn.
Tiếng bọn giặc nhao nhao hò hét:
- Đứng lại? Ðứng lại! Hàng thì sống!
Súng nổ từng loạt, tiếng chân rầm rập đuổi theo anh Ðồng-râu vọt qua bờ tre. Gai tre móc áo, kéo rách toạc từ ngực ra lưng.
- Bắt sống? Bắt sống, Vòng ra bên trái đón đầu nó.
Tiếng bọn giặc la hét rầm rầm. Anh vẫn chạy, quay khẩu mô-de, bắn một phát qua vai. Một tiếng kêu rú đau đớn "Ối!" Tiếng người ngã đánh uych. Nhiều tiếng la ré:
- Thằng ni có súng. Cẩn thận đấy?
Gặp một con đường kiệt, anh rẽ ngang định lao ra bờ sông. Nhưng muộn mất rồi. Nhiều họng súng đón đầu anh. Cùng đường, anh lùi lại, vọt bừa qua mấy hàng rào đầy gai, bươn đến một ngôi đình bị phá hoại chỉ còn trơ mấy bức tường. Anh vọt mấy bậc tam cấp xây đá, lên nền đình ngổn ngang gạch vụn. Ðưa mắt bao quát địa hình, anh đứng nép sau bức tường rạn nứt, cao quá đầu. Anh cúi khom người nhìn qua khe nứt, thấy bốn năm tên giặc, cầm súng lăm lăm chạy vào sân đình, mắt nhớn nhác tìm kiếm.
Một thằng cao lòng khòng, tay cầm khẩu "côn-đu", vẫy vẫy ra lệnh cho những thằng trước sân đình:
- Chặn tất cả các lối ra xóm! Hắn đang núp sau mấy bức tường nứt kia thôi!
Bắt tay lên miệng làm loa, tên này gọi to:
- Ðồng-râu! Bỏ súng hàng đi! Chúng tao sẽ tha chết, Chống cự vô ích! Mày không thoát nổi mô!
Anh Ðồng-râu bàng hoàng trong khoảnh khắc "Tại sao tụi hắn biết tên mình! Thôi đúng rồi, Chắc là thằng Kim...".
Một loạt đạn trung liên bắn thẳng vào bức tường anh đang nấp, cắt ngang ý nghĩ của anh. Vôi vữa gạch vụn bay rào rào quanh anh. Anh chỉ nòng khẩu mô-de qua khe nứt, nhắm đúng ngực thằng chỉ huy, siết cò. Trượt! Viên đạn bay vù qua vai hắn, làm đứt tung cái cầu vai áo khía. Thằng này nổi nóng, vẫy khẩu "côn" bắn liền một băng vào khe tường nứt.
Anh Ðồng-râu đổi vị trí bắn. Anh luồn sang bức tường bên phải, có cái cửa tròn chữ Thọ. Anh quỳ xuống nâng súng ngắm một thằng cầm tiểu liên "Tôm-sơn" đang cúi lom khom, lò dò bước lên bậc tam cấp. Anh bắn liền hai phát. Tên giặc đang cúi bỗng dướn thẳng người lên, cổ ngay ra như bị hóc xương, cặp mắt trợn ngược, miệng há to như sắp quát mắng. Bất thần hắn ngã vật ra đằng sau, gáy đập mạnh vào thềm đá. Khẩu tiểu liên văng sang một bên. Hắn co quắp giẫy giụa, kêu ú ớ, và một dòng máu đỏ tươi vọt ra chính giữa trán.
Ðạn hết, anh thò tay vào túi áo móc mấy viên đạn dự trữ, định lắp tiếp vào súng. Nhưng ngay lúc đó, một tên giặc đội mũ sắt, vòng ra phía sau ngôi đình, nhô đầu lên khỏi bức tường đổ. Anh chưa kịp quay đầu lại, hắn đã chĩa khẩu tiểu liên vào lưng anh, kéo hết một băng đạn. Cả băng đạn mấy chục viên ghim hết vào lưng anh.
Anh chết tức khắc. Thân hình anh đổ nhào xuống cái bệ vôi có đặt những chiếc bát nhang sành sứt mẻ. Tay phải anh vẫn nắm chặt khẩu mô-de hết đạn. Bàn tay trái ngón quặp chặt bốn viên đạn vừa móc trong túi ra. Mái tóc rễ tre rậm lù xù thoáng điểm những sợi bạc, mồ hôi dính bết trước trán. Chòm râu quai nón vểnh ngược, bám trắng bụi vôi, đôi mắt có nhiều nếp nhăn rẽ quạt ở đuôi mắt mở to bất động.
Bọn giặc xúm đen xúm đỏ quanh xác anh. Chúng bẻ những ngón tay anh ra tước lấy khẩu súng và mấy viên đạn. Tên chỉ huy ra lệnh lấy dây dừa buộc hai chân anh, kẻo xác ra tận đường cái. Một chiếc ô tô tải G.M.C; thùng xe vải bạt bít kín, đỗ ở đó. Trong góc thùng xe, Kim-điệu mặt mũi tím bầm, sưng húp, ngồi thu lu, mặt gục xuống đầu gối.
Chính nó đã dẫn đường cho bọn giặc vây bắn anh Ðồng-râu. Sự việc xảy ra khá đơn giản:
Mười một giờ trưa hôm đó. Nguyễn Trì đưa Kim về đến Ty An Ninh. Lúc này nó đã rõ ông anh nuôi yêu quý, mà một giờ trước đãy nó có ý định giúp đỡ, dắt dẫn vào con đường hoạt động tình báo, lại chính là trưởng ban Di động của Ty An Ninh. Ban Di động của hắn đang lồng lộn tìm kiếm dầu vết, manh mối của trận tấn công đồn Hộ Thành và rải truyền đơn đêm qua. Cách đây mấy hôm các quan thầy Pháp bên sở mật thám Phòng Nhì vừa "xà lù" Ty An ninh là kém cỏi, bất lực. Việt Minh ngày càng làm mưa làm gió ngay trước mũi mà không tóm nổi một tên nào?
Cả Ty An Ninh lo sốt vó trước lời mắng mỏ của quan thầy. Dùi đánh đục, đục đánh săng. Gã Ty trưởng trút hết nỗi lo sợ bực dọc lên đầu hắn, người chỉ huy đội quân điều tra, chỉ điểm của Ty. Gã gọi hắn là "Trưởng ban ăn hại".
Một sự may mắn tình cờ, hắn được gặp lại chú em nuôi quý hóa...
Chỉ sau mấy cái tát, mấy cú đấm của tên Năm-ngựa trước kia là dân dao búa côn đồ, bây giờ là chuyên nghiệp tra tấn của ty, Kim-điệu đã phun ra hết. Cả Ty An Ninh mừng rơn. Một mặt, tên Ty trưởng cho điều một trung đội Bảo vệ quân về Vĩ Dạ, do Kim dẫn đường, vây bắt anh Đồng-râu. Mặt khác, Nguyễn Trì dẫn một tổ Di động viên về đầu cầu Bao Vinh đón bắt Lượm và Tư-dát từ Sịa trở về.
Bọn Bảo vệ quân vứt xác anh Đồng-râu vào thùng xe, ngay trước mặt Kim. Cái xác nằm ngửa. nhìn thấy cái vạt ngực áo bà ba đũi Mỹ Lợi thân thuộc của người chỉ huy, đầm đìa những máu, và cặp mắt anh mở trừng, bất động, Kim kêu thét lên, hãi hùng, hoảng loạn. Nó ôm chặt lấy tên Bảo vệ quân ngồi cạnh như cầu xin sự che chở.
Xe nổ máy, chở xác anh về đến đầu đập Ðá. Chúng đỗ xe, lôi xác anh xuống đặt nằm trên vạt cỏ sát lề đường. Cạnh xác chúng cắm một tấm biển có dòng chữ:
"Tên Ðồng-râu. Việt Minh đầu sỏ chỉ huy đánh đồn Hộ Thành và các vụ ám sát nhân viên nhà nước đã bị Ty An Ninh Thừa Thiên điều tra phát giác, phối hợp với Quân đội quốc gia lùng bắt được và bắn chết tại Vĩ Dạ vào lúc ba giờ bốn lăm phút ngày... tháng... năm... Chúng bêu xác anh tại đấy suốt ba ngày ba đêm khi đã gần thối rữa mới đem chôn.
11.
Lượm và Tư-dát về đến trạm liên lạc khi mặt trời đã xế bóng. Trạm đóng trong nhà một cán bộ Việt Minh xã ở sâu cuối ngõ xóm.
Ở trạm lúc này chỉ có Hiền và Bồng. Châu đi liên lạc lên chiến khu từ chiều hôm kia chưa về. Công việc của tổ liên lạc khá vất vả. Chỉ có ba đứa mà phải lên, về chiến khu xoành xoạch. Ðường từ Sịa lên chiến khu phải băng qua nhiều trảng cát, vượt đường quốc lộ Một lội qua mấy con sông, len lỏi qua nhiều xóm ấp nằm sát bên vị trí địch, đi hàng mấy giờ liền dọc những sườn đồi đá sỏi, gốc cỏ tranh mọc lởm chởm nhọn sắc như gai..
Lúc lên về chiến khu, ba đứa phải cải trang làm trẻ chăn trâu đi tìm trâu lạc. Ðó là hình thức cải trang thuận tiện, che mắt giặc tốt hơn cả.
Ðầu đội nón mê (tài liệu thường cài trong lá nón), tay cầm roi, áo quần cộc rách vá tứ tung, bùn lấm từ đầu đến chân; dọc đường, hễ gặp người lớn có khi là tề dõng, Bảo Vệ Quân, là chúng lại mếu máo hỏi: "Anh ơi chú ơi, hoặc ông ơi, có thấy con trâu Ô, sừng quặp của tui chạy lạc qua đây không?" Bồng mắc bệnh gì ngoài da không biết, cứ đến mùa đông da nổi vẩy lên như vẩy rắn, cả đội gọi nó là Bồng-da-rắn. Nó không chịu, bảo vẩy nó giống vẩy trăn hơn. Nhưng cả đội không đứa nào chịu cải tên cho nó là Bồng- da- trăn, cứ gọi Bồng-da-rắn. Nó ức lắm, mấy lần sinh sự đánh nhau.
Bồng-da-rắn trước khi vào Vệ Quốc Đoàn làm đủ nghề, bán đậu phụng rang, bắp rang, "bánh mì nóng mới ra lò", "Cà- rem" v.v...
Châu có một vết rám ở má bên trái, như bị lửa cháy sém, các bạn gọi Châu-sém. Châu-sém là con nhà thuyền chài trên sông Hương. Châu-sém trạc tuổi Hiền, nhưng khỏe gấp hai gấp ba. Người nó đen trùi trũi, tay chân đã có bắp thịt săn chắc như thừng neo thuyền.
Bồng-da-rắn và Châu-sém cải trang làm trẻ chăn trâu thì không còn phải bàn. Như lột. Riêng Hiền trắng trẻo, xinh trai, dáng dấp đặc biệt học trò thành phố, đóng giả chăn trâu dễ lộ lắm. Nhưng nó vốn là đứa cứng đầu cứng cổ, không dễ gì chịu hàng trước khó khăn. Công việc càng khó khăn càng say mê hấp dẫn nó. Nhận lấy những việc thật khó, ít ai làm nổi, rồi làm tròn một cách xuất sắc, đó là điều nó luôn luôn mơ tưởng. Ngược lại; những việc dễ dàng làm cho nó buồn chán bỏ dở.
Khi mới bắt tay vào việc đi liên lạc lên chiến khu, Bồng-da-rắn, Châu-sém đều tỏ ý lo lắng, không tin tưởng Hiền có thể đóng giả trẻ giữ trâu. Chúng nói:
"Nước da mi trắng như bột lọc, bàn tay bàn chân sạch bong như tay chân mấy o nữ sinh Ðồng Khánh rứa mà mi đòi giả đò đứa đi giữ trâu, thì tụi Tây, tụi Bảo vệ quân có mù cũng biết là giả đò! Hay thôi mi ở nhà giữ nhà đề hai đứa tau đi cũng đủ." Hiền cười :
- Cảm ơn lòng tốt của tụi bay. Nếu ở nhà giữ nhà thì tao ở quách nhà tao, việc chi phải lặn lội đi Vệ Quốc Ðoàn làm chi cho mệt?
Và cũng từ hôm đó, nó cởi trần, mặc quần đùi chạy ngoài đồng cát dang nắng ngày này qua ngày khác. Chỉ mấy ngày mà tóc tai, da thịt nó khét lẹt mùi nắng. Nó để đầu tóc bù xù, tóc phủ gáy, trổ như tổ quạ.Vốn là đứa sạch sẽ nhất đội, nhưng bây giờ nó tập ăn ở nhớp còn hơn cả Bồng-da-rắn là đứa nồi tiếng ở nhớp. Tay chân nó chỉ rửa qua quýt, móng tay móng chân ghét dắt đen kịt. Tối đi ngủ, nó học Châu-sém, Bồng-da-rắn rửa chân khô: Ngồi lên chõng, xoa xoa hai bàn chân vào nhau, vỗ đánh bép một cái, thế là xong. Ðêm đầu tiên ngủ theo lối "rửa chân khô", nó trằn trọc hoài không sao ngù được. Cái cảm giác gai gai, sạn sạn, nhớp nhúa ở hai bàn chân như ngấm khắp cơ thể nó, làm nó mất ngủ- Nó đổi bộ áo quần đẹp nhất của nó lấy bộ áo quần vá chằng vá đụp, hôi rinh rích của một thằng bé chăn trâu trong xóm- Lúc mặc bộ áo quần này vào người da thịt nó nổi hết gai ốc. Những hôm không phải đi liên lạc, nó ra bãi thả trâu, đánh bạn với bọn giữ trâu. Nó học cách gọi trâu lạc, nghé lạc: "Nghé ơi, nghé ơi!"... Nó cỡi những con trâu đang nhởn nhơ gặm cỏ, nằm ép bụng lên lưng trâu để quần áo, da thịt nó ướp mùi trâu.
Chỉ sau chưa đầy một tháng, Tư-dát gặp lại nó, suýt nữa không nhận ra. Tư-dát há miệng trợn mắt kêu lên:
- Ui chao! Mi đó à Hiền?
Vẻ sửng sốt, ngạc nhiên của Tư-dát làm Hiền thích thú hãnh diện ra mặt. Thích thú và hãnh diện không kém gì những người vốn nghèo khổ, rách rưới nay trở nên giàu có, trưng diện làm bạn cũ suýt không nhận ra.
Trong ba đứa, nó đi bộ yếu nhất. Hồi còn ở nhà chân nó mấy khi rời khỏi được dép. Gót chân đỏ ong không có một vết nứt, một tí chai. Buổi đầu đi liên lạc lên chiến khu trở về, hai bàn chân nó sưng húp, gót chân nứt nẻ, rướm máu. Bồng- da rắn, Châu-sém thương nó quá. Hai đứa xúm lại chăm sóc. Đứa nấu nước nóng, đứa đi mượn chậu hòa muối cho nó ngâm chân. Hai đứa nhìn gan bàn chân nó, xót xa nói:
- Úi chao, mi đi thêm vài lần nữa e què mất! Thôi để hai đứa tao đi thay cho.
Thằng Hiền lắc lắc cái đầu tóc bù rối như tổ qua nói giọng ông cụ non:
- Hai đưa mi có đi thay tau cũng chỉ thay được năm bảy lần, chứ có thay được hết cả đời tau không?
- Rứa mi định đi liên lạc hết cả đời mi à?
- Ừ, tau nghĩ kỹ rồi, tau phải rèn luyện cặp giò để làm chiến sĩ cách mạng như ông Minh-trâu mà thằng Lượm vẫn kể cho tau nghe.
- Ông Minh-trâu là ông mô rứa?
- Ông là đồng chí cách mạng với cha cậu Lượm. ông tên Minh nhưng dáng người cục mịch đen đúa như cụ trâu, nên các đồng chí ông đặt biệt hiệu Minh-trâu. Hai đứa mi chưa biết chứ thằng Lượm là con nhà cách mạng nòi đó. Cha hắn làm chiến sĩ cách mạng từ thời tụi mình chưa đẻ, bị Tây bắt rồi vượt ngục mấy lần. Tụi mật thám Tây bắn chết cha hắn ở nhà tù Côn sơn lúc hắn mới có hai tuổi. Ông Minh-trâu làm chủ nhiệm Việt Minh huyện Hương Thủy. Hồi cách mạng tháng Tám, ông chỉ huy cả huyện nổi dậy cướp chính quyền. Ngày còn hoạt động bí mật, ông chuyên việc đi liên lạc cho Ðảng Cộng sản. Mà có phải đi liên lạc kiểu ấm ớ như mấy đứa mình từ đây lên chiến khu, từ chiến khu về đây mô? Ông đi phải đi từ Huế vô đến Công Tum, Ðắc Lắc, rồi ra tới Nghệ An, Thanh Hóa.
- Nhưng chắc ông ta đi mô, tàu hỏa?
- Ði tàu hỏa ô tô, thì nói làm chi! Ông toàn đi bộ, xuyên rừng mà đi! Mang toàn công văn tài liệu của Ðảng Cộng sản mà đi tàu hỏa, ô tô, để mật thám tóm cho rồi đời à!
Châu-sém, Bồng-da-rắn lè lưỡi khiếp phục.
Thằng Lượm kể chỉ ngó hai bàn chân ông cũng đủ biết ông đã đi bộ mấy nghìn, mấy vạn cây số. Bàn chân to mà vuông như lưỡi cuốc tượng, Gan bàn chân dày cộm toàn chai, gót chân nứt nẻ như củ sắn bở luộc quá chín. Ði vấp phải mảnh lu, mảnh ghè, kêu cái cong!
Làm chủ nhiệm Việt Minh huyện mà ông vẫn cứ đi đất, chẳng có thứ giày dép mô vừa chân ông ta cả...
Hiền nhúng hai bàn chân sưng húp, rát bỏng vào chậu nước muối nóng, mắt đăm đăm nhìn ra trảng cát chói nắng. Nó nói, giọng nghiêm trang như muốn thổ lộ một niềm tâm sự thầm kín, một nỗi áo ước nung nấu từ lâu:
- Sau này lớn lên, nếu tau cũng được vào đảng Cộng sản, đảng có hỏi tau: "Ðồng chí Hiền muốn nhận công tác chi?". Tau sẽ xin với đảng: "Cho tui được đi liên lạc cho Ðảng như ông Minh-trâu".
- Rứa mi không đi làm xiếc nữa à? - Bồng-da-rắn thật thà hỏi?
- Xiếc xót chi! Tại hồi đó còn con nít nên tao hay thích loăng quăng.
Nó làm như bây giờ nó đã người lớn lắm, và cái hồi còn thích đi làm xiếc ấy đã cách đây hàng bao nhiêu năm.
Châu-sém và Bồng-da-rắn cũng lây niềm mơ ước sôi nổi của nó. Hai đứa cùng nói:
- Lớn lên tau cũng sẽ xin vô Ðảng Cộng sản như mi.
- Có được không mi hè? Vô Ðảng Cộng sản là phải tài giỏi lắm, chứ mấy đứa liên lạc ấm ớ như tụi mình thì ai cho vô. Châu-sém nói.
- Ðể hôm mô gặp anh Ðồng-râu tụi mình hỏi thử coi. Giọng Hiền lộ vẻ băn khoăn. Tau nghe lỏm mấy anh trên ban Tham mưu trung đoàn nói anh Đồng-râu là Ðảng viên Cộng sản từ thời còn bí mật.
Bồng-da-rắn nói:
- Thằng Vịnh-sưa mà còn sống nhất định hắn phải được vô đảng Cộng sản. Hồi ở mặt trận Xê, tao hay nghe các anh lớn bàn nhau: "Vô đảng Cộng sản trước hết là phải anh dũng. Cách mạng cần việc chi, làm việc đó, chết cũng không sợ." Nó bỗng la lên, hết sức bất ngờ :
- Có hai con gà trống nhà ai đang đá nhau ngoài ngõ ghê quá bây ơi. Ta ra coi đi!
Thế là cả ba đứa chạy ùa ra ngõ, xúm quanh đôi gà trống nhà ai đang cơn say máu chọi nhau, cánh đập phành phành, bụi đất, lông, bay mù. Mỗi cú đá hay, ba đứa đều nhảy dựng lên, cười reo, hoan hô, cổ vũ.
12.
Lượm và Tư-dát sửa soạn lên đường trở lại Huế thì Châu-sém từ chiến khu về, tay xách ba đòn bánh tét khá to. Nó reo lên mừng rỡ:
- Hay quá? May tau về vừa kịp không thì ba đòn bánh tét ni để mấy hôm chờ mi, thiu mất.
Lượm hỏi:
- Bánh chi đó?
- "Giết giặc"!
Lượm hiểu ngay trong ruột bánh là báo "Giết giặc", tờ báo kháng chiến của tỉnh Thừa Thiên.
Ngoài ba đòn "Giết giặc" còn bốn đòn "truyền đơn" đưa về Sịa từ hai hôm trước. Hai đứa phải mang cả bảy đòn này đưa về Huế.
Tư-dát cười hề hề:
- Mấy ông Tham mưu trung đoàn mất lập trường quá. Vệ Quốc Đoàn mình thì đói vàng mắt lại cứ gửi bánh tét hết đòn to, đòn nhỏ cho Tây với Việt gian ăn!
Hiền hỏi:
- Truyền đơn rải còn dễ chứ báo "Giết giặc" thì tụi bay làm răng?
Lượm nói:
- Lúc đầu tụi tau cũng lúng túng lắm, không biết làm cách chi để đồng bào đọc được- Nếu đem rải như truyền đơn thì tờ báo to rứa, ai dám lượm? Sau anh Tư-dát nhà mình, - nó đưa mắt nhìn Tư-dát cười, - nghĩ được một mẹo: Mua báo "Bình minh" của tụi Việt gian, khổ cũng vừa in tờ "Giết giặc", cắt lấy đầu đề báo, dán thay vô đầu đề báo "Giết giặc". Rứa là mũ thì "Bình minh" mà đầu thì "Giết giặc". Ba đứa tau cứ việc chia nhau báo, đem đi dán công khai giữa ban ngày, dán đúng vô những chỗ tụi hắn thường dán báo. Ðồng bào xúm xít tha hồ đọc.
Hiền, Châu-sém, Bồng-da-rắn ôm lấy Tư-dát vật xuống đất, cù cho một trận.
- Trời ơi, mi khôn thiệt! Mi cũng là loại cách mạng nòi.
Tư-dát lăn lộn dưới đất cười chảy cả nước mắt đứt dây lưng quần thì ê chề lắm!
Lượm hỏi Châu-sém:
- Tình hình chiến khu dạo ni ra răng? Ðội mình còn ở trên đó hay về đồng bằng hoạt động?
- À, tau quên chưa nói cho tụi bay biết. Tụi tây vừa kéo lên đóng đồn ở Ðất đỏ, cách chiến khu chỉ non bốn cây số. Nghe nói tụi Tây đóng đồn ni toàn là quân thiện chiến nhất nhì Ðông Dương. Tụi hắn muốn chặn ngang cổ họng chiến khu, không cho đồng bằng tiếp tế lên.
Nhìn thấy vẻ mặt lo lắng bồn chồn của các bạn, nó nói thêm như an ủi. Nhưng ăn thua chi! Chặn đường đó ta đi đường khác. Chán vạn chi đường! Chừ nhà cửa chiến khu mọc lên nhiều lắm. Có cả bệnh viện, xưởng bào chế, xưởng quân giới, nhà Văn hóa đại chúng to rộng như cái đình. Còn đội mình không ở trong núi xanh nữa mà ra làm lán ngoài tiền chiến khu, ngay trên bờ sông Ô Lâu.
Các tổ được phân công về đồng bằng hết. Tổ bám đường quốc lộ theo dõi xe cộ giặc đi lại hàng ngày, tổ bám vị trí giặc nắm tình hình tin tức càn quét, hành quân.
Công việc tụi hắn cũng vất vả gớm lắm bay ạ. Cả đội chỉ còn lại thằng Mừng với thằng Quỳnh-sơn-ca ở nhà làm liên lạc cho đội trưởng. Hai đứa nhỏ mà đau luôn, nên đội trưởng bắt phải ở nhà. Tụi hắn khóc đã gớm. Ðội trưởng phải mua chè sắn dỗ mãi mới chịu nín. Thằng Mừng dạo ni chăm học lắm. Mấy lần lên chiến khu, tau đều gặp hắn ngồi trước cửa lán, cầm tờ báo "Giết giặc", đánh vần đọc ê a. Lần vừa rồi lên, tao thấy hắn đang cởi trần phơi nắng, giăng áo ra bắt rận. Tau ngứa miệng nói chơi. "Mi đọc báo "Giết giặc" đó à? Có tin chi hay không?" Hắn cau mặt, xạc tau luôn: "Anh ăn nói ba láp quá! Ai lại đi ví cái áo rách đầy rận ni với tờ báo của Chiến khu "Giết giặc". Ui chao, giọng hắn răng mà giống đúc giọng thằng Vịnh-sưa hồi ở Huế. Thằng Quỳnh-sơn-ca mới làm được bài hát "Sông Ô Lâu kháng chiến", hay lắm. Cả chiến khu ai cũng hát. Trung đoàn trưởng, chính ủy đều khen hay. Trung đoàn trưởng có viết thư gửi anh Đồng-râu đây, dặn anh mua cái đàn "măng tre" "măng lồ-ô" chi đó, lần sau tụi bay mang ra đây để tao xách lên cho ông, ông thưởng cho hắn.
Châu-sém moi trong cán cái roi trâu ra một mảnh giấy cuộn tròn đưa cho Lượm. Tư-dát cầm đọc thư của Trung đoàn trưởng gửi anh Ðồng-râu, dặn anh tìm mua một cái đàn măng-đô-lin loại thật tốt, để thưởng cho em Quỳnh-sơn-ca đã có công sáng tác được một bài hát hay về dòng sông Ô Lâu, dòng sông của chiến khu cách mạng.
Tư-dát cười ngặt nghẹo:
- Ðàn măng-đô-lin mà mi nhớ ra thành đàn măng tre, măng lồ-ô, thì đến Bụt trên chùa cũng không nhịn được cười!
Châu-sém, cũng cười:
- Thì ai biết mô, cứ nghe nói măng là tao nghĩ là măng tre, măng lồ-ô, chứ cái măng-đô-lin thì cha ai mà nhớ được. Ổng thử dặn tau mua cá coi. Có giống cá trời tau cũng nhớ!
13.
Sắp đến gần cầu ván Mậu tài, Lượm nói với Tư-dát:
- Mi đưa bánh tét đây tao xách cho. Mi đi trước chừng trăm bước, giả đò bắn ná. Thấy có chi động dạng thì giương ná lên như sắp bắn, ra hiệu cho tao biết.
Tư-dát trao bảy đòn bánh tét cho Lượm, rút ná cao su trong túi ra, lắp đạn, đi vượt lên trước.
Bước lên cầu ván, Tư-dát lại gặp thằng Tặng ngồi vắt vẻo bên mép cầu câu cá.
Lúc sáng qua đây, hai đứa đã gặp nó ngồi ở đó rồi.
Lượm giới thiệu Tặng với Tư-dát. Hôm trước nó đã kể chuyện cho cả tổ nghe trường hợp oái oăm nó làm quen với thằng Tặng. Bây chừ được gặp mặt, Tư-dát thích lắm, cười nói:
- Không khéo mi rồi thành ông Lã Vọng mất.
Lã Vọng là việc chi không biết, chỉ biết là mới sáng hôm qua, thu tóm được một thằng Vê-giê đi qua đây. Vê-giê chính cống chứ không phải loại Vê-giê ấm ớ như thằng ni mô. Tặng cười khì khì chỉ vào Lượm.
Lượm sờ cằm:
- Ðúng là đánh nhau bể đầu mới nhận ra anh em chú bác. Cằm tau vẫn còn hơi ê ê.
- Rứa cho hai đứa bay đứng chờ đây, tau chạy về nhà chặt cây mía đến ăn là hết ê ê ngay. Nó định đứng lên chạy về nhà chặt mía, nhưng Lượm nói:
- Thôi Tặng ạ, để khi khác. Lần này hai đứa mình có việc vội lắm, phải đi ngay cho kịp.
Tặng nhìn hai đứa, vẻ ái ngại:
- Cuộc đời vê-cu-đê coi bộ cũng tất tả gớm hè!
Tư-dát vừa cười vừa ngâm nga:
- "Ðời cách mạng từ đây tui đã hiểu. Dấn thân vô là phải chịu tù đày. Là gươm kề cổ súng kề tai" Mi chưa nghe nói đó à? Nó bỗng nhìn xuống nước kêu ầm lên: Giật! Giật! Phao chìm rồi! - Nó chộp lấy cần câu trong tay Tặng, giật phắt một cái thật mạnh làm lưỡi câu dính con cá rô văng ngược lên cành si và mắc luôn trên đó. Con cá bị treo mỏ giẫy giụa như điên, làm chỉ câu càng quấn chặt thêm vào cành si.
Tư-dát xắm nắm định trèo lên gở. Tặng nói:
- Ðể đó tau gở cho. Hai đứa bay cứ đi đi cho kịp công việc. Này! cái đời cách mạng chi mi vừa đọc đó, mi viết giúp cho tau vô tờ giấy, tao đánh vần đọc chơi nghe!
- Ðó là thơ - Tư-dát nhìn Tặng ngạc nhiên, - mi cũng thích thơ à? Bài đó dài lắm, để tau chép hết cả bài cho mi, tha hồ đọc.
- Nì, có viết nhớ viết rõ rõ mà chữ to vô nghe. Ðây mới học bình dân, chữ thảo mà ngoằn ngoèo như chỉ câu rối là đây xin hàng đó nghe!
Nghe nó nói, tự nhiên Tư-dát thấy gương mặt Tặng trở lên sáng sủa, thông minh và dễ thương quá chừng.
Bây giờ trở về, nhìn thấy Tặng ngồi câu, Tư-dát mới chợt nhớ là quên chưa chép thơ cho nó. Tư-dát cảm thấy ngượng ngùng, xấu hổ.
Bên cạnh chỗ ngồi. Tặng để sẵn hai đẵn mía tím, gióng rất dài, chặt rất đều như đo mà chặt. Hai đẵn mía để dằn lên một tờ giấy trắng khổ rộng, có kẻ dòng.
Tư-dát hỏi:
- Ðược mấy con rồi?
- Một trê, một diếc. - Tặng cầm một đẫn mía đưa cho Tư-dát. - Phần của mi. Còn đây là tờ giấy để mi viết thơ đời cách mạng.
Tư-dát xua tay:
- Thôi, thôi, giấy thì ở Huế thiếu chi. Mi để đó mà học. Lần sau đi qua đây tau nhất định sẽ mang thơ cho mi. Tau sẽ chép đẹp như chữ in, không cần biết chữ cũng đọc được? Thằng Lượm đang đi sau kia - Chừ tao phải đi cái đã... Tau làm nhiệm vụ xích hầu. Tư-dát vừa xướt mía ăn vừa vượt nhanh qua cầu để giữ đúng cự ly một trăm bước.
Lượm bước lên cầu. Tặng đứng lên, đưa mía cho Lượm.
- Cây mía ni tau chặt đúng cái bụi cây lần trước đó. Ngọt hết chê!
Tặng chợt nhìn trật xuống xách bánh tét trong tay Lượm bằng cặp mắt ranh mãnh.
- Bánh tét mua à?
- Không. Của bà cụ quen ở Sịa gửi cho con gái bán hàng nước ở Cầu Đông Ba cũ.
Tặng cười tủm tỉm:
- Bà cụ cậu quen chắc là hay lừa đảo ghê lắm Bánh gửi cho con gái ngó bộ thì to, mà xách thì nhẹ bỗng. Chắc bên trong, bà chỉ độn toàn giấy nhật trình.
Nhận xét của Tặng làm Lượm giật bắn người. Ðó là một sơ xuất mà nó và tổ liên lạc không nghĩ ra. Những đòn bánh tét này xách quá nhẹ.
Nó nói, giọng khâm phục:
- Cậu mà làm Việt Minh thì chết cha Việt gian! Cậu mà làm Việt gian thì chết tổ Việt Minh? Nhưng cho biết làm răng hè? Không thể mở ra mà chêm thêm đá vô cho nặng được... Mà cứ xách kiểu ni về đến Huế, lỡ gặp phải tụi kiểm soát cũng khôn như cậu thì rồi đời.
Tặng nghênh nghênh cái đầu húi "cua" gần như trọc, cái trán nhăn, vẻ nghĩ ngợi:
- Ừ gay thiệt! Mở ra thì lôi thôi lắm. Chỉ còn một cách lả phải giả đò xách nặng...
Tặng cầm lấy xâu bánh tét trong tay Lượm, đi thử qua cầu. Một vai nó lệch về một bên, bàn chân phía tay xách dẫm lên ván cầu vẻ nặng hơn hẳn bàn chần kia.
Lượm nhìn theo càng thêm cảm phục: "Trời ơi, điệu bộ nó mới tuyệt chứ! Nhìn đúng như nó đang xách xâu bánh tét thật, nặng hàng bảy tám kí lô"! Tặng vòng lại đưa xâu bánh tét cho Lượm:
- Cậu đi đi, không thì về đến Huế tối mất!
Xách xâu bánh tét, qua khỏi cầu được một đoạn.
Lượm quay đầu lại. Tặng đang đứng giữa cầu nhìn theo cười ranh mãnh, đầu gật gật như có ý bảo: "Ðược đó, được đó đi như rứa được đó! Cứ rứa mà đi nghe?".
14.
Nguyễn Trì đội mũ phớt, đeo kính rậm, mặc bộ áo quần ga- bạc- đin màu tro, ngồi vắt chéo chân trong tiệm cà phê nhỏ mới mở, cách cầu Bao Vinh chừng ba trăm thước. Hai tên nhân viên di động đứng ở bên kia đường.
Mỗi đứa dựa lưng vào một gốc cây, cách nhau vài trăm thước, vẻ như người đi đường dừng lại nghỉ chân.
Ba tên chó săn rình phục ở đây từ lúc một giờ ba mươi phút chiều. Coi bộ cả ba bồn chồn nóng ruột lắm.
Nguyễn Trì ngồi khuất sau tấm rèm cửa sổ nhìn ra đường, một tay lần lần trên má nặn trứng cá, mắt hết nhìn phía cầu Bao Vinh lại nhìn đồng hồ đeo tay. Hắn đã gọi đến cốc cà phê thứ ba, đốt hết điếu thuốc lá này đến điếu khác.
Theo lời khai của thằng Kim thì tên Lượm thường đi liên lạc về Sịa vào lúc mười giờ sáng và trở lại Huế khoảng ba bốn giờ chiều. Sao đến bây giờ đã gần bốn rưỡi, vẫn chưa thấy bóng hắn mò về? Hay nó về rồi nhưng bằng con đường khác? hay chiều nay nó không về? Mỗi lúc hắn càng thêm tức tối nóng ruột. "Ông nội mi! - Hắn gầm gừ chửi thầm - tau mà tóm được, trước tiên tau phải cho mi rụng hàm răng cửa?" Bàn tay hắn đang đặt trên đùi siết lại thành nắm đấm. Cánh tay giật giật như lên cơn động kinh. Hắn khoái trá tưởng tượng đến cái phút được giáng cật lực nắm đấm vào miệng cái thằng đã từng làm cho hắn phải vô cải hối thất hồi ở Trung đoàn bộ... Tự nhiên hắn nhếch mép cười gằn, làm o bán hàng cà phê liếc nhìn hắn, lo lắng, ngơ ngác.
Toàn bộ con người hắn, từ diện mạo đến cử chỉ toát ra cái vẻ hung hãn, liều lĩnh của kẻ phản bội, quyết bán mình cho giặc, vì tiền bạc và cả vì thù hận.
Ngày Huế vỡ mặt trận, hắn theo đơn vị chạy ra đến Hiền Sĩ thì bỏ trốn. Hắn quanh quẩn trong vùng này cho đến ngày bọn Pháp tràn đến. Hắn ra hàng giặc và tâng công bằng cách chỉ cho chúng bắt và bắn chết ba chiến sĩ bị thương không rút kịp, sống trà trộn trong dân. Hắn lại chỉ cho giặc đào được hai khẩu đại liên Hốt kít của đại đội liên pháo chôn giấu, mà do một sự tình cờ hắn biết được. Bọn giặc đưa hắn về Huế và cho làm trưởng ban Di động Ty An Ninh.
Thật ra, trong nghề mật thám, hắn chẳng có tài ba gì, chỉ là loại lính mới tò te. Nhưng được cái hắn rất táo tợn, liều lĩnh và hay gặp vận may. Như việc bất ngờ gặp chú em nuôi sáng nay chẳng hạn.
Sau vụ quân ta đột kích đồn Hộ Thành và rải truyền đơn, dán báo "Giết giặc", bọn Pháp hết sức lo lắng và tức giận. Vì ảnh hưởng của vụ này trong dân chúng quá lớn. Ba tổ chức mật thám của Pháp và ngụy quyền: Phòng Nhì, sở Mật thám Liên bang và Ty An Ninh dưới sự chỉ huy chung của tên quan ba mật thám Sô-lê, đã huy động gần hết lực lượng tác chiến để điều tra manh mối. Quan ba Sô-lê còn treo giải thưởng ba ngàn đồng Ðông Dương cho nhân viên nào phát hiện và bắt được những kẻ có liên quan trong vụ này.
Nhờ gặp chú em nuôi mà món tiền thưởng đó Nguyễn Trì coi như đã cầm chắc trong tay.
Sau khi cùng với đội hành động bắn chết anh Đồng-râu ở Vĩ Dạ. Nguyễn Trì dẫn hai nhân viên di động về phục ở đầu cầu Bao Vinh để đón bắt Lượm trên đường từ Sịa về Huế. Hắn rất hy vọng sau vụ này, sẽ được bọn Pháp cất nhắc lên chức phó ty An ninh.
Chính trong cái phút hắn đang mơ màng danh vọng đó, thì Tư-dát đi ngang qua trước quán cà phê mà hắn không để ý!
Trước hết, hắn không biết mặt Tư-dát. Và cũng theo lời khai của thằng Kim thì Tư-dát thường ở nhà với Đồng-râu, Lượm chỉ đi liên lạc một mình về Sịa, lúc vây bắt Ðồng râu không tìm thấy Tư-dát. Hắn đoán thằng Tư-dát được sai đi đâu đó nên đã may mắn trốn thoát. Sổng mất, Tư-dát, hắn có ý tiếc, nhưng tự an ủi: "Bắt được thằng Lượm, là coi như bắt được tất cả".
Theo lời khai của Kim-điệu, trong ba đứa, Lượm được Đồng-râu tin cẩn nhất. Nó tuy nhỏ nhưng là dân "cách mạng nòi". Cha nó làm cộng sản bị Tây bắn chết từ khi nó mới lên hai tuổi. Sau ngày Cách mạng tháng Tám, tên cha nó được dân làng đặt tên cho con đường chính chạy qua làng. Nó được Đồng-râu giao riêng việc liên lạc với chiến khu. Nhiều việc bí mật, Ðồng-râu chỉ cho một mình nó biết. Bao nhiêu truyền đơn, báo "Giết giặc", đều do một tay nó đưa về Huế. Trận đánh đồn Hộ Thành đêm qua nó cũng được Ðồng-râu cho biết trước và có thể chính nó đã dẫn đường cho Vệ Quốc đoàn lọt vào thành nội. Việt Minh đột nhập nội thành bằng đường nào, và bằng cách nào? Rút ra đường nào? đã rút ra hay còn lẩn quất trong thành nội? Chắc là nó biết rõ.
Sáng nay, trong phòng tra tấn của Ty An Ninh, thằng Kim chỉ mới nếm sơ mấy quả đấm của Năm-ngựa, đã phun ra không thiếu một điều gì, để nhẹ bớt tội bao nhiêu việc lớn nhỏ, có nhiều việc nó bịa đặt thêm thắt, trút hết lên đầu Lượm.
Bởi vậy, cả ty An ninh và Sở Mật thám Phòng Nhì Pháp hết sức quan tâm đến việc phục bắt Lượm. "Trần Lượm, một tên tình báo Việt Minh hết sức lợi hại và nguy hiểm. Nếu bắt được hắn, sẽ khám phá ra nhiều tổ chức hoạt động bí mật của Việt Minh trong thành phố Huế". Viên chủ sự Ty An ninh đã điện cho quan ba mật thám Sô-lê như vậy
15.
Làm nhiệm vụ đi trước dò đường (mà Tư-dát thích gọi là xích hầu) từ cầu Ván làng Mậu Tài đến cầu Bao Vinh, Tư-dát không gặp qua một trạm kiểm soát, một tên lính Bảo vệ quân hoặc cảnh sát nào. Lúc đầu nó có vẻ ngạc nhiên, tự hỏi: "Ơ! tụi hắn chết rấp mô hết rồi?".
Nhưng nó sực nhớ chiều hôm nay là chiều thứ bảy. Nó à một tiếng ngoác miệng cười: "Rứa mà quên mất. Giờ ni chắc cha con tụi hắn đã về đi la-mát với vợ con cả rồi. Ði mần mật thám cho Tây kiếm ba miếng bơ thừa sữa cặn, có mô mà tích cực như mình đi mần cách mạng?" Tư-dát nghĩ vậy và lơ là dần nhiệm vụ xích hầu. Thế rồi, càng đi gần về Huế nó càng bị cuốn hút vào cái thú say mê bắn chim. Phải công nhận nó quả là thiện xạ. Vừa đi xích hầu vừa bắn mà nó hạ được bốn con chào mào và một con cu gáy, buộc chân xách một xách lủng lẳng. đấy là chưa kể một con bói cá và một con chim gáy rơi quá xa đường cái, nó không dám bỏ quên nhiệm vụ chạy đi nhặt. Suốt đọc đường nó cứ xuýt xoa tiếc mãi.
Lúc Tư-dát đi qua quán cà phê. Nguyễn Trì cũng nhìn thấy nó, nhưng nhìn xâu chim nó xách nhiều hơn.
Hắn định gọi vào hỏi mua, nhưng nhớ đến công chuyện đang chờ, nên thôi.
Say men thắng lợi, Tư-dát mắt cứ nghếch lên các ngọn cây tìm chim. Ði đến cây mù u có tên An ninh đứng dựa lưng rình, nó phát hiện thấy con cu xanh đậu khuất trong vòm lá ngọn cây. Trống ngực nó nện thình thình. Mặt nó bạc trắng đi vì hồi hộp. Nó cúi lom khom, thận trọng rón rén từng bước một, đến sát gốc cây tìm chỗ bắn thuận tiện. Mắt nó bị hút chặt vào cu xanh trên cao, nên chẳng chú ý gì tới cái thằng người mặt mũi khả nghi đang đứng sát ngay bên cạnh, nó nói lào thào, không nhìn mặt tên An ninh:
Anh nhè nhẹ bước lui cho tui một chút, tui bắn con cu xanh trên ngọn kia.
Chính cái vẻ say mê quá quắt của nó đã làm cho tên mật thám không chút ngờ vực. Hắn không ngờ cái thằng bé lẻo khoẻo lèo khoèo, mồ hồi mồ kê nhễ nhại này chính là người mà hắn đã mất công rình rập suốt ba tiếng đồng hồ qua. Hắn bước lui hai bước nhường chỗ cho Tư-dát. Và trong khoảnh khắc, hắn cũng quên béng cả công việc, căng mắt hồi hộp theo dõi cú bắn của Tư-dát.
Tư-dát nghiêng nghiêng đầu giương súng cao su lên, kéo hết mức, mắt trái hơi nheo lại để lấy đường ngắm.
"Phụt" Viên sỏi bay vút lên ngọn cây. Tên nhân viên An ninh nhảy lên kêu: Trúng cha nó rồi!
Con cu xanh nhào ra khỏi ngọn cây, lúng liếng chao đảo giữa khoảng không một tí rồi bất ngờ lộn nhào rơi xuống đất, cách chỗ Tư-dát đứng khoảng một trăm mét.
Chính lúc đó, Lượm xách bảy đòn bánh tét, lệch vai đi gần đến quán cà phê. Nó nhìn hút theo Tư-dát đang chạy, vồ chụp con chim vừa bắn được, bực bội nghĩ: "Thằng ni bậy quá! Mải bắn với biếc, chẳng còn chú ý chi tới nhiệm vụ".
Nguyễn Trì vừa nhác thấy bóng Lượm đi đến, hắn mừng run cả người. Bước ra khỏi cửa quán cà phê, hắn đứng chắn ngang giữa đường. Khi Lượm chỉ còn cách dăm ba bước chân, một tay hắn thọc túi quần một tay lột kính râm. Hắn trừng mắt, gằn giọng hỏi Lượm:
- Mi đã nhận ra tao là ai chưa?
Lượm đứng sững lại? buột miệng gọi:
- Nguyễn Trì!
- Phải. đúng là ông nội mi đây!
Chỉ một loáng Lượm vụt hiểu ngay cái thằng quản lý cũ mình đã cho vô tù một lần vì tội ăn cắp gạo của Vệ Quốc Đoàn này định làm gì mình. Nó quay ngoắt lại, co giò định chạy. Nguyễn Trì nhào tới thộp cổ áo nó giật ngược lại. Hắn rút súng dí sát trán Lượm quát:
- Đứng im! Mi mà chạy tau bắn bể tan óc mi ngay.
Những người đang uống trong quán cà phê, thấy chuyện lạ đổ xô ra xem. Hai tên nhân viên đi động từ xa cũng nhào tới, trong tay lăm lăm khẩu súng. Lượm thấy cơ sự hỏng mất rồi, không còn cách gì thoát được nữa. Chính nó cũng tự lấy làm ngạc nhiên không thấy sợ hãi lắm như từ trước đến nay nó vẫn tưởng trong hoàn cảnh này. Nó nghĩ ngay đến Tư-dát: "Tư-dát đang ở đằng kia, lớ ngớ có thể bị bắt theo mình". Để đánh lừa cả bọn mật thám, nó ngoái mặt về phía cầu Bao Vinh, la to:
- Tau bị mật thám bắt rồi. Chạy đi Tư-dát ơi!
Nguyễn Trì đấm một cú như trời giáng vào giữa mặt Lượm. Nó ngã dúi, máu mũi ộc ra. Hai tên di động bẻ quặt cánh tay Lượm, gối thúc vào lưng. Một tên rút đoạn dây điện thoại trong túi quần trói Lượm. Phía đầu cầu Bao Vinh có một tốp con nít bán đậu phụng rang, kẹo gừng, đứng lố nhố trước cái tiệm bán bún bò giò heo- Nguyễn Trì hất hàm về phía tụi con nít, bảo hai tên nhân viên di động:
- Chạy mau lại tóm cổ tất cả cái tụi bán kẹo gừng đậu phụng rang kia lại đây cho tau. Đứa nào chạy cứ việc bắn què cẳng. Tội vạ đâu tau chịu!
Hai tên mật thám cầm súng lăm lăm, chạy ào đến phía cầu. Tụi con nít từ xa nhìn lại, nháo nhác chưa hiểu chuyện gì. Một thằng bỗng kêu lên- "Hai anh tê định đến bắt tụi mình bay ơi!". Thế là tất cả té tác bỏ chạy làm đổ tung tóe ra đường nào đậu phụng rang, nào kẹo gừng...
Tư-dát nhặt được con chim cu xanh vừa bị nó bắn hạ, đang mải vạch vạch lông bụng coi đạn trúng chỗ mô, thì chợt nghe tiếng Lượm kêu thét đằng sau. Nó quay lại, thấy Lượm đã bị trói giật cánh khỉ, xung quanh người đứng lố nhố. Nó hoảng sợ đến không nhúc nhích được tay chân. Xâu chim cầm trong tay rơi bịch xuống đất.
Thấy đám người đều mải nhìn về phía cầu Bao Vinh, Tư-dát hơi hoàn hồn, bước thụt lùi mấy bước. Gặp một con đường ngang, nó rẽ luôn, chạy biến.
Lượm làm như bị trói quá đau, thả nhẹ đầu bánh tét xuống đường. Nó dạng hai chân như muốn che khuất để một người nào đó tưởng bánh thật, lén xách đi. Nhưng Nguyễn Trì cúi ngay xuống, xách xâu bánh lên. Nhẹ bỗng.
Hắn mở lạt tháo tung ra một đòn. Cả mấy trăm tờ truyền đơn xổ xuống mặt đường, trắng xóa. Những người đứng xem dạt hết ra chung quanh, một vài người cúi lén nhặt. Nguyễn Trì liếc đọc qua một tờ. Cái bản mặt bầm tím mụn trứng cá, càng tối sầm lại vì căm tức. Hắn đấm liên tiếp vào mặt Lượm gầm ghè:
- Gớm thiệt! Gớm thiệt!
Lượm ngã sấp mặt xuống đường. Những người đứng xem phải quay mặt đi không dám nhìn. Họ tản đi rất nhanh vì sợ liên lụy.
Hai tên nhân viên di động trở lại, điệu theo một thằng bán kẹo gừng, trạc mười hai, mười ba tuổi. Thằng bé chỉ đứng đến ngang tai Lượm, đầu nhỏ như đầu chim, đội cái mũ phở méo mó, lỏng lẻo, úp sụp xuống che kín cả mắt nên chốc chốc nó phải đưa tay đẩy vành mũ lên cao. Hai vai nó hẹp một mẩu, cánh tay, cẳng chân gầy và thẳng đuỗn như que diêm. Nó mặc cái áo sơ mi đà cộc tay và cái quần đùi xanh đã cũ nhưng vẫn còn lành lặn. Nó đeo trước bụng một rá kẹo, còn đầy, trên rá đậy cái mẹt lật ngửa, để chừng chục cái kẹo làm hàng mẫu. Nhìn cái dây đeo rá kẹo cũng đủ biết nó là đứa bán kẹo gừng chuyên nghiệp. Cái dây gai bện rất khéo đen bóng vì mồ hôi tay. Chỗ đeo vào cổ được lót thêm một miếng da cũ.
Nó bị bắt vì chạy chậm nhất, hai tay lại còn bận ôm giữ rá kẹo cho khỏi đổ. Nó ngơ ngác, khiếp đảm, không hiểu tại sao mình bị bắt. Nó mếu máo khóc hu hu, van lạy hai tên An ninh.
- Em lạy các anh trăm lạy, các anh tha cho em!
Hu... hu... hu.
- Ði! - Một thằng đá phốc vào mông nó làm nó suýt ngã chúi về đằng trước - về phòng tra tấn rồi tha hồ mà khóc.
Ba thằng mật thám dong Lượm-sứt và thằng bán kẹo gừng về phía bến đò qua sông Hương.
Gương mặt Lượm sưng húp, nhoe nhoét bụi đất và máu. Nó liếc nhìn thằng bán kẹo gừng đi bên cạnh lòng không khỏi mừng thầm. "Tội nghiệp". Nó nghĩ bụng: "Thằng ni vô phúc phải thế mạng anh Tư-dát đây. May quá, rứa là anh Tư-dát trốn thoát. Không biết hắn có khôn ngoan, chạy ngay về Vĩ Dạ báo cho anh Đồng-râu biết để dời địa điểm". Suốt dọc đường, nó cứ băn khoăn tự hỏi: "Tại răng thằng Trì lại biết mình đi qua đây để chặn bắt! Ai làm lộ?...". Một mối ngờ vực bỗng loé lên trong óc nó: "Nguyễn Trì hồi ở Trung đoàn bộ là anh nuôi của thằng Kim... hay là...".
Người ở các nhà dọc phố lấp ló ở cửa nhìn ra. Có mấy ả gái điếm cười toe toét hỏi ba tên mật thám:
- Hai cái của nợ nó mắc tội chi mà các anh bắt trói dữ dằn rứa?
Nguyễn Trì vênh mặt, chỉ Lượm nói với mấy ả:
- Việt Minh đầu sỏ đó các em ơi? Đánh Hộ Thành, rải truyền đơn, ám sát lý trưởng, là chính nó đấy. Nó là tay chân đắc lực của cái thằng râu ria xồm xoàm bị các anh bắn chết dưới Vĩ Dạ trưa ni, đang phơi xác ở đầu Ðập Ðá đó.
Ðang đi Lượm bỗng đứng sững lại. Trời đất như bỗng tối sầm trước mắt nó. Ðôi môi dập nát tái nhợt, run rẩy như muốn kêu lên một điều gì mà không sao kêu được.
Ðầu óc Lượm choáng váng như bị nện một báng súng đúng giữa đinh đầu. Nó phải gắng gượng hết sức mới không té xỉu xuống mặt đường.
16.
Trận đột kích đồn Hộ Thành chỉ là một trận đánh nhỏ nhưng tiếng vang và ảnh hưởng của nó trong nhân dần thành phố Huế và cả tỉnh Thừa Thiên rất lớn:
Bởi vậy việc phát hiện được tổ quân báo nội thành của Trung đoàn chủ lực Thừa Thiên làm cho bọn giặc hết sức hý hửng. Chúng phóng đại kết quả và tuyên truyền rùm beng để chống lại ảnh hưởng của trận đánh.
Dân chúng thành phố Huế hết sức quan tâm và bàn tán xôn xao về vụ bắt bớ những đội viên quân báo. Nhiều người kéo đến Ðập Ðá để nhìn xác anh Đồng-râu. Sau hai ngày hai đêm phơi sương phơi nắng, xác anh trương phù và đen bầm, nom hết sức ghê rợn. Nhiều người phải quay mặt đi vì không nén nổi nước mắt. Họ nghiến răng căm hờn nguyền rủa hành động bạo ngược của quân cướp nước và bán nước.
Suốt mấy ngày liền, báo "Bình Minh" liên tục đăng tin về vụ bắt bớ này. Bọn trẻ bán báo ôm nhũng cặp báo, rao inh ỏi cả thành phố.
Chẳng mấy chốc những cái tên Ðồng-râu, Lượm-sứt, Kim-điệu, Tư-dát được cả thành phố nhớ và thuộc.
Tiếng rao báo vẳng đến tận phòng tạm giam của ty An ninh, nơi Lượm và thằng bé bán kẹo gừng cùng với hơn ba chục người tù khác đang bị tra tấn chết đi, sống lại.
Phòng tạm giam của ty mật thám An ninh vốn là dãy nhà bếp một công sở cũ của ủy ban cách mạng Thành phố Huế. Công sở này, sau ngày chiếm đóng Huế, chúng biến thành cơ quan ty An ninh.
Dãy nhà bếp nằm cách ngôi nhà chính cái sân rải đá dăm, dài và hẹp. Cuối sân là khu vườn rộng cỏ dại mọc lút người, bao quanh tường cao cắm mảnh chai. Bấu vào tường ở góc vườn là dãy nhà xí.
Khu nhà này trong suốt thời gian quân ta bao vây Huế hoàn toàn bị bỏ trống nên hoang phế, tiêu điều và hết sức bần thỉu. Bọn ty an ninh chỉ mới dọn dẹp qua loa. Dấu tích tiêu điều hoang phế vẫn còn in đậm khắp nơi, từ trong nhà ra đến sân, vườn.
Phòng tạm giam rộng chừng hai mươi lăm mét vuông, nền gạch vỡ nát, tường và mái ngói bồ hóng bám đen kịt, đóng thành cục thành hòn trên rui mè xà gỗ. Ba phía tường xây kín mít, phía cửa ra vào, ngoài lớp cửa cũ, chúng ốp thêm mấy cánh cửa lớn bằng gỗ lim dày có thêm sắt tán đinh (chúng dở từ một nhà kho nào đó). Chúng chỉ thừa một khoảng vừa người qua lọt và đóng mở bằng tấm cửa chấn song sắt, quấn hai vòng xích lớn với cái khóa bằng nắm đấm. Nhìn toàn cảnh, phòng tạm giam hao hao giống cái chuồng nhốt thú dữ.
Trong cái chuồng kiên cố, tối tăm, nhớp nhúa ấy, chúng nhốt hơn ba chục con người. Quá nửa là thanh niên, số còn lại trạc trung niên, một ông già và bây giờ thêm Lượm và thằng bán kẹo gừng mà chúng cứ gọi bừa là Tư-dát.
Hầu hết số người này chúng bắt được trong các trận vây ráp ở nhiều địa phương trong tỉnh. Chúng đưa về đây để tra tấn, lấy cung. Không một người nào mặt mũi còn lành lặn. Mắt họ sưng húp, má tím bầm, môi sưng vều dập nát, răng gãy, tai rách, áo quần rách tướp... Họ nằm chen chúc trên nền gạch thủng vỡ, lồi lõm. Người lót mảnh bao bố, người manh chiếu, hoặc tờ báo. Nhiều người nằm trần trên nền gạch ướt nhơm nhớp. Thinh thoảng họ lại hứng một trận bụi mưa bồ hóng từ trên mái nhà rơi xuống nên ai nấy như được sơn quét nhọ nồi.
Trong số ba chục người, có ba người bị đòn nặng nhất: Một thanh niên trạc ngoài hai mươi tuổi dáng dấp học trò, một người đàn ông đã đứng tuổi, râu quai nón, mặc bộ áo quần xanh lấm lem dầu mỡ, dáng chừng là thợ máy, và người thứ ba là Lượm.
Anh thanh niên và người thợ máy bị đưa về đây đã hơn một tháng. Cứ vài ngày họ lại bị gọi lên phòng tra tấn. Và mỗi lần trở về buồng giam người họ ướt sũng như vừa vớt dưới sông lên. Họ không lết nổi một mình, phải có hai tên An ninh xốc nách dìu về. Chúng xô họ ngã dúi vào buồng giam rồi đóng ập ngay cửa khóa lại. Ngã thế nào họ nằm nguyên thế đó, bất động hằng tiếng đồng hồ, nước trên người rỏ xuống đọng thành vũng, loang ướt cả những người nằm bên cạnh.
Cả buồng giam không ai biết được họ mắc tội gì mà bị tra tấn đến thế. Chỉ biết qua những tiếng quát tháo gầm gừ của bọn mật thám từ buồng tra tấn vẳng xuống, thì hình như chúng tình nghi họ là trưởng ban ám sát. Buồng tra tấn lấy cung cách đó không xa, tiếng bọn chúng quát hỏi, tiếng đòn nện, tiếng kêu la đến lạc giọng của người bị tra vẳng xuống buồng giam rõ mồn một.
- Tụi bay gọi tụi tao là Việt gian? ừ thì Việt gian! Chừ Việt gian đánh Việt ngay đây?
Huỵch" Huỵch! Hự! Hự! - Có khai không? Gan hả? - Câu quát tháo này ngày nào chúng cũng lặp đi lặp lại gần như một thứ kinh nhật tụng. Hình như bọn bán mình cho giặc cũng cảm thấy hổ thẹn trước những người kháng chiến, nên chúng phải lấy sự trâng tráo, tàn bạo để che lấp nỗi hổ thẹn.
Lượm mới được đưa về đây ba hôm. Hôm đầu tiên, nhìn Lượm bước ra khỏi buồng giam, theo tên lính "Bê-vê-cu" cao to mang súng, đi qua cái sân hẹp rải đá dăm, mọi người tự nhiên thấy ruột thắt lại. Họ đều nghĩ rằng sắp phải nghe tiếng la hét đau đớn, tiếng van khóc thương tâm của chú bé trạc tuổi em, tuổi con cháu họ ở nhà. Họ co rúm người, chờ đợi giây phút cực hình. Phải nghe tiếng kêu la xé ruột của một đứa con nít đang cái tuổi chơi bi, chơi đáo mà bị búa đinh dần vào mắt cá chân, bị roi da xé tướp thịt, bị thúc đầu gối vào ngực, vào bụng cho đến trào máu. Quả là một cực hình đối với những người lớn tuổi.
Nhưng mọi người như bị hẫng. Họ không nghe tiếng chú bé kêu la. Chỉ nghe tiếng quát hỏi, gầm rít hung tợn của tên võ sĩ Năm ngựa.
- Ai dẫn đường cho tụi Việt Minh đánh đồn Hộ Thành?
- Tụi nó hiện chừ núp ở mô?
- Súng đạn tụi hắn giấu ở mô?
- Mi liên lạc với những ai trong thành phố? Tên chi?
- Nhà ở mô?
Sau mỗi câu hỏi là tiếng những cú đấm, cú đá, tiếng thân người ngã vật xuống nền xi măng.
- Lấy búa đinh nện vào mắt cá chân cho tao?
- Phang đúng vào giữa gan bàn chân!
- Xối nước vô!
Vẫn không nghe thấy tiếng thằng bé đáp lại hoặc kêu khóc. Mọi người đoán chừng, tụi chúng chỉ quát tháo doạ nạt vậy thôi, có đánh cũng đánh đấm, tát tai, chứ tay chân nào mà nó khảo tra con nít.
Khoảng một giờ sau, cửa buồng giam mở, tên cai ngục xốc nách Lượm xô dúi vào, chửi:
- Ông nội mi! Mi đã muốn ra gan thì mi còn chết.
Cả những người đang nằm cũng bật vùng dậy, lết xúm đến quanh Lượm. Áo quần nó ướt sũng nước, cặp môi sưng vều, khóe mắt chảy dài hai vết máu, khuôn mặt tím bầm như quả bồ quân, hai mí mắt húp lên không mở ra được, hai mắt cá chân như hai quả trứng xanh tím máu máu đọng, gan bàn chân đỏ hỏn. Họ bế nó lên, cởi áo quần ướt ra. Nó bật rên đau đớn như bị lột da. Tấm lưng bé nhỏ ôm tròn những làn roi tím sẫm.
Nhiều người quên phức cả tụi mật thám có thể đang nghe ở bên ngoài, căm phẫn kêu lên:
- Ui chao! Con nít mà họ tra khảo đến nước ni thì không biết họ là cái giống chi!
- Chắc họ không con, không cái! Toàn đồ tuyệt tự cả.
Người lộ vẻ xót xa, uất ức hơn cả là một ông cụ khoảng trên dưới bảy mươi nhưng dáng bộ khí sắc còn quắc thước. Ðầu quấn khăn nhiễu tam giang tóc búi tó củ hành, râu ba chòm tiêu muối dài gần chấm ngực, mặc áo đoạn năm thân bằng thao nhuộm đà. Suốt ngày cụ ngồi xếp bằng ở một góc buồng giam, từ bi từ tại, như tham thiền nhập định. Nghe đâu cụ bị bắt vì có hai con trai là cán bộ Việt Minh cao cấp.
Cụ ngồi sát bên Lượm, đưa bàn tay khô héo nhăn nheo, sờ nắn khe khẽ những vết đánh tím bầm trên mặt nó.
Nước mắt cụ tự nhiên ứa ra, lăn dài trên đôi gò má hóp, chui biến vào chòm râu bạc tiêu muối. Cụ nâng vạt áo lên chùi mắt, hỏi:
- Chớ họ vu cho cháu tội chi mà họ đánh đập cháu dữ ri? Lượm mấp máy cặp môi sưng vều, yếu ớt trả lời:
- Dạ họ nghi cháu là tình báo, liên lạc của Việt Minh.
- Răng cháu không nói với họ: Tui nhỏ ri thì đã biết cái chi mà vu cho tui là tình với báo?
- Dạ không chối được. Họ bắt cháu có cả truyền đơn Việt Minh. Dại quá cháu ơi! Thì cháu cứ nói là thấy giấy rớt giữa đường, tui không biết mới lượm chơi.
- Nhưng cháu mang cả ngàn tờ lận.
Cả buồng giam đều phải phì cười. ông cụ cũng mếu máo cười.
- Giỏi! Giỏi? - Ông cụ tự nhiên buột miệng khen - Ừ, mang cả ngàn tờ thì khó chối thiệt!
- Cháu cũng không thèm chối. Làm thì nhận chớ sợ chi mà phải chối, ông!
- Nhưng đã nhận rồi thì việc chi họ còn đánh? - Anh thợ máy hỏi chen vô.
- Họ còn bắt tui phải khai: "Liên lạc với ai? Tên chi? Ở mô?". Bắt khai rứa thì làm răng mà khai được.
Bên ngoài song sắt cửa bỗng có tiếng nạt:
- Ai cho phép tụi bây được xúm xít nói chuyện với hắn? Bay không biết hắn là loại Việt Minh nguy hiểm à? Bay muốn ăn cặc bò chắc?
Mọi người giật bắn, ngẩng nhìn. Bản mặt to bè của thằng cai ngục với cái mũi sần sùi, bằng nắm đấm cặp mắt trợn ngược, áp dính vào chấn song sắt. Ông cụ nói:
- Thấy cháu nó nhỏ dại mà bị đòn đau quá, chúng tôi thương tình săn sóc cháu, chứ có chuyện chi mô.
- Nhỏ? - Cai ngục nhếch miệng, gằn giọng. - Nhỏ rứa chứ tụi tao mà ngó lơ một cái là hắn chồm lên cứa cổ tụi tao ngay! Tản ra! Bay mà còn xúm lại với hắn, đừng có trách tao là ác.
Lượm nằm nghiêng mặt ngoảnh ra phía cửa. Nó cố mở hé mắt nhìn xéo lên mặt tên cai ngục. Cặp môi sưng vều như cũng nhệch cười: "Mi nói rứa mà e coi bộ đúng đó!". Nó lẩm bẩm nói vậy, không thành tiếng.
Ðược hai hôm chúng lại xuống xốc nách Lượm lôi lên phòng lấy cung. Lần này trở về khắp thân hình Lượm không còn một chỗ nào không có lằn roi rướm máu.
Ðể "thằng đánh đồn Hộ Thành" (chúng gọi Lượm như vậy) có thì giờ hồi lại trận đòn cũ, trước khi hỏi cung tiếp, bọn an ninh gọi đến thằng bé bán kẹo gừng, "một trong mấy tên tay chân lợi hại của Đồng-râu".
Thằng bé bán kẹo gừng bị bọn di động viên giải cùng với Lượm về ty An ninh. Khi bước qua cái cổng có hai cánh cửa sắt lớn với thằng Bảo vệ quân cầm súng đứng gác, hai trụ cổng đội tấm biển đề: Ty An Thừa Thiên.
Lượm ngoảnh nhìn thằng bán kẹo gừng gầy gò, ngơ ngác, lủi thủi đi sát bên mình, tay bị trói bằng dây điện thoại liền vào tay mình. "Thiệt là chuyện cắc cớ - Lượm nghĩ nhanh như người đang bơi giữa sông - hắn như thanh củi rều đang trôi, tự nhiên vướng vào người mình rồi mắc cứng vô luôn? Không biết rồi đây hắn có gỡ ra được mà trôi đi không? Thằng Tư-dát mà biết chuyện ni thì chắc hắn phải cười đến nứt lòng bóng mà chết." Từ hôm vào đây Lượm vẫn nằm chung với nó trên một manh bao tải rách ở góc trong cùng buồng giam. Mảnh bao tải là của người đàn ông có dáng dấp thợ máy cho.
Ðêm đầu tiên, hai đứa lúi húi lấy tay phủi bụi rác- trên nền gạch, dọn chỗ nằm. Anh thợ máy nằm ở góc đàng kia đưa mắt nhìn chúng. Anh chợt nhổm dậy rút cái bao tải đang lót dưới lưng lấy mảnh dao cạo giấu dưới hòn gạch, cắt làm đôi, quẳng cho hai đứa một nửa- Anh lại nằm vật xuống, không nói một tiếng, hai tay ôm lấy bụng. Sáng hôm đó anh vừa bị đòn hỏi cung.
Ba ngày đêm nằm chung với nhau- Lượm mới có dịp nhìn kỹ "thanh củi rều".
Nó teo tóp quắt queo như một thân cây non bị đem phơi nắng. đầu nó nhỏ như đầu chim, cái mũ phở cứ xoay tròn trên đầu như chong chóng. Chốc chốc nó lại đưa tay chộp mũ như sợ gió thổi bay. Da mặt nó xanh bủng xanh beo, cặp mắt nhỏ mà dài như hai vết nứt. hơi hiêng hiếng, Nó có cái nhìn lén lút sợ sệt, nhẫn nhục chịu đựng, cái nhìn của những con vật nuôi trong nhà, thường xuyên bị hàng hạ, đánh đập.
Lúc bị bắt, rá kẹo gừng của nó còn đến hơn một nửa, trên rá đậy cái mẹt lấm tấm bột trắng. Hôm đầu tiên, khi tên cai ngục cởi trói cho nó và Lượm mở cửa đẩy hai đứa vào buồng giam, nó cứ đứng sững ở gần cửa, hai cánh tay vòng ôm khư khư rá kẹo như sợ bị ai giật mất. Nó bất chợt òa khóc rất to. Nước mắt nước mũi chảy lầm lòa lầm lện. Lúc ấy cả buồng giam mới biết nó cùng chung số phận với họ. Lượm thấy nó khóc thảm thiết quá liền nổi cáu vì ngượng với những người xung quanh đang chăm chăm nhìn mình. "Không chi thì nó cũng bị bắt cùng với mình. Nó khóc làm xấu hổ lây cả mình - Lượm nghĩ vậy".
Lượm ẩy nhẹ thằng bé kẹo gừng, nói như gắt:
- Việc chi mà mi khóc. Có khóc hết hơi thì người ta chẳng tha mô. đi vô chỗ góc tê, tìm chỗ mà nằm nghỉ cái cho khỏe còn hơn!
Lượm len qua những người đang nằm ngồi ngang dọc, đi vào chỗ còn trống ở góc trong cùng, dọn dẹp chỗ nằm cho cả hai đứa.
Lượm kéo tay nó ngồi xuống bên cạnh nói:
- Thôi mi đừng khóc nữa- Nằm xuống đây mà ngủ đi một giấc. Rồi sáng mai xin người ta tha cho về, khóc làm chi thêm tốn hơi.
Thấy hai tay nó vẫn ôm khư khư rá kẹo - đeo trước bụng, Lượm gắt:
- Mi cởi ra rồi để lên phía đầu nằm tê. Ai người ta lấy mà cứ ôm kè kè.
Nó nhìn Lượm vẻ sợ sệt, nghi ngờ, không biết có nên nghe theo hay không.
- Thì kệ mi. Cứ ngồi đó mà ôm lấy rá kẹo cho đến sáng mai. - Lượm ngả lưng xuống tấm bao tải, ngoảnh mặt vô tường. - Ngồi mãi cũng mỏi, thằng bé bán kẹo gừng đành phải cởi rá kẹo, sẽ sàng đặt lên phía đầu nằm, nằm co quắp sát bên Lượm.
Sáng hôm sau vừa choàng tỉnh dậy, hai tay nó đã chấp ngay lấy rá kẹo. Nó mở cái mẹt đậy, nhìn và kêu lên, giọng sợ hãi:
- Ui chao ơi! Kẹo chảy nước hết rồi!
Nó có vẻ sợ rá kẹo chảy nước hơn cả việc bị bắt vào tù.
Cả ngày hôm đó nó chỉ ngồi xắm nắm sửa sang rá kẹo- Nó vét bột áo dưới đáy rá, bốc bỏ lên cái mẹt bột áo và cẩn thận xếp ra một góc. Bàn tay nó mới khéo léo, thành thục, tỷ mẩn làm sao! Bột và nước kẹo chỉ dính tí chút ở chót mấy đầu ngón tay. Lượm ngồi dựa lưng vào tường, nhìn nó ngồi dạng hai cẳng chân như hai ống quyển, làm mầu làm mè cho những viên kẹo mà phải phì cười.
- Mi sửa sang làm chi cho mệt! - Lượm nói- - Trước sau rồi cũng chảy nước hết thôi.
- Trưa ni là tui bán hết chứ dại chi để cho chảy nước.
Nó nói không ngẩng lên, bàn tay vẫn thoăn thoắt áo bột cho kẹo, môi mấp máy đếm số kẹo.
- Mi bán ở mô mà bán hết mau rứa?
- Tui chi đi một vòng từ cửa Thượng Tứ xuống chợ Đông Ba, vòng qua cầu Gia Hội rồi vòng về cầu Đông Ba cũ là hết, chớ khó chi?
- Nhưng lở người ta không thả mi ra, giam mi cả tháng thì làm răng?
Nó hoảng hốt nhìn Lượm, bàn tay đang lăn kẹo sững lại giữa mớ bột.
- Ui chao ôi! Rứa thì chết tui!
- Chết cóc khô chi! Chảy nước thì đem ra ăn quách.
- Ăn? Có mà tui muốn chết! - Nó trề môi vẻ chế giễu khinh khi câu nói dại ngộ của Lượm - Anh cứ làm như là kẹo của cha mạ mình sai mình đi bán không bằng? Tui mà để cho kẹo chảy nước chiếc mô là mấy roi quăn mông đít chiếc nớ.
- Rứa mi đi bán kẹo cho ai?
- Bán cho mụ Cả Lễ, chủ lò kẹo gừng, kẹo đậu phụng, kẹo kéo ở Bao Vinh, anh không biết à? Tui ở cho mụ. Mụ giao cho tui mỗi ngày phải bán cho hết năm trăm kẹo. Sáng đi, tối về, phải đem nộp đủ cả vốn cả lời- Thiếu một xu là mụ bắt nhịn đói. Mụ chửi cho lút mặt lút mũi. "Mụ tổ tiên cha mi - Nó nhại giọng chửi - Mi bán không có lời thì ra ngoài bờ sông xúc cứt mà ăn. Bà chẳng có cơm mô mà cho mi hốc để mi đi chơi... ơi... ơi". Gặp phải ngày mưa ngày gió, lỡ để kẹo chảy nước, bán ế, thì cứ việc nằm dài sấp mặt trật khu ra mà ăn roi mây. Rứa đó, có giỏi cứ để cho kẹo chảy nước mà ăn...
Nó kể với giọng dửng dưng, như đã quá quen với tất cả những cái đó. Câu chuyện của nó lâm cho cả buồng giam chú ý. Anh thanh niên có dáng dấp học trò hỏi:
- Rứa cha mẹ em mô cả?
- Cha mẹ em chết hết năm đói rồi. Em phải đi ăn mày ở ngoài chợ Đông Ba. Một bữa, mụ nớ đi chợ gặp hỏi chuyện rồi đem em với hai đứa nữa cũng bằng em về nuôi. Mụ bắt tụi em đi bán kẹo gừng kẹo đậu phụng cho mụ.
Nó trả lời, giọng không lộ chút buồn thương, đưa mấy ngón tay lên miệng mút mút chỗ mật và bột đính.
Lúc đầu Lượm nhìn nó với cái nhìn vừa thương hại vừa ác cảm. Con nít mà nom nó dễ ghét thế nào ấy! Cặp mắt thì lấm la lấm lét, dáng bộ thì co ro run rẩy như con chó đứng trước cái gậy giáng cao của chủ. Nhưng sau khi nghe nó kể chuyện; Lượm thấy lòng se lại. "Kể nó cũng khổ và tội nghiệp thật!" - Lượm nghĩ bụng - Chỉ nhìn nó săn sóc cái rá kẹo gừng, mút mấy đầu ngón tay dính mật bột với vẻ đói khát thèm thuồng Lượm đã hình dung khá rõ sự độc ác của mụ chủ khốn nạn của nó. Lượm hỏi:
- Mi tên chi?
- Thúi. Trước tui tên là Thơm, nhưng mụ chủ chửi: "Mi như bãi cứt khô năm nắng mà đòi là Thơm!" Rồi mụ cải tên tui là Thúi, ai gọi tên tui là Thơm là mụ đè tui ra mụ đập.
Anh thanh niên bị tình nghi là trưởng ban ám sát buột miệng chửi:
- Tổ cha cái loại người nớ phải cho đạn găm vô óc, để sống làm chi cho nhớp đất!
- Mi mấy tuổi rồi?
- Mười hai.
Ông cụ đang ngồi từ bi từ tại, lắc đầu chép miệng:
- Thằng cháu nội ông ở nhà lên mười mà còn cao to phốp pháp hơn cháu.
Nó ngước cặp mắt nhỏ như hai vết nứt nhìn ông cụ, nói:
- Cháu được ăn mỗi bữa có hai chén cơm lưng lưng với muối mè mặn chát, không ngày mô roi không quất lên đầu lên lưng thì lớn làm răng được ông!
Lượm nhìn rá kẹo gừng, nói với nó:
- Chưa chắc hôm ni người ta thả mi ra, mà ngó ra chỉ đến sáng mai là kẹo gừng chảy nước hết. Rứa thì mi nhờ các anh các bác ở đây mỗi người mua cho một ít.
Không đến lúc thả ra, không bán được xu mô cho mụ chủ thì mi chết...
Cả buồng giam nhiều người cùng nói:
- Ừ, đưa lại đây tao mua cho mấy đồng.
Nhiều người lần cạp quần, móc túi áo lấy tiền.
Anh thợ máy cười nói:
- Nhưng chú mình phải giả bộ như đang bán ngoài phố ấy đeo rá vô cổ, rồi đi quanh mà rao...
Nhiều người hưởng ứng:
- Ðúng, đúng? Phải rao cho thiệt hay thì sẽ mua hết rá kẹo. Không thì thôi!
Vẻ mặt thằng Thúi vụt tươi hẳn lên. "Hơ hớ? Bị bắt vô tù mà lại hóa hên! - Nó mừng rơn nghĩ bụng- Bán ở đây chẳng lo đứa mô tranh mất khách của mình!". Nó yếu, bán hàng thường bị những đứa khỏe hơn ăn hiếp, tranh mất khách.
Nó đứng ngay dậy, chụp cái mũ phở lên đầu, đeo quai rá kẹo gừng vô cổ, rao khe khẽ:
- Ai kẹo gừng đê... ê... ê...
- Phải rao to như lúc rao ngoài phố ấy, - Nhiều người cười nói - Rao nhỏ trong cổ rứa, ai biết mi bán cái chi mà mua.
Thằng Thút sợ sệt nhìn ra cửa:
- Nhưng lỡ họ nghe tiếng họ đập chết?
- Việc chi đến họ mà họ đập? - Anh thanh niên nói. - Ði bán kẹo gừng chứ có mần trưởng ban ám sát mô mà lo họ đập?
Ðược cả buồng giam khuyến khích, thằng Thúi cất cao giọng rao to:
- Ai ăn kẹo gừng đê...ê... ê. Kẹo gừng nóng mới ra lò... Ngọt như đường cát, mát như đường phèn... èn... èn... đê... ê!
Giọng rao nó quả là tuyệt, lanh lảnh trong veo, ngân nga và vang rất xa. Cái cảnh tranh tối tranh sáng buồn bã ảm đạm, nhớp nhúa của buồng giam như bỗng tan biến bởi giọng rao lảnh lót của nó. Nhiều người nhắm mắt lại, tưởng như đang đứng trên một đường phố, hay ngồi trên ghế đá dọc bờ sông Hương, đầu cầu Tràng Tiền, trước bến Phu Văn Lâu... dưới bóng mát tán lá xanh đậm cây me, cầy phượng, cây vông đồng, cây mù u.
Góc này, góc kia, nhiều người vui vẻ cất tiếng gọi:
- Kẹo gừng! Bán năm giác đây!
- Bán một đồng đây! Bán rẻ vô nghe?
- Kẹo mới ra lò chi mà ướt mèm ri!
Buồng giam phút chốc nhộn nhịp và vui hẳn lên. Góc này, góc kia nổi lên tiếng nhai kẹo lốc cốc, tiếng xuýt nước ngọt, tiếng bình phẩm khen chê kẹo bở, kẹo dai.
Loáng một cái, rá kẹo đã vơi hẳn, chỉ còn vài chục chiếc. Thằng Thúi sướng rơn; miệng nó cười, mắt nó cũng cười, tiếng rao của nó cũng lảnh lót vang xa. Và sự vui mừng của nó như lây ra tất cả mọi người.
- Tồ cha tụi bây muốn làm loạn nhà tù à?
Tiếng quát giật giọng làm mọi tiếng động vui nhộn vụt ngừng cả lại như bị một lát dao chém đứt ngang.
Tiếng xích sắt loảng xoảng, tiếng khóa lách cách, cánh cửa giật mở toang. Tên cai ngục cầm cây roi cặc bò sừng sộ bước vào. Một người nào đó nói:
- Tụi tui mua kẹo gừng ăn chứ có dám làm chi mô...
Hắn quắc mắt nhìn mọi người, rồi như không biết trút tức giận vào ai, hắn bước vào giữa buồng, quất một roi tướt thịt vào giữa tấm lưng bé bỏng, còm nhom của thằng Thúi, và co chân dộng một đạp, làm nó ngã dúi vào tận góc phòng, mấy chục chiếc kẹo gừng chưa bán hết và bột trắng đổ tung tóe lên đầu lên cổ những người ngồi gần đó. Lượm giận muốn phát điên, tay chân nó run lên lẩy bẩy. Nó quài tay ra sau lưng, nắm lấy hòn gạch vỡ mà nó vẫn kê làm gối... Một người ngồi cạnh liền giữ chặt tay nó lại. Cảnh đó diễn ra chỉ khoảnh khắc trong bóng tối mờ mờ góc buồng, tên cai ngục không nhìn thấy. Hắn nói:
- Tụi bay cứ liệu cái thần hồn! Một tay thằng này đã từng đánh chết khối thằng tù Cộng sản cứng đầu cứng cổ nhất ở lao Thừa Phủ trước tê. Hạng tụi bay thì chưa thấm béo chi mô. Hắn hầm hầm bước ra, đóng sầm cửa, khóa lại.
Bị đánh quá bất ngờ, thằng Thúi không kêu được một tiếng, nằm lịm, chết khiếp.
Lượm bò ra đỡ nó dậy, rồi lần mò nhặt những chiếc kẹo rơi vãi bỏ vào rá cho nó.
- Thôi đi vô tê nằm chút cho đỡ đau, kẹo văng ra thu lượm cho hết rồi đó.
Thằng Thúi lết vô chỗ nằm, gương mặt còn dại đi vì chưa hết cơn khiếp đảm. Nó nằm xuống bên cạnh Lượm, tay chân vẫn còn run rẩy. Lát sau, nó bật khóc thút thít, vừa khóc vừa nói nhỏ vào tai Lượm:
- Anh có ăn kẹo thì ăn đi. Tụi bán rứa là đủ vốn rồi...
Anh muốn ăn mấy cái thì ăn, tui không lấy tiền của anh mô. Nghe nó nói tự nhiên Lượm ứa nước mắt, quàng tay ôm ngang người nó kéo sát vào mình.
18.
- Thằng bán kẹo gừng mô, ra ngay!
Cánh cửa sắt loảng xoảng hé mở, bản mặt đao phủ và cái thân hình to lớn, vuông chằn chặn của tên cai ngục đứng chắn gần kín cả khuôn cửa.
Thằng Thúi đang ngồi ở xó buồng cạnh Lượm chăm chú đếm lại số tiền bán kẹo được, không biết lần thứ bao nhiêu. Nghe gọi, nó vội vàng gấp nhỏ tập giấy bạc đen bẩn, nhàu nát đút nhanh vào túi áo, cài kim băng lại. Nó đứng lên dạ một tiếng thật to. nó ngỡ người ta gọi để thả nó ra tù nên tiếng dạ nghe mừng rỡ như tiếng reo. Tay chụp cái mũ phở lên đầu, tay quàng dây đeo rá kẹo qua cổ, nó hớp tớp chạy ra.
- Dạ cháu đây ạ. - nó nói giọng nịnh nọt, xun xoe.
Cái dáng bé quắt của nó đứng khúm núm trước tên cai ngục giống như con chuột nhất trước con mèo cụ. Ðáp lại vẻ mừng rỡ xun xoe của nó, tên cai ngục trừng mắt chửi:
- Tổ cha mi- để mũ với rá kẹo lại đó, đi người không theo tao.
- Dạ cháu tưởng bác gọi để tha cháu ra.
- Tha! Có tha về âm phủ. Ði!
Thằng Thúi tiu nghỉu lột mũ, cởi rá kẹo đặt xuống đất.
Nó theo tên cai ngục bước ra khỏi buồng giam, đi sát sau lưng như sợ bị lạc.
Khoảng hai mươi phút sau, từ phía gian phòng lấy cung, bỗng dội lên tiếng trẻ con kêu rống thảm thiết.
- Cháu lạy các bác! Các bác tha cho cháu! Úi chao ôi đau quá... Cháu lạy các bác! Ai cứu tôi với! Làng nước ơi! Ai cứu tôi với!
Tiếng nó kêu la van lạy mỗi lúc một to, chuyển động cả khu nhà. Tất cả những người trong buồng giam đang nằm phải ngồi bật hết cả dậy, nháo nhác nhìn ra phía cửa. Ai nấy đều ngơ ngác, kinh ngạc. Người nó nhỏ như củ khoai rứa, không biết lấy hơi sức đâu mà nó la to đến thế. Thật giống như con ệch oang. Từ trước đến nay, tiếng quát tháo của tụi nhân viên tra tấn vẳng xuống buồng giam rõ mồn một bửa nay cũng bị chìm lấp trong tiếng kêu la của thằng Thúi. Nghe tiếng kêu la chuyển nhà chuyển cửa của nó ai cũng tưởng nó đang bị đè ra lột da hay cắt tiết.
Tiếng kêu la của nó bùng lên đột ngột như thế nào thì cũng lặng tắt đột ngột như vậy. Lát sau nghe tiếng nó khóc hu hu ngoài sân và tiếng chửi rủa quen thuộc của viên cai ngục:
- Tổ cha mi! Chiều ni tao cho nhịn đói, coi mi còn hơi sức mà la nữa không!
Ngay đến tụi ty An ninh cũng phải ngạc nhiên- Có lẽ từ ngày có cái ty An ninh, chúng chưa gặp một tên Việt Minh nào bị tra khảo mà la to chuyển nhà chuyển cửa, đến ngoài đường cũng nghe tiếng, như cái thằng bé bằng củ khoai này.
Nó bước vào buồng giam, mọi người nhìn nó càng ngạc nhiên hơn. Nó chỉ bị đánh sơ sơ. Hai má hai vệt tím, trên cổ một lằn roi. áo quần nó không bị rách chỗ nào.
Khi cửa buồng giam đóng lại, mọi người xúm đến hỏi:
- Họ làm chi mi mà mi la to đến rứa?
- Họ đập.
- Đập đau không?
- Dạ hai tát tai, một roi cặc bò.
- Rứa mà nghe mi la trên đó, dưới ni cứ tưởng họ đang lột da mi!
- Nhờ tui la to họ mới đập ít. Không thì họ ăn thịt tui.
Nhiều người bật cười. Anh thợ máy vừa cười vừa nói:
- Đúng là to đầu mà dại, nhỏ dái mà khôn. Mai có bị điệu lên hỏi cung, anh cũng phải học chú mi la to để họ bớt đập đi mới được.
Ông cụ hỏi:
- Rứa chớ họ khép cháu vô tội chi?
- Dạ họ nói cháu là Việt Minh hạng nặng, đáng tội tử hình.
- Rứa cháu có đúng là Việt Minh thật như cái chú mang cả ngàn tờ truyền đơn tê không? - ông cụ chỉ về phía Lượm.
- Dạ cháu đi bán kẹo gừng chớ có biết Việt Minh, Việt miết chi mô, nhưng cháu sợ họ đánh chết mất, nên họ hỏi chi cháu cũng nhận hết.
- Rứa họ hỏi những cái chi?
- Dạ họ hỏi cháu có phải tên là Nguyễn Văn Tư mật danh là Tư - dát không. Cháu nói cháu tên Thơm sau cải thành Thúi, rứa là họ quất cháu một roi cặc bò. Họ hỏi cháu có làm cái chi báo cho Việt Minh không? Mi có dẫn Việt Minh vô đánh đồn Hộ Thành không? Mi có đi rải truyền đơn với thằng Trần Lượm, mật danh là Lượm-sứt không?
Anh thanh niên có dáng dấp là học trò hỏi chen vô:
- Rứa họ có hỏi mi làm trưởng ban ám sát không?
- Dạ có! Họ hỏi nhiều thứ lắm, hỏi tối tăm mặt mũi, cháu không nhớ hết. Họ dọa không khai họ lấy kìm nung lửa rứt thịt, vứt cho chó ăn. Rứa là cháu nhận hết.- Nó bật khóc thành tiếng.
Ông cụ an ủi: - Thôi đứng khóc nữa cháu ơi, mai mốt răng họ cũng xét lại, thấy cháu vô tội, họ lại thả ra thôi.
Thằng Thúi sịt mũi, đưa ống tay áo quệt nước mũi, mếu máo nói:
- Họ nói mấy bữa nữa, họ giao cháu cho Tây mũi đỏ bắn chết. hu hu.
- Có bắn cái con C... một người nào đó buột miệng văng tục.
Thằng Thúi đang khóc, chợt im bặt đảo mắt lơ láo nhìn khắp gian buồng, hớt hải hỏi:
- Úi, cái mũ với cái rá kẹo gừng của tui mô rồi?
- Tao cất cho đây rồi, - Lượm nói.
Nó bước vô ngồi phệt xuống cạnh Lượm, nói rủ rỉ:
- Có được họ tha về mà mất cái mũ với cái rá ni thì mụ chủ hành hạ cho còn cực hơn ở tù.
Lượm nhìn nó ngồi co ro, ốm o gầy còm như con mèo đói, thấy khó tin chính nó vừa mới la hét chuyển cái ty An ninh Người ta nói những người ăn to nói lớn miệng phải rộng hoác, mà thằng ni miệng nhỏ chum chúm như đít gà.
Lượm tò mò hỏi:
- Rứa ở nhà, lúc bị chủ đánh mi có la to như vừa rồi không?
- Tui còn la to hơn nữa tê. Mụ chưa đụng đến người, tui đã la rồi. Mụ càng đánh, tui càng la to rứa là mụ phải thôi đánh. Mụ sợ hàng xóm nghe tiếng, cho mụ là đồ bạc ác bất nhơn. Tui mà không la to được như rứa thì tui chỉ còn da bọc xương.
- Nhưng mi lấy hơi sức mô mà la to được rứa?
- Lúc đầu la còn nhỏ, cứ la nhiều thì giọng to ra, khó chi anh. Anh đừng dại, họ đập mình mà mình cứ nín im?
Họ mạnh tay mình phải mạnh miệng. Nó hạ thấp giọng hỏi Lượm:
- Rứa anh có phải tên là Lượm không?
- Ừ.
- Còn Tư-dát là ai rứa? Bạn anh à?
- Ừ.
- Anh nó nhỏ bằng tui hay lớn hơn tui?
- Lớn hơn một chút.
- Anh ấy cũng là Việt Minh à?
Việt Minh hạng nặng.
- Anh ấy tài giỏi lắm à?
- Tài nhất. Cậu ta đã từng đám đứng trên thành cầu Đông Ba nhảy cái ùm xuống sông, chìm nghỉm lại còn suýt bắt được con cá gáy to bằng hai bàn tay.
Thằng Thúi vừa nằm xuống, nhưng mải nghĩ ngợi chuyện gì đó, nó chống tay ngồi dậy hỏi:
- Có ai nhỏ bằng tui ri mà đi Việt Minh không?
- Khối! ở đội tao còn có đứa nhỏ hơn mi, nhưng đánh Tây anh dũng hết chê. Người lớn cũng phải phục. Họ còn đăng lên báo thành phố Huế mình biết tên biết tuổi.
Ðêm đó, hai đứa nằm co quắp sát bên nhau, trằn trọc cho đến tận khuya, mỗi đứa theo đuổi một ý nghĩ. Cả hai cùng lặng lẽ khóc không thành tiếng.
19.
Lượm bỗng sực nhớ từ hôm bị bắt đến nay nó chưa đi ngoài. Nó lo lắng nghĩ bụng- "Mình bị táo lâu ri e sinh bệnh mất. ở tù, ăn ngày hai vắt cơm bằng hai cái trứng ngỗng với muối, bị tra tấn, lại thêm mắc bệnh nữa chỉ có chết". Nó đứng bật dậy, đi ra cửa gọi to: "Ông cai ơi, cho tui đi ca-bi-nê, tui đau bụng lắm".
Không có tiếng trả lời, nó ráng sức gọi to hơn. Lát sau có tiếng tên cai ngục chửi rủa từ đằng xa:
- Tổ cha thằng mô đó? Làm cái chi mà la làng la nước lên rứa hứ?
- Dạ, tui đau bụng quá? Ông mở cửa cho tui đi ca bi- nê.
- Nè nói chi! Ðến chiều đi một thể.
- Nhưng tui đau bụng lắm. Tui không nhịn được.
Tiếng nhiều người trong buồng giam phụ họa.
- Ông làm ơn làm phước cho nó đi chứ nó sắp ỉa ra quần rồi ông ơi!
Tiếng tên cai ngục cáu kỉnh chửi rủa, tiếng khóa cửa lách cách mở.
- Tổ cha mi, đi! lại đằng dãy nhà tiêu kia.
Lượm loạng choạng bước ra khỏi buồng giam. Lúc đó vào khoảng 10 giờ sáng. Nó thấy quáng mắt vì ánh nắng mới tươi vàng rực rỡ. Nó liếc nhìn tên cai ngục. Một tay hắn cầm đôi đũa, chắc hẳn đang ăn dở bửa cơm.
Nó bước đọc theo cái sân rải đá dăm, cỏ mọc lún phún.
Nó thấy buốt nhói đến tận óc. Hai gan bàn chân bị đánh sưng phồng, dẫm lên đá dăm đau xé ruột. Nó co rúm người, nhón gót bước bằng năm đầu ngón chân.
- Ði mau lên, - tên cai ngục bợp gáy Lượm - Rứa mới đáng kiếp thằng cha mi! Con nít mới lớn đã học đòi làm cộng sản? Thứ ni không đem bắn quách để lớn chút nữa thì khó mà trị nổi. Hắn nói với một tên an ninh đang đi ngược lại. Tên an ninh không nói gì, chỉ nhún vai. Lượm cố nén đau, nhót nhanh về phía dãy nhà xí.
Dãy nhà xí có bốn gian, hai gian mái ngói thủng nát, cánh cửa xiêu vẹo. Hai gian mới được sửa lại có cửa đóng nẹp sắt.
Ðứng chờ tên cai ngục mở chốt cửa gian nhà xí thứ hai.
Lượm đưa mắt quan sát rất nhanh địa hình địa vật chung quanh. Dãy nhà xí nằm bấu vào bức tường cắm mảnh chai dọc khu vườn. Phía bên kia tường nhô cao một hàng cây phượng, mù u, vông đồng. Chắc ngoài đó là đường phố. đặc biệt có một cành cây phượng mọc vươn qua bức tường, là là gần sát nóc cái chuồng xí mà tên cai ngục đang mở chốt.. - Không hiểu sao. Lượm thấy trống ngực mình đập mạnh một cách kỳ lạ. Nó bước lên mấy bậc tam cấp nhầy nhụa, lọt vào bên trong nhà xí. Một đàn nhặng xanh bay vù lên như một đám mây. Cứt đái, giấy lộn, lá khô, rác, ngập ngụa không có chỗ mà đặt chân. Mùi hôi thối xông lên nhức óc.
Tên cai ngục khạc nhổ, đóng ập cửa lại, đập chốt sắt:
- Cứ việc ngồi yên trong đó- Lúc mô tau ra mở mới được ra. Mi mà gọi ầm lên thì đừng có trách tau ác.
Tiếng bước chân nặng nề của tên cai ngục xa dần.
Một quyết định bất ngờ vụt lóe lên trong óe Lượm, làm tim nó đập mạnh đến nỗi nó phải đưa tay lên ôm ngực:
"Trốn!" Cái âm thanh của từ ngữ gai góc dễ sợ này dồn dập vang dội khắp cơ thể nó, và có một sức hấp dẫn ghê gớm không sao cưỡng lại được. Vốn liều lĩnh và rất nhanh trí, chỉ một khoảnh khắc nó đã phác xong kế hoạch đào tẩu. Nó bặm môi bặm miệng, hai tay cố hết sức xoắn vặn bẻ gãy một đoạn dây thép treo lòng thòng ở góc tường. Ðoạn đây thép ở chỗ xoắn vặn đốt cháy năm đầu ngón tay nó, nhưng nó không buông rời cho đến lúc bẻ gãy. Nó dùng đoạn dây thép xâu qua cái đinh khuy trên cánh cửa, và buộc xoắn nhiều vòng quanh cái đinh lớn đóng trên tường "để tụi hắn phải loay hoay mất ít nhất mười lăm phút mới mở được cửa" - Nó nghĩ vậy. Thấy một viên ngói vỡ dưới chân, gợi lên trong óc nó một sáng kiến. Nó cúi nhặt viên ngói làm cái xẻng xúc từng đống cứt trát lên cánh cửa. nó cười gằn:
"Tao cho cả lò. Việt gian tụi bay ăn cứt?" Một chân nó đạp lên cái thanh gỗ nẹp cửa, một chân đạp vào góc tường, gắng hết sức vươn người bíu lấy mép cửa bên trên, đu người lên. Cạnh thành cửa như dao cắt đúng vào chỗ rộp phồng gần gót chân- Nó cắn chặt răng để khỏi bật tiếng rên. Bàn tay trái bíu chặt mép cửa, bàn tay phải vươn hết sức cố bám được cái xà trên đầu. Khi buông bàn tay trái ra để bám tiếp vào xà gỗ phía xà gồ, nó suýt tuột tay rơi xuống miệng hố xí. Nhưng với một sự gắng sức khủng khiếp nó đã giữ được khỏi rơi. Nó co hai chân đưa lên quặp chặt thành xà gỗ, rồi lật người ngồi được lên trên.
Nó run run quỳ lên thành xà gỗ, một tay bíu vào cái đòn tay, một tay dở ngói. Cành phượng xum xuê lá vả khoảng trời xanh lơ hiện ra ngay trên đầu nó. Nó gỡ thêm bốn viên ngói nữa để đủ vừa người chui lọt. Nó thận trọng xếp những viên ngói dỡ ra lên cái xà gỗ. Nó đứng thẳng người chui qua chỗ thủng lên mái ngói. Ngồi khom mình trên mái ngói, nó đưa mắt quan sát chung quanh- Phía dãy nhà làm việc thoáng có bóng người đi lại. Xung quanh vắng ngắt, yên tĩnh. Nó đứng hẳn lên, đánh đu vào cành cây, và co hai chân quấn vào một nhánh mọc ngang. Ðèo sức nặng của nó, cành cây hơi sà xuống một chút. Nó cố hết sức để cành cây khỏi rung động mạnh, lật mình cỡi lên được bên trên cành.
Nó bò như một con mối, dọc theo cành cây. Bên dưới nó đã là lề đường phố, xanh ri cỏ dại. Sắp sửa ôm thân cây tụt xuống, nó chợt thấy có hai người đi xe đạp ngang qua, ứng phó rất nhanh, nó liền vươn người, với tay, hái một trái phượng đung đưa trước mặt, giả bộ vừa trèo lên hái quả phượng. Một người đạp xe chậm lại, nhìn lên hỏi:
- Thằng con nít tê! Mi muốn chết hay răng mà mi dám trèo cây ở khu vực hung thần ni!
- Dạ, dạ... em xuống ngay đây, em lỡ không biết - chờ cho hai người đạp xe quá lên trước, nó mới tụt thật nhanh xuống gốc.
Hai chân nó vừa chạm lớp cỏ mềm hè phố, cả người nó run lên- may ra thì mình sẽ thoát. Ý nghĩ đó làm cho con tim muốn nhảy ra khỏi lồng ngực, nghẹt thở.
Ðường phố này rất vắng người qua lại. Nó quyết định rất nhanh: Đi về phía sông Hương, qua đò, sang bên tê. Phải qua được sông trước khi tụi hắn biết mình trốn. Nếu không qua kịp thì nguy mất. Sang bên đó rồi sẽ tính sau.
Có điều, thời gian rất gấp mà nó không dám chạy.
Chạy gặp người qua lại, tất họ sinh nghi. Nếu không may chạm trán tụi Bảo Vệ Quân, cảnh sát thì thế nào chúng cũng đoán mình là tù trốn. Mặt mũi sứt mẻ gớm ghiếc, áo quần rách như tổ đỉa, khó giấu lắm.
Nó gần như nửa đi nửa chạy, thấp thỏm bàng hoàng như chạy trốn trong một cơn mơ...
20.
Khoảng hai mươi lăm phút sau, tên cai ngục mắt đỏ gay như cổ gà chọi, chếnh choáng hơi men, vừa xỉa răng vừa đi ra dãy nhà xí. Hắn mở chốt cửa, bước lùi lại, đứng tránh sang một bên, nạt:
- Nào, đi ra? Mau lên cho ông nội mi về nghỉ trưa.
Nhưng cửa vẫn đóng im, bên trong không động tĩnh.
Hắn cáu kỉnh chửi:
- Tổ cha mi! Mi chết rấp trong đó răng mà không chui ra há?
Vẫn không có tiếng trả lời- Hắn bước lại, giật cửa nhưng cánh cửa chặt cứng như đã bị chốt ở bên trong. Hắn nổi điên, đấm cửa rầm rầm quát:
- Mi muốn bóp dái ngựa hay răng mà dám chọc tau hả?
- Hắn cho là Lượm chốt cửa lại để chọc tức hắn.
- Mở ra! Mở ra? Tổ cha mi chuyến ni thì tau giết chết?
Hắn giật giật cánh cửa. Vẫn không một tiếng trả lời.
Hắn bắt đầu chột dạ, ghé sát mắt vào một khe ván hở, nhìn vào bên trong- Hắn bật kêu một tiếng rụng rời:
- Thằng tù con nít trốn mất rồi!
Hắn toát hết mồ hôi, tỉnh hẳn cơn say ngà ngà.
Nghe tiếng kêu hoảng hốt, hai tên lính Bảo vệ xách súng chạy lại. Cả ba đứa phụ nhau, đứng dạng chân chèo, giật mạnh cánh cửa- Cài đinh khuy Lượm buộc dây thép bật tung. Cánh cửa mở toang, những tảng phân quánh đặc lúc nãy Lượm xúc trát lên cánh cửa, theo đà giật quá mạnh, bắn tung tóe vào đúng giữa mặt cả ba đứa như một loạt đạn ria. Chúng hớt hải đưa tay lên vuốt mặt và cùng ré lên một tiếng ghê sợ:
- Ui chao ui! Cứt!
Chúng vuốt mặt, rảy tay, khạc nhổ, quay cuồng như phải bỏng.
Gian nhà xí trống rỗng, chúng nhìn lên mái ngói một lỗ thủng lớn. Vừa tiếp tục vuốt mặt, khạc nhổ, chúng vừa chạy ngược chạy xuôi la lối om xòm.
- Thằng tù con nít chui qua mái ngói trốn mất rồi.
Phút chốc cả Ty An ninh nhốn nháo. Nhiều tên đổ xô ra nhìn ngó gian chuồng xí mái ngói bị dở tung. Ðứa nào cũng lắc đầu:
- Thằng oắt ni gớm thiệt!
Tên chủ sự ty An ninh đấm bàn, xô ghế, chửi mắng bọn tay chân:
- Ðồ ăn hại! Tụi bay gác xách rứa à? Bay mà không tìm thấy hắn, tao cho vô tù cả nút! Ðể cho một thằng con nít mới nứt mắt trốn thoát giữa ban ngày ban mặt, thì dân chúng nó còn coi cái ty An ninh ra cái cứt gì nữa! Một lũ ăn hại! một lũ ăn hại!
Hắn hối hả gọi điện thoại báo cho các trạm kiểm soát các ngả vào thành phố, tả hình dáng tên tù trốn. Hắn huy động tất cả lực lượng hành động của ty An ninh, phóng xe đạp, xe máy đi lùng bắt.
Viên cai ngục lo lắng hoảng sợ hơn cả. Mặt dính trát đầy cứt nhưng hắn chẳng kịp rửa, mở cửa buồng giam thét lác:
- Thằng mô biết hắn trốn ngả mô thì khai ra ngay!
- Không khai tau giết. Thằng ni - hắn đấm ngực sòm sòm - giết cộng sản là không biết gớm tay mô!
Cả buồng giam nín im thin thít. Tên cai ngục bỗng xô đến chỗ ông cụ ngồi trong góc, tóm lấy bộ râu, xoắn một vòng, nhấc bổng ông cụ lên lôi xềnh xệch ra sân. Mắt hắn đỏ ngầu như con thú nổi cơn điên, quát thét rất to:
- Chính mi xui thằng nớ trốn? Sáng ni rõ ràng mắt tao trông thấy mi cho hắn ăn bánh mì, để hắn có sức hắn trốn.
Mi với hắn là cùng một bọn với nhau!..
Chẳng là ông cụ ngày nào cũng được người nhà gửi đồ tiếp tế: khi xôi, khi bánh chưng, bánh mì... Lần nào mở thức ăn ra ăn, ông cụ cũng bẻ cho Lượm: "Ăn đi cháu, cơ khổ. Họ đánh đập đến nước nớ mà không ăn uống chi thì sống làm ráng nổi?" Sáng nay ông cụ bẻ cho Lượm nửa ổ bánh mì. Lượm lại bẻ làm đôi cho thằng Thúi một nửa.
Kéo râu ông cụ ra đến giữa sân, hắn dúi ông cụ ngã ngửa xuống sân- Cái khăn nhiễu tam giang quấn chữ nhân trên đầu xổ tung- Hắn dậm một chân lên ngực ông cụ, một tay túm râu kẻo giật đầu ông lên, gầm ghè:
- Mi có khai không? Thằng nó bàn với mi là hắn trốn đường mô? Chạy núp vô nhà ai? Mi mà không khai, tao giết!
Ông cụ râu tóc tả tơi, mặt tái nhợt vì đau đớn và khiếp sợ. ông rên rỉ:
- Ui chao ơi, oan uổng cho tui quá! Tui làm răng biết được hắn trốn đường mô? Tui có quen biết chi hắn.
- Không quen này! Không quen này! - Hắn đấm ông cụ thùm thụp như giã dò. - Không quen mà sáng mô mi cũng chia bánh, chia xôi cho hắn.
Trong thâm tâm, hắn cũng tin là việc Lượm trốn không liên quan gì tới ông cụ. Nhưng hắn vẫn cứ đánh.
Hắn mong lấy sự tàn ác điên cuồng để may ra có thể chuộc một phần tội với cấp trên về việc để cho tên tù con nít trốn.
Khoảng một tiếng đồng hồ sau, có tiếng nhốn nháo phía trước cổng.
- Bắt được thằng trốn tù rồi? Bắt được rồi!
Hai tên Bảo vệ quân cầm ngang súng dẫn Lượm đi vào sân Tóc tai, áo quần nó ướt sũng nước. Mặt mũi nhoe nhoét máu Chứng tỏ trên đường dẫn về ty An ninh, Lượm bị chúng đánh rất dữ. Vừa nhìn thấy Lượm tên cai ngục buông ngay ông cụ ra, nhảy chồm đến chộp lấy cổ Lượm, thét lên một tiếng gần như tiếng rống của mãnh thú:
- Tồ cha mi! - Hắn lẳng một cái, Lượm ngã vật xuống sân như con nhái bén. Hắn tóm ngực áo Lượm dồi lên dập xuống.
tay đấm chân đạp. Vừa đấm đạp, hắn vừa nhảy chồm chồm như thật sự đã phát điên. Ông cụ lóp ngóp bò dậy, búi lại búi tóc củ hành, nhặt cái khăn nhiễu quấn vào cánh tay, chạy đến cạnh tên cai ngục, rên rỉ:
- Xin ông để tui đánh chết hắn cho! Hắn báo hại tui!
Ông cụ nhặt chiếc guốc mộc đánh vào Lượm hai phát.
Sợ đánh quá tay thằng tù con nít chết mất, tên cai ngục phải ngừng. Hắn lôi xềnh xệch Lượm vào buồng giam và đóng ập cửa lại.
Cả buồng giam xúm lại quanh Lượm- Họ nâng nó dậy cởi bộ áo quần ướt sũng nước và bê bết đất cát, lá khô.
Anh thợ máy cởi cái áo đang mặc, mặc vào cho Lượm rồi nhẹ nhàng bế nó lên, đặt vào chỗ nằm ở góc buồng. Thằng Thúi sợ quá, từ nãy tới giờ ngồi co rúm như chết cứng một xó. Lúc này, nhìn thấy Lượm mặt mũi méo mó, dính đầy máu, tự nhiên nó bật khóc hu hu. Nó vừa khóc vừa lấy cái mũ phở, lót xuống đầu Lượm.
Anh thợ máy, lay nhè nhẹ, gọi nó:
- Em! Em!
Phải một lúc sau, Lượm mới mở hé hé cặp mắt sưng húp, nhìn anh rồi lại nhắm ngay lại. Anh cắn môi tưởng đến bật máu, khẽ rít lên:
- Quân chó má thật! Con nít mà chúng nó đánh đến nước ni thì còn trời đất mô nữa?
Lượm mấp máy đôi môi bầm dập, thều thào:
- Cho em hớp nước...
Thằng Thúi cầm ngay lay cái lon, ra gần cửa xin chén nước của một người tù, mang lại- Anh thợ máy khẽ nâng đầu Lượm, kề miệng lon nước sát vành môi sưng tím của nó. Nó không đủ sức để hớp nước, anh phải khẽ nghiêng lon nước rót từ từ từng ngụm nhỏ. Nó uống nước với vẻ đau đớn như nuốt than đỏ.
Gần chiều tối, sức lực Lượm hồi dần. Nó đã nhúc nhích được tay chân, và cái miệng sưng vều chảy máu đã trệu trạo nhai được nửa vắt cơm. Ăn xong, chưa kịp uống nước nó đã nằm vật xuống tấm bao bố rách và ngủ li bì như chết.
Khoảng nửa đêm, nó chợt thức dậy. Trong bóng tối câm đặc, một bàn tay ai đó run run vuốt tóc nó. Hơi thở ấm có mùi dầu nhị thiên đường phả vào mặt nó. Và trên má nó có những sợi tóc quét nhè nhẹ.
Tiếng lào thào:
Cháu còn thức hay ngủ. ông đây...
Lượm nhận ra tiếng ông cụ.
- Ông đánh cháu hai chiếc guốc rứa cháu có đau không? Cháu đừng giận ông mà tội. Ông phải làm rứa để che mắt tụi hắn...
Lượm tỉnh ngủ hẳn. Khắp người nó đau ê ẩm. Những chỗ bị chúng đánh lúc này rát bỏng như lửa đốt. Nó cố sức lật người nằm ngửa, đưa bàn tay sờ soạng nắm lấy bàn tay khô gầy của ông cụ. Nước mắt nó tự nhiên ứa ra.
- Cháu đời mô lại giận ông. Tụi hắn đánh cháu ra ri, ông có đánh cháu thêm vài chiếc guốc nữa có thấm béo chi.
- Rứa cháu chạy đến khúc mô thì bị tụi hắn bắt được?
- Đến bến đò Trường Súng. Cháu chưa kịp xuống đò thì tụi hắn ập tới. Cháu nhảy xuống sông định bơi nhưng tụi hắn đông quá, chống đò ra, xách cổ cháu từ dưới nước lên..
Nói đến đó, Lượm như kiệt sức, lại ngủ thiếp đi. Chốc chốc nó lại cựa mình, ú ớ nói mê.
Ông cụ vẫn ngồi còm cọm bên nó, lấy vạt áo làm quạt, xua muỗi cho nó đến tận sáng.
Sau vụ vượt tù hết sức bất ngờ, táo bạo, liều lĩnh của Lượm, tất cả những người cùng giam đều nhìn nó với cặp mắt đầy thiện cảm và không khỏi có phần thán phục.
Họ nói với nhau:
- Không biết con cái nhà ai mà to gan thật!
- Con cái nhà họ Việt chứ còn con cái nhà ai.
- Mà hắn cũng bợm thiệt! Sấp mình ở đây hàng tháng đi vô đi ra cái nhà tiêu nớ mấy chục lần vẫn thấy cửa kín tường xây như bưng Rứa mà hắn mới vô có một lần đã tìm được khe hở, chui lọt ngay ra ngoài chẳng khác chi con cá rô rạch ra khỏi hom giỏ.
- Chuyện! Chiến sĩ tình báo hoạt động nội thành mà lại.
- Mới chừng nớ tuổi, thì không biết chú ta học cái nghề tình báo đó khi mô? E học trong bụng mẹ chắc!
- Cả cái ty An ninh bị ông Vệ Quốc Ðoàn con nớ mần cho một trận méo mặt!
Lượm trở thành con cưng của cả buồng giam. Mọi người xúm lại săn sóc em. Người thì săn sóc ngang nhiên trước mặt tên cai ngục, tụi an ninh. Người thì lén lút, thậm thụt, mắt trước mắt sau.
Một ngày năm bảy lần là ít, tên cai ngục hé cửa nhìn vào góc Lượm nằm. Hắn như chưa hết thấp thỏm, sợ hãi, lo Lượm lại bất thình lình chui lọt ra khỏi trại tù lần nữa.
Ngay chiều hôm Lượm trốn, ty An ninh cho thợ đến lắp lên trần hai gian nhà xí hai tấm lưới sắt, với những nẹp sắt to vặn siết bù loong.
Tất cả những cái đó càng làm mọi người thêm yêu mến Lượm: Họ coi như Lượm đã thay mặt cả buồng giam đánh trả ty An ninh một cái tát có thể gọi là đích đáng.
Người săn sóc Lượm tận tình hơn cả là anh thợ máy, như săn sóc em ruột, săn sóc con đẻ. Mỗi bữa chiều, sau bữa ăn, anh đều để dành một ống bơ nước nóng hòa muối.
Anh dùng để rửa hai gan bàn chân Lượm sưng vù vì những vết đánh lau khô rồi xé cái áo cũ băng lại- Anh nhai muối vỗ lên những chỗ bầm tím trên mặt, trên lưng, khe khẽ bóp cho tan máu. Vừa bóp vừa dỗ dành: "Em chịu rát chút nghen, chỉ vài bữa là khỏi thôi em ạ?"
Ngồi rửa chân cho nó, anh nháy mắt hỏi khẽ:
- Chú em đã thất kinh chưa?
Lượm nhíu mày bướng bỉnh trả lời:
- Còn lâu em mới thất kinh! Cha em trước làm Cộng sản, vượt tù đến năm lần tê anh ạ. Vượt đến lần thứ năm thì tụi hắn bắn chết.
- Nếu gặp dịp hay, em còn dám chơi tụi hắn một vố nữa không?
- Sợ chi mà không chơi anh!
- Phải. sợ chi! - Anh bỗng chụm môi lại, huýt sáo nho nhỏ câu hát: "Sống tranh đấu thà không sờn lao khổ. Chết huy hoàng mà không khuất phục ai".
Anh đặt hai bàn chân nó vào lòng vừa lấy vạt áo thấm khô, rủ rỉ nói:
Lúc nghe tụi hắn rống lên phía nhà xí: "Thằng tù con nít trốn mẹ nó mất rồi!" Anh mừng đến chảy nước mắt, bụng nghĩ: "Hắn thì trốn mẹ nó mất rồi, còn bay thì chết cha tụi bay" Mừng thì mừng nhưng anh không hy vọng là em thoát nổi. Hai chân em đau như ri với mặt mũi áo quần như ông ba bị rứa mà chạy giữa đường phố thì lọt qua răng cho khỏi mắt tụi mật thám, Bảo Vệ Quân, An ninh.
Lượm xuýt xoa:
- Tại em ngu quá. Cơ chi lúc đó em đừng thoát ra bến đò vội. Em lựa một cây mô bên đường thật cao, thật rậm lá, trèo tót lên ngọn, nằm thật im - Có tài thánh tụi hắn cũng chẳng tìm ra được em- Em cứ nằm im trên đó chờ cho đến tối mịt mới tụt xuống tót ra bờ sông, thì răng em cũng thoát. Chừ nằm nghĩ lại em cứ tiếc đứt cả ruột! Việc dễ như ăn ớt rứa mà lúc đó răng em lại không nghĩ ra. Em ngu thiệt! - Nó nắm tay đập đập lên trán, nhắc đi nhắc lại hoài:
- Em ngu thiệt! Em ngu thiệt!
Anh thợ máy nhìn Lượm, ánh mắt âu yếm, và khe khẽ ngâm:
"Ai chiến thắng nhà không hề chiến bại.
Ai nên khôn mà chẳng dại đôi lần".
21.
Năm hôm sau, chúng gọi Lượm lên phòng hỏi cung- Cả buồng giam ngồi dậy tiễn đưa Lượm. Tia mắt mọi người nặng trĩu đau buồn, căm giận. Họ tin chắc lần này chúng phải đánh Lượm cho đến chết- Thằng Thúi ngồi thu lu trong góc bỗng òa khóc thành tiếng, miệng mếu máo dặn với theo:
- Anh la thiệt to vô anh nghe.... hu hu hu... Họ đập anh chết mất..hu hu !
Tội nghiệp, thằng bé bắt đầu quyến luyến Lượm. Ra đến cửa buồng giam, Lượm ngoái cổ lại nhìn nó, định nói câu gì vui để ra bộ cứng cỏi, nhưng cổ cứ tắc nghẹn và tự nhiên Lượm cũng mếu theo. Buồng lấy cung là một gian phòng rộng hình chữ nhật, được ngăn đôi bằng một vách gỗ, theo chiều dọc, ngoài đặt bàn giấy hỏi cung, nửa trong là phòng tra tấn.
Ðối điện với bàn giấy lớn của tên trưởng phòng hỏi cung là một ghế băng kê sát tường, cho phạm nhân ngồi. Tên Bảo vệ quân giải Lượm, mở cửa đẩy nó vào buồng, nó thấy trong buồng có năm sáu tên An ninh đang túm tụm quanh cái bàn nhỏ kê ở cuối phòng, sát bên cửa sổ. Trong tay mỗi đứa cầm một tệp giấy bạc- Hình như chúng nó vừa lĩnh lương, cả bọn đứa nào cũng lúi húi đếm bạc- Chúng vừa đếm vừa tán gẫu. Chuyện xoay quanh những nỗi "cực khổ, trần ai" dưới thời Việt Minh. Hình như bọn chúng trước đây đều là nhân viên, công chức công sở của nhà nước ta; sau khi hồi cư nhảy luôn vô làm mật thám, an ninh.
Trong số này có một tên mặc bộ áo quần ka ki xám, quay lưng phía Lượm, nhưng thoạt nhìn nó đã nhận ra ngay, Lê Thành, thư ký đánh máy trung đoàn bộ! Cái thằng đã cùng với Nguyễn Trì ăn cắp một tạ gạo của Vệ Quốc Đoàn, bị Lượm phát hiện, phải vào cải hối thất. Lê Thành đếm xong tiền, đút tệp giấy bạc vào túi quần, quay lại định đi ra cửa. Bất thình lình nó chạm phải ánh mắt xoi móc của Lượm đang nhìn nó, ánh mất Lượm như muốn nói:
"Tưởng ai té ra tụi ăn cắp ăn trộm của Vệ Quốc Ðoàn!" Lê Thành quay ngoắt tránh vội cặp mắt Lượm, vờ như không biết. Hắn nói với thằng đứng cạnh:
- "Moa" về trước có chút việc, các "toa" về sau nghe!
Và nó bước nhanh qua cái cửa ngách gần đó.
Lượm nhìn hút theo cái dáng cao lêu đêu như sếu vườn, cái lưng gù gù của tên phản bội. Hai khóe môi Lượm hằn vẻ căm tức như sắp buột miệng chửi.
Sau cái bàn giấy lớn chất những chồng hồ sơ cao nghệu, tên trưởng phòng lấy cung chăm chú quan sát gương mặt của tên "Vệ Quốc Quân con" (chúng gọi Lượm như vậy).
Trưởng phòng lấy cung trạc ngoài bốn mươi tuổi, trán hói đến tận đỉnh đầu, mũi nhòm mồm ánh mắt sát lạnh, ghê ghê như ánh dao.
Hắn vốn là một tên mật thám nhà nghề. Hắn như đọc thấy hết những gì đang diễn ra trong đầu Lượm lúc này. Hắn có vẻ thích thú trước cái gương mặt trẻ con méo mó, tím bầm và ánh mắt tức giận của Lượm khi nhìn hút theo bóng Lê Thành - nhân viên của hắn- Hắn biết khá rõ mối liên hệ trước đây giữa Lượm và hai nhân viên của hắn.
Những chuyện này do chính Lê Thành và Nguyễn Trì kể với hắn. Qua câu chuyện thì Lượm tuy là con nít nhưng rất được Việt Minh tin cậy. Còn hai đứa thì đã chống đối Việt Minh từ ngày còn làm việc dưới quyền của họ Nét mặt ánh mắt, khóe môi của thằng "Vệ Quốc Quân con", lúc này càng xác nhận rõ hơn những điều chúng đã kể. Hắn thở dài nghĩ bụng: "Bọn Việt Minh thật đã biết cách đào luyện cái thế hệ nối tiếp chúng! Những đứa con nít loại ni chỉ lớn lên vài tuổi nữa, hắn sẽ dám cầm dao lừng lững vô nhà mình, cắt cổ mình giữa ban ngày."
Hắn nhếch mép cười gằn dữ tợn, lẩm bẩm: "Thật đáng tiếc là mi chưa đủ tuổi để tao cột cổ mi vô cọc xử bắn?" Hắn chỉ cho Lượm ngồi xuống cái ghế băng kê sát tường, mặt đối mặt.
Hắn mở ra tập giấy Lượm đoán là hồ sơ hỏi cung mình. Vừa gõ gõ cây bút chì xanh đỏ vào tập giấy, hắn hỏi Lượm, giọng khá ôn tồn:
- Em vừa nhận ra người quen phải không?
- Trước tê thì cũng quen đó. Trước tê cũng là Vệ Quốc Đoàn. - Lượm trả lời trống không, mặt ngoảnh nhìn cái cửa ngách mà Lê Thành vừa đi ra.
- Rứa chừ không quen à?
- Chừ quen răng được..
Cung cách trả lời của Lượm như muốn nói với hắn "Ðằng mô thì tụi bay cũng nện tao nhừ tử. Rứa thì việc chi tao phải giữ mồm giữ miệng với tụi bay". Tên trưởng phòng lấy cung cũng nghe được như vậy, nhưng hắn cố nén giận:
- Em thấy chưa, trước anh ấy cũng là Vệ Quốc Ðoàn chức vụ còn to hơn em... - "Thư ký đánh máy lóc cóc, to cứt chi" Lượm trề môi, trả lời thầm trong bụng. - Rứa mà anh ấy khôn ngoan, biết quay về làm việc với chính phủ Nam triều, được chính phủ trọng dụng, sung sướng đủ điều.
Lượm ngồi đu đưa hai chân, trả lời giọng ngây thơ:
- Hồi còn ở Vệ Quốc Ðoàn anh ấy cũng khôn lắm. Anh ấy thông đồng với Nguyễn Trì, ăn cắp không,biết bao nhiêu gạo, bao nhiêu tiền của Vệ Quốc Đoàn rứa mà thoát hết, chỉ bị bắt có một lần rồi vô nằm cải hối thất.
Ðang gõ gõ nhè nhẹ, hắn bỗng ấn mạnh đầu cây bút chì xuống trang giấy, làm cái đầu chì xanh gãy lìa :
- Em chỉ có một mạ một con phải không?
Lượm gật đầu thay cho câu trả lời.
- Cha em nghe chết trong nhà tù, chết vì tội chi rứa?
- Tội làm cộng sản đánh Tây chứ không phải tội ăn cắp như Lê Thành với Nguyễn Trì mô.
Hắn quắc mắt nhìn Lượm, hăm dọa. Nhưng Lượm ngó ngơ chỗ khác như không nhìn thấy. "Mi tức à?" Lượm cười thầm hả hê: "Tức thì ăn cứt mà chết"
- Anh thấy em còn nhỏ, chỉ vì dại dột nghe Việt Minh xúi bậy mà theo họ làm loạn, đến nỗi phải vô tù, bị đánh đập, anh rất thương... Chừ em biết nghĩ lại, bỏ phứt Việt Minh mà theo chính phủ Nam triều thì anh sẽ báo lên trên tuyển dụng em ngay, vô làm việc ở ty An ninh. Nếu mà cứ tiếp tục ngang bướng, dại dột thì... - hắn phát một cử chỉ chặt đầu, - đừng có trách.
Lượm vẫn trả lời với giọng ngây thơ, khờ khạo:
- Ở nhà mạ tui vẫn nói tui với cha tui là tui giống to đầu cho nên dại lắm, chẳng có khi mô khôn được.
Ðến đây thì hắn không thể kiềm mình được nữa. Cái trán hói của hắn đỏ tía lên như vỏ tôm luộc. Hắn xô ghế, đứng phắt dậy, nét mặt hầm hầm như sắp nhảy xổ vô Lượm mà đấm đá.
Như nhại theo hắn, Lượm cũng thả chân xuống đất, đứng phắt dậy khỏi ghế, hai tay cởi nhanh cúc áo với ý nghĩ- "Phải rút kinh nghiệm mấy lần trước mới được. mình mặc áo, lúc tụi hắn đánh xong, xối nước, áo dính vô các chỗ chảy máu, rát không chịu thấu!".
Nhưng hắn không đụng đến Lượm. Hắn quát tên Bảo vệ quân đang ngồi chờ ngoài cửa:
- Dẫn nó về buồng giam.
Hắn lăm lăm ngón tay trỏ chỉ vào mũi Lượm, nói với giọng căm tức cố nén giữ:
- Ðã rứa tao sẽ chặt đứt cổ mi, cho mi về gặp cha mi dưới âm phủ, cho tiệt cái giống to đầu mà dại! Cho mi đừng hòng còn thấy lại mặt con mạ mi nữa.
Vẻ mặt và ánh mắt hung ác ghê rợn như ánh dao của hắn không có vẻ gì cho là nói dọa - "Hắn sẽ chặt đầu mình thật"- Lượm nghĩ vậy. Nó phải cố hết sức lấn át nỗi sợ để cài cúc áo mà bàn tay đừng run.
Không phải vô cớ mà tên Giản, phó ty kiêm trưởng phòng ba của ty An ninh Thừa Thiên khét tiếng tàn ác lần này lại đối xử với Lượm một cách khá ôn tồn như vậy.
Sáng hôm ấy, viên quan ba Sô-lê, chủ sự Sở mật thám Phòng nhì Pháp vừa gọi Giản đến gặp, Sô-lê chỉ thị cho hắn: "Thôi không tra khảo thằng bé con Việt Minh ấy nữa. Phải tìm cách dụ dỗ nó, sau đó sẽ gửi nó đi học một lớp điệp viên ngắn ngày cùng với thằng Kim. Hai đứa sẽ được tung lên chiến khu của Việt Minh làm nội gián. Việc này hết sức cần thiết."
Lượm vừa theo tên lính ra khỏi phòng lấy cung, tên Giản gọi điện thoại cho Sô-lê: "Thưa ngài không thể dụ dỗ nó được. Mới tí tuổi nhưng nó hết sức cứng cổ và xấc láo, giọng lưỡi nó là giọng lưỡi của những tên Việt Minh từ trong máu?". Tiếng Sô-lê cười khảy trong máy, hỏi lại bằng tiếng Việt, giọng đơn đớt nhưng rất sõi:
- Nó bao nhiêu tuổi?
- Dạ, mới mười bốn tuổi.
- Ồ mười bốn?.. Với cái tuổi đó thì có thế xoa đầu và cho nó ăn kẹo. Phòng lấy cung của các anh có kẹo không?
- Thưa ngài. chúng tôi không những đã xoa đầu mà đã xoa khắp người nó bằng roi da. Nhưng đều không ăn thua.
Tiếng Sô-lê lai cười khảy:
- Roi da là cái cách kém cỏi nhất trong nghề nghiệp của chúng ta. Mà xem ra bên các anh chỉ có độc một cách đó.
Bị chủ khinh miệt, tên trưởng phòng lấy cung thấy nóng mặt. Nhưng hắn nhẫn nhục, cố giữ giọng lễ phép:
- Thưa ngài, chúng tôi cũng đã dùng nhiều cách khác ngoài roi da. Nhưng thằng con nít này không giống những đứa con nít khác mà ngài thường gặp.
- Nó có hai đầu chắc?
- Thưa ngài, tất nhiên một thôi, nhưng là một cái đầu rất cứng, rất khó trị.
- Thằng Kim thì sao?
- Thằng Kim so với thằng này sao được? Cha nó là một tay Cộng sản sừng sỏ, đã năm lần vượt ngục và đã bị bắn chết! Ta père ta fils! (cha nào con nấy).
- Các anh đưa nó sang đây cho tôi. Rồi các anh sẽ thấy tôi thuần phục nó dễ dàng như thuần phục một con thú nhỏ hung hăng.
- Vâng, tôi sẽ cho dẫn nó sang ngay. Và tôi cũng rất hy vọng ngài sẽ thành công - Giọng nói của hắn lộ chút mỉa mai, mặc dầu đã cố kềm nén.
Và thật ngược đời, trong giây phút ấy, hắn thầm mong Lượm sẽ chơi cho tên Sô-lê một vố gì đó để cho hắn bớt thói ngạo mạn, tự đắc. Hắn còn mong Lượm vẫn giữ được thái độ xấc láo, cứng đầu, cứng cổ với tên trùm mật thám Phòng nhì như vừa rồi đối với hắn. Hắn đặt mạnh ống nghe xuống máy, buột miệng chửi:
- Ông nội mi. Qua bên đó mà mi lại chịu để cho cái thằng Tây ăn mắm nêm, chửi tiếng mình ngoen ngoét ấy mua chuộc, thì về đây tao sẽ cho thằng võ sĩ Năm-ngựa đánh chết mi như đánh chết con chó!
22.
Khoảng chín giờ sáng ngày hôm sau, một tên Bảo Vệ Quân, cắp khẩu tiêu liên "Mát" dẫn bộ Lượm từ ty An ninh đến Sở mật thám Phòng nhì Pháp.
Nắng chợt hửng lên sau nhiều ngày mưa dầm dề thối đất Nắng chan đầy ắp thành phố màu vàng non rực rỡ.
Một buổi sáng như sáng nay mà được đi chơi phố thì thật tuyệt! Nhất là khi người ta mới mười bốn tuổi! Người ta có thể lúc đi, lúc nhảy chân sáo, nhẹ tâng tâng, miệng chúm lại huýt sáo. Gặp một hòn sỏi, một trái mù u trên đường, người ta tiện chân làm một cú sút hòn sỏi, trái mù u bay thẳng tắp trên đường nhựa. Người ta có thể tay cầm cái ná cao su, viên sỏi đã kẹp sẵn, mặt nghênh nghênh nhìn lên cây tìm chim.. Nếu trong túi người ta có tiền, người ta có thể mua một que cà rem, rồi vừa đi vừa mút.
Lượm cũng vào trạc tuổi ấy, và sáng nay cũng đang đi "dạo" phố, nhưng với hai cổ tay bị trói quặt sau lưng, mặt mũi bầm dập, thâm tím, áo quần rách ngược rách xuôi.
Ðằng sau "người ta" là một tên lính mặt đầy những mụn cóc, kẹp tiểu liên "mát" hộ tống. Chỉ cần "người ta" nhấp nhổm định chạy là súng nổ liền, bắn thẳng vào lưng...
"Người ta" không ngó ngang, ngó ngửa mà cúi nhìn xuống chân. ánh mắt người ta rầu rầu, bồn chồn, lo lắng: Hắn đưa mình đi mô đây? đưa lên cửa An Hòa chặt cổ mình chắc. Lượm nghĩ thầm và tự nhiên muốn khóc. Bỗng dưng nó chợt nhớ mấy câu thơ mà Tư-dát vẫn thường ngâm nga, và thằng Tặng câu cá, đen như cục than hầm, cứ đòi chép cho bằng được:
"Ðời cách mạng từ khi tôi đã hiểu.
Dấn thân vô là phải chịu tù đày.
Là gươm kề cổ, súng kề tai...".
Câu thơ như có phép lạ làm cho cái miệng nó sắp mếu, nhếch ra thành một nụ cười ngạo.
Những người qua đường nhìn thấy Lượm, đều bước chậm lại, ngây người ngó theo. Họ đều đoán chừng chú bé này tên là Lượm-sứt hoặc Tư-dát gì đó, trong cái tổ tình báo Việt Minh vừa bị ty An ninh vây bắt ở Vĩ Dạ, mà các nhật trình thi nhau đăng tin mấy hôm liền. Và trong đáy mắt nhiều người không giấu được vẻ ái ngại, xót xa, khâm phục.
Nhưng Lượm không nhìn thấy họ, mặt vẫn cúi nhìn xuống đường. Ðầu óc nó còn rối bời với bao nỗi lo lắng:
"Không biết "anh Tư-dát" có dại dột quay về Vĩ Dạ không. Nó mà về đó thì răng cũng chui đầu vô ổ phục kích của tụi An ninh. Thằng Hiền, thằng Bồng thằng Châu-sém liệu đã biết tin anh Đồng-râu bị bắn chết chưa. Nếu biết, chắc cả tổ đã bỏ Sịa rút lên chiến khu rồi...". Lượm còn nghĩ đến cả cái đàn măng-đô-lin Trung đoàn trưởng dặn mua gửi lên thưởng cho thằng Quỳnh-sơn-ca. Cổ nó tự nhiên nghẹn lại:
"Quỳnh ơi, rứa là chẳng còn ai mua đàn cho mi nữa. Bao nhiêu tiền của Ban Tham Mưu cấp cho tổ quân báo - chính tay tau chuyển về cho anh Ðồng - chắc tụi hắn lục soát nhà lấy hết rồi. Không biết mình, có còn khi mô gặp lại các bạn trong đội nữa không?" Nghĩ đến đó nó không cầm nổi nước mắt.
Mải nghĩ ngợi miên man, thằng Bảo vệ quân dẫn nó đến trước cổng Sở mật thám Phòng nhì Pháp lúc nào không hay.
Ðó là một ngôi nhà hai tầng xây kiểu biệt thự, xung quanh có hàng rào sắt sơn xanh bao bọc. Cổng lớn với hai cánh cửa sắt đồ sộ, bên cạnh có chòi gác. Hai lối đi rải sỏi trắng tinh, ôm lấy một bồn hoa lớn hình thuẫn, cây cỏ tốt tươi, trăm hoa đua sắc. Phía sau nhà là một vườn rộng thênh thang, vươn cao quá nóc ngói tầu những tán cây cổ thụ.
Nhìn cái vẻ ngoài tĩnh mịch, trang nhã, xinh xắn của khu nhà, khó ai ngờ được nó chứa chấp bên trong biết bao nhiêu âm mưu thâm hiểm; bao nhiêu tội ác đẫm máu. Bọn thực dân cáo già chuyên trách nghề tình báo, gián điệp của quân đội viễn chinh Pháp ở Huế - Thừa Thiên và cả Trung phần Việt Nam đang ngự trị trong đó.
Thằng Bảo vệ quân đưa giấy tờ và giao Lượm cho một thằng Tây đeo lon cai, đứng chực sẵn trước cổng.
Thằng cai Tây mày râu nhẵn nhụi, cặp mắt màu nước biển gườm nhìn Lượm, không nói một tiếng, dẫn Lượm qua cổng, đi dọc theo con đường vòng cung rải sỏi phía bên trái cái sân rộng thênh thang. Nó chạm trán rặt những Tây với Tây. Chúng đi lại tất bật, vội vã. Bước lên những bậc thềm đá xanh bóng loáng, gặp một thằng Tây đeo lon quan một đang đứng trước máy điện thoại. Hắn bảo tên cai: "Dẫn tên bé con Việt Minh vào gặp Ca-pi-ten Sô-lê".
Nghe đến cái tên Sô-lê, Lượm bất giác rùng mình như bị lạnh đột ngột. Những ngày bị giam ở ty An ninh nó thường nghe các anh tù kháo nhau: "Gặp thằng quan ba Sô-lê ở "Đơ-dèm buya rô" là coi như rồi đời". Theo các anh, Sô-lê là tên chỉ huy mật thám tàn bạo, thâm hiểm nhất.
Các anh gọi hắn "hung thần mũi lõ".
Lượm tin chắc chuyến này mình sẽ bị tra tấn cho đến chết. Nó hình dung Sô-lê là một thằng Tây cao lớn như hộ pháp, mặt mũi dữ dằn, hai bàn tay lông lá lúc nào cũng đỏ lòm vì vấy máu những tù nhân bị hắn tra tấn. Còn gian buồng làm việc của hắn, xung quanh tường treo la liệt nhưng dụng cụ tra tấn ghê rợn nhất.
Lượm sững sờ, gần như kinh ngạc, khi tên cai Tây gõ cửa, đẩy nó vào một gian phòng bày biện rất sang trọng, diêm dúa. Nền đá hoa bóng loáng, các cửa sổ treo rèm lụa trắng muốt viền đăng ten. Bàn giấy, tủ, xa lông đều như soi gương được. Một thằng Tây nửa ngồi nửa đứng ở góc mép bàn giấy.
Hắn trạc ngoài ba mươi tuổi, mày râu nhẵn nhụi, tóc vàng, mắt xanh lơ, đặc biệt đôi môi hắn rất mỏng và có vẻ như lúc nào cũng sẵn sàng để mỉm cười. Hắn mặc bộ áo quần màu kem, cầu vai đeo lon quan ba. Cả con người hắn sực nức mùi nước hoa hảo hạng. Lúc hắn đứng lên, dáng người dong dỏng cao, mảnh mai, cân đối, có thể nói là đẹp.
Hắn hỏi bằng tiếng Việt sõi đến nỗi Lượm cứ nhìn hắn trân trân, ngờ rằng hắn là người Việt đội lốt Tây.
- Chào chú bé. Chú tên là Lượm, Trần Lượm phải không?
Hắn nhìn thấy hai tay Lượm bị trói, nét mặt liền lộ vẻ tức giận:
- Ô là la! Sao người ta lại nỡ trói một em bé như thế này. Em có đau lắm không?
Hắn bước đến, với hai bàn tay ngón rất dài và trắng muốt như ngón tay phụ nữ, cởi trói cho Lượm. Hắn nhìn hai cổ tay Lượm bị dây trói cắn sâu thành hai cái vòng đỏ bầm, giọng thương cảm kêu lên:
- Thật là khốn nạn? Rồi hắn quẳng sợi dây thừng qua cửa sổ. Hắn đặt tay lên vai Lượm, ấn xuống cái ghế dựa bọc da kê sát tường, nói thật dịu dàng:
- Em ngồi xuống cho đỡ mỏi, ngồi xuống đi, Em đói lắm phải không?
Chưa kịp để Lượm trả lời, hắn quay ra cửa, búng hai ngón tay đánh tách, gọi:
- Bồi! Ðem vào đây một ly sữa ca cao và một ổ mì kẹp chả.
Chỉ mấy phút sau, một tên bồi Tây đen bưng vào một cái khay nhôm, trên đặt ly sữa ca cao màu nâu sẫm bốc khói, một ổ mì vàng rộm, bụng nhồi căng chả; chả thè cả ra ngoài. Sô-lê chỉ cho tên bồi đặt khay lên cái bàn thấp bốn chân có bánh xe; và tự tay hắn đẩy đến trước mặt Lượm.
Cặp mắt xanh lơ không rời gương mặt Lượm, và cặp môi mỏng dính như mỉm cười. Tuy không ngửng nhìn lên - từ nãy đến giờ Lượm vẫn cúi nhìn chăm chăm sàn đá hoa bóng loáng mà hai bàn chân đất trần trụi của nó vừa in lên những vết đen ngòm - nhưng nó vẫn có cảm giác rất rõ cặp mắt tên chỉ huy mật thám Pháp đang bám chặt vào người mình. Biết vậy nó cố không nhìn cái khay nhôm. nhưng mùi thơm sữa ca cao bốc khói và ổ mì nhồi căng chả, cứ xộc thẳng vào mũi, nó không làm sao giữ được nước bọt tứa ra từng đợt, đầy mồm. Và nó bỗng thấy đói ghê gớm, tưởng đâu như cả chục ngày rồi chưa có miếng gì vào bụng. Lúc người ta đói khứu giác bỗng trở nên tinh nhạy một cách khác thường. Nó có cảm giác mùi thơm của sữa ca cao và bánh mì nhồi chả cứ tăng mãi lên, mỗi lúc một thêm dậm đặc, hành hạ nó còn hơn cả những trận đòn của tên võ sĩ Năm-ngựa...
Sự đối xử quá ư đặc biệt của tên mật thám cáo già làm cho Lượm vừa kinh ngạc vừa hoang mang. Ðang chuẩn bị để nghe tiếng quát mắng, chửi bới tục tĩu thì được nghe những lời hỏi han ân cần; chuẩn bị để ăn báng súng, roi cặc bò... thì lại được mời ăn bánh mì nhồi chả với uống sữa ca cao...
Ðối với một chiến sĩ lớn tuổi, từng trải hơn, sẽ hiểu ra đây chỉ là cách mua chuộc dụ dỗ của kẻ thù. Nó còn đáng sợ và nguy hiểm hơn những đòn tra tấn man rợ.
Nhưng Lượm mới có mười bốn tuổi, và lần đầu tiên sa vào nanh vuốt bọn giặc già, hỏi chú không kinh ngạc hoang mang sao được! Lòng nó phút chốc như mềm đi. Nó nghĩ bụng: "Hay thằng Tây ni không phải là thằng "Sô-lê hung thần" mà các anh lớn vẫn kể chuyện? Thằng ni coi bộ hiền khô mà tử tế quá. Chắc hắn thấy mình còn nhỏ mà bị tụi An ninh đánh đập nát cả người, nên hắn thương". Lượm đưa mắt nhìn ly sữa ca cao, ồ mì trắng nhồi chả no căng, nó thấy thèm đến cháy ruột cháy gan. "Hay là mình cứ ăn đại đi, miễn là mình cứ giữ vững, không khai báo chi với hắn hết...". Lượm nghĩ vậy và chỉ một tí tẹo nữa là nó rơi vào bẫy. Nó bỗng vụt nhớ một hôm anh thợ máy vừa rửa chân cho nó bằng nước muối, vừa rủ rỉ nói: "Em ạ... kể ra nó đánh em đến nước ni thì cũng khốn nạn thật. Nhưng có những thằng mật thám không đánh đập chi hết, ăn nói cứ ngọt xớt mới là những thằng nguy hiểm, gớm ghiếc". Câu nói vụt hiện ra như một lời chỉ giáo cách mạng đúng lúc nhất, đã kịp thời nâng đỡ người chiến sĩ nhỏ dại của mình, phải chiến đấu đơn độc giữa hang ổ giặc. Lượm thầm "À" lên một tiếng như ngày còn đi học ở trường tiểu học An Cựu vào kỳ thi lên lớp phải giải một bài tính đố mẹo hắc búa đến nỗi đầu óc cứ mê mụ ra, bất ngờ được một cậu ở lớp trên lén búng vào một mảnh giấy bày cho cách giải. Nó hiểu ngay ra, đằng sau ly sữa ca cao, ổ mì nhồi chả và những lời ân cần, ngon ngọt của thằng Tây mật thám đẹp trai này, có gài phục một cái bẫy dễ sợ nào đó! Nó cũng giống như hồi còn ở nhà, mình đi câu cá, nó nghĩ bụng trong cái đống thính cám rang thơm điếc mũi mình ném xuống nước để nhử bọn cá, nằm phục chiếc lưỡi câu ngạnh và mũi sắc như gươm.
chừ biết làm cách chi để tiêu được cái búng nước miếng đang tứa ra đầy một miệng mình đây? Nó cau trán day đứt, băn khoăn. Nuốt thì không tiện. Thằng chó chết sẽ biết ngay mình đang chảy nước miếng vì thèm sữa ca cao với bánh mì cặp chả của hắn, nhục lắm. Mà nhổ ra lại càng không xong. Thật khó khăn nan giải.
Chợt nảy ra một mẹo, Lượm đưa tay cầm ly sữa ca cao.
Quan ba mật thám Sô-lê mỉm cười đắc ý, nói giọng khuyến khích:
Em uống đi! Uống hết tôi sẽ gọi lấy thêm ly khác.
Lượm đưa ly sữa lên mũi, hít hít, rồi làm bộ nhăn mặt rùng mình như ngửi phải một đống ruột cá ươn. Nó ọe luôn cả bãi nước miếng vào ly sữa. Nó đặt ly sữa trộn nước miếng xuống khay, lắc lắc đầu, đưa ống tay quệt miệng, nói:
- Tanh quá! Tanh quá! Tưởng nước chi té nước sữa!
Tui mới ngửi cái đã buồn mửa ghê!
Nó lại gù người tiếp tục nôn ọe, và khạc nhổ lung tung xuống nền đá hoa.
Sô-lê cười khanh khách:
- Bé con không biết uống sữa? Ðồ nhà quê, nhà... à quê! Không uống được sữa thì ăn ổ mì nhồi chả vậy.
Lượm cũng nhếch mép cười không thành tiếng, một tay vỗ bồm bộp vào cái bụng lép kẹp:
- Tui no rồi? Tui không quen ăn bánh mì chả. Sáng ni tui ăn cơm bên ty An ninh no căng cả bụng...
Tên mật thám Tây bắt đầu hiểu ra. Thằng bé đang ngồi trước mặt mình không phải là một đứa con nít bình thường, đúng như lời tên phó ty An ninh. Ðằng sau cái vẻ ngây ngô, quê mùa ấy ẩn giấu bản lĩnh của một tên Việt Minh cứng đầu, xấc láo. Cặp mắt xanh lơ của hắn sầm lại vì tức giận, nhưng cặp môi mỏng dính vẫn tươi cười:
- Ăn đi. Không ăn thì không tốt?
Lượm nghe ngứa tai, chửi thầm: "Tốt! Tốt cái con mạ mày ấy à? Tốt với tụi bay thì chỉ có ba thằng Việt gian thôi." Nó nhìn tên Sô-lê và nói với giọng thật thà trẻ con:
- Tui không quen ăn bánh mì thiệt mà... Tui ở nhà quê...
- Tôi rất thích những chú bé gan dạ như em. Tình báo là một nghề rất hợp với những em bé gan dạ. Tôi không ngạc nhiên khi biết em là một tình báo viên giỏi của Việt Minh. Em có thể tiếp tục theo nghề tình báo nếu em thích.
Lượm chưa hiểu hắn muốn nói gì. Nó cau trán nghĩ ngợi một thoáng, rồi nói:
- Nếu ông tha tui ra, tui sẽ về nhà đi học.
- Không cần về nhà em vẫn có thể đi học được, học đúng cái nghề mà em yêu thích. Tôi sẽ gửi em đến một trường dạy nghề tình báo ở ngoại quốc. Học xong em sẽ trở thành một tình báo viên xuất sắc làm việc cho người Pháp. Em sẽ tha hồ sung sướng, có nhiều tiền, có ô tô nhà lầu, lấy vợ đẹp.
"À, té ra rứa đó. Mi cho tao uống sữa ca cao, ăn bánh mì cặp chả là để tao đi làm Việt gian, làm tình báo viên cho Sở mật thám của mi. May cho tao là chưa uống, chưa ăn."
Lượm nghĩ vậy và nói:
- Tui chỉ muốn các ông tha cho tui về nhà với mạ tui, tui đi học chữ...
- Em khoan trả lời tôi vội. Sô-lê đưa bàn tay ngoắc ngoắc trước mặt Lượm như muốn ngăn lại. Tôi muốn em có thì giờ suy nghĩ trước khi trả lời.
Hắn bấm chuông, gọi một thằng lính Tây vào và bảo:
- Mày hãy dẫn chú bé ra vườn cho chú dạo chơi từ bây giờ đến hai giờ chiều. Hắn quay sang nói với Lượm bằng tiếng Việt. Em đi theo người lính này ra sau vườn dạo chơi và suy nghĩ kỹ những điều tôi vừa nói với em. Hai giờ chiều em sẽ vào đây trả lời tôi. Tôi rất mong em đồng ý.
Ðây là một dịp may hiếm có, mà chỉ có những chú bé gan dạ như em mới gặp được mà thôi. Thằng lính Tây đứng nghiêm chào tên
quan ba, rồi vẫy tay, huýt một tiếng như gọi chó, gọi Lượm theo hắn đi ra vườn.
Lượm không ngờ khu vườn đằng sau ngôi nhà này lại rộng đến thế. Như một cánh rừng nhỏ. Cây mọc san sát.
Nhiều thân cây đến hai người ôm. Trên thân cây quấn quýt dây leo với những ngọn lá xanh như ngọc đúc, to bằng cái quạt. Ngoài mấy lối đi hẹp rải sỏi, cả khu vườn cỏ mọc xanh um. Những đốm nắng như những đóa hoa màu vàng chanh hình thù kỳ dị điểm rải rác trên thảm cỏ. Thấp thoáng cuối vườn là hàng rào sắt sơn xanh tua tủa những cọc nhọn hình mũi giáo; các khe hở được thưng kín bằng tôn.
Dẫn Lượm ra đến vườn, tên lính gác lại huýt một tiếng như gọi chó, bảo Lượm đứng lại và nói:
- Ê, bé con. Bây giờ thì cho mày được dạo chơi tha hồ. Nhưng cấm không được đến gần hàng rào kia. Nó đưa mũi súng tiểu liên chỉ về phía hàng rào sắt.
Lượm lắc đầu, ngồi phịch xuống một rễ cây nổi gồ trên mặt đất, nói với hắn bằng tiếng Pháp.
- Tôi chỉ muốn ngồi nghỉ ở đây thôi. Hai chân tôi đau.
Nó chỉ xuống hai bàn chân.
- Ngồi nghỉ? Tốt lắm! Tốt lắm!
Lượm bỗng thấy người mệt rã rời và hâm hấp sốt. Nó nằm dài trên cỏ, một tay co gối đầu:
- Tôi muốn ngủ.
Nghe đến ngủ, tên lính Pháp ngáp dài, nhún vai:
- Nếu vậy tao với mày cùng ngủ.
Hắn chạy vụt vào nhà, và trở ra ngay, tay cầm sợi xích sắt dài (chắc vẫn dùng để xích chó) và một cái khóa lớn.
Hắn nói giọng cười cười:
- Bé con vui lòng để tao xích tạm mày vào gốc cây.
Nghe người ta nói mày là một tên đào tẩu có hạng - Hắn bỗng nghiêm mặt nói giọng hăm dọa. Cái bọn đã để cho một thằng nhóc như mày đào tẩu trước họng súng là bọn ăn hại, Vào tay tao thì mày đừng hòng!
Hắn luồn dây xích sắt qua kẽ hở cái rễ cây to bằng bắp đùi, quấn hai đầu dây xích vòng quanh cổ chân trái Lượm, rồi dùng khóa, khóa lại. Hắn bấm khóa kêu đánh tách, rút chìa khóa ra, đút chùm chìa khóa vào túi quần.
Hắn đứng lên, miệng húyt sáo, đi đến một gốc cây cách chỗ Lượm nằm chừng mười thước. Hắn dựa khẩu tiểu liên "Tôm-sơn" vào gốc cây, nằm dài xuống cỏ, đầu gối lên bao đạn. Ngoảnh mặt về phía Lượm, hắn nháy mắt nói.
- Nào, ngủ đi bé con! Một tiếng đồng hồ nữa tao sẽ đánh thức mày dậy. Không được dùng răng cắn đứt sợi dây xích của tao nhé! - Tự thưởng thức câu nói đùa ý vị của mình, hắn cười lên hô hố, nhe hết cả hai hàm răng sáng lóa, nhọn hoắt như răng thú dữ.
Lượm ngoảnh mặt, chẳng thèm chú ý đến câu nói đùa vô duyên của hắn. Thằng Tây này lùn thấp, to ngang trông gần như hình vuông. Mắt hắn vàng như mắt rắn, mũi gồ lên giữa mặt như một đống thịt thừa đỏ hỏn, cằm vểnh lên trơ trẽn một chòm râu dê.
23.
Lượm nhắm mắt cố nhớ lại một cách thứ tự câu chuyện của tên quan ba mật thám nói với mình Nhưng đầu óc Lượm như mê mụ hẳn đi. Cái mùi thơm của ly sữa ca cao bốc khói với ổ bánh mì vàng rộm, cặp chả, đột ngột hiện ra choán hết mọi ý nghĩ của nó. Trán và hai thái dương nó mồ hồi toát ra đầm đìa. Mắt nó hoa lên, đầu nó quay cuồng như say nắng. Một cơn đói dữ tợn chưa từng thấy bùng lên, hành hạ nó. Tay chân Lượm bủn rủn cơ bộ muốn ngất xỉu. Nó đưa tay vặt mấy ngọn cỏ non, bỏ vào miệng nhai ngấu nghiến, nghĩ bụng: "Mình cứ nằm ri, e chút nữa không ngồi dậy nổi!". Nó liền chống tay, gắng hết sức ngồi dậy. Nó nhìn sang thấy tên lính gác đã ngủ say, phủ ngang mắt cái mũ ca-lô, miệng há hốc, ngáy như sấm.
Nó nhích lại gần cái rễ cây để dây xích chùng bớt. Nó xoay trở cố tìm cách nới rộng sợi xích, hy vọng có thể rút chân được Nhưng mất công vô ích. Hai vòng dây xích ôm chặt như cắn vào cổ chân, không một chỗ nào có thể đút lọt ngón tay út. Nó muốn phát khóc vì bất lực và căm tức.
Nếu hắn trói bằng các thứ dây khác, không phải dây xích, nhất định mình sẽ dùng răng cắn cho kỳ đứt! Nó nghĩ vậy và ao ước: chừ mình có phép chi hóa cho bàn chân nhỏ lại bằng cái que! Tau mà rút được chân ra thì tụi bay đừng có hòng bắt lại được tau!".
Tên lính ngáy phè phè trở mình xoay lưng lại phía nó.
Có một vật gì sáng lấp lánh trên cỏ. Chùm chìa khóa? Chắc lúc hắn trở mình, chùm chìa khóa đã rơi ra khỏi túi quần...
Hai mắt Lượm mở to, căng thẳng, đau đớn, tia nhìn như bị dính chặt vào những mẩu ngắn kim loại nằm đè dẹp mấy lá cỏ xanh tơ. Ôi, tia nhìn nó lúc này sao mà giống hệt một người đang khát cháy cổ nhìn ly nước để ở chỗ mà không có cách gì với lấy được. Nó nghiến răng, bặm môi, đáy mắt lóe ánh thù hận. Những giọt nước mắt cay đắng ứa ra, chảy tràn trên hai gò má.
Bỗng một vật gì trắng muốt, mềm nhẹ và thơm, úp chụp lên đầu nó, lút đến vai. Lượm giật mình, ngơ ngác, đưa tay lên định gở. Một chuỗi cười ròn tan non mướt, nghịch ngợm, cất lên ngay sau lưng nó. Tiếng reo của trẻ con bằng tiếng Pháp.
- Anh Giắc ơi! Con bướm này nó mới to làm sao!
Lượm không kịp gỡ cái vặt trắng muốt úp chụp trên đầu, quay lại. Miệng nó há ra. Sửng sốt. Trước mặt nó là một con bé con Tây khoảng năm sáu tuổi. Trời ơi nó mới xinh làm sao. Tóc nó màu vàng nhạt óng ánh như tơ, cuộn thành từng búp nhỏ xoăn xoăn quanh cổ. Ðôi mắt to xanh biếc hai hàng lông mi dài cong vút che rợp tia nhìn, hai má nó đỏ au, cái mũi cao hơi hếch, cái miệng nhỏ chum chúm như một nụ hồng- Nó mặc váy ngắn đỏ viền đăng- ten và cái áo ngắn tay màu hồng nhạt. Tay chân nó trông mũm mĩm, có ngấn, như nặn bằng bột. Nó cầm trong tay cái vợt bắt bướm may bằng vải màn tuyn và chính nó vừa úp vợt lên đầu Lượm. Con bé nhấc vợt ra khỏi đầu Lượm, cúi nhìn gần sát vào mắt Lượm. Cặp mất xanh biếc, lông mi dài và cong vừa dạn vừa tinh nghịch. Bất giác Lượm gật đầu, mỉm cười với nó và nói bằng tiếng Pháp:
- Chào em bé!
Thằng Giắc, anh con bé, đang mải mê đuổi rượt bướm phía gần cuối vườn. Nghe tiếng em gọi, nó vác vợt, chạy lại.
Nó trạc bảy, tám tuổi, gương mặt giống em gái như lột. Chỉ khác là tóc nó sẫm màu hơn và xoăn tít. Nó mặc áo may ô trắng, quần "soóc" xanh nước biển, ống quần bó chít đôi bắp đùi vạm vỡ.
Nó đứng sát bên em gái, chống cán vợt xuống đất, tò mò coi Lượm:
- Mày là ai thế?
- Là một thằng nhóc như hai đứa mày thôi.
- Mày ngồi ở đây làm gì?
- Tau ngồi chơi, tau ngắm cây, ngắm trời và ngắm chúng mày...
Con bé chợt nhìn xuống chân Lượm, bật kêu, giọng sợ hãi:
- Ôi? Chân nó bị trói kìa!
Thằng anh cúi nhìn cái dây xích với ổ khóa quanh chân Lượm quay lại nói với con em.
- Tao biết nó là ai rồi, Viết Min!
- Viết Min? - con em hỏi lại giọng không tin. - Sao em nghe nói bọn Viết Min dữ tợn như con yêu râu xanh kia mà?
- Tao biết đâu đấy - Thằng anh nhún vai trả lời. - Bọn Viết Min người ta cầm súng dẫn đến chỗ ba đều bị trói.
Nó đột ngột hỏi Lượm:
- Mày hay cắt cổ trẻ con lắm phải không? - Nó đưa bàn tay cứa cứa vào cổ nó ra hiệu.
- Ai bảo mày thế?
- Ba tao.
- Ba mày là ai?
- Ca-pi-ten Sô-lê. - Nó trả lời mặt vênh lên.
"A, té ra hai đứa bay là con thằng chánh mật thám Sô-lê. Cha bay vừa mới dụ tau nốc sữa ca cao với ăn bánh mì cặp chả, rồi chút nữa phải vô trả lời có đồng ý đi làm Việt gian hay không. Làm Việt gian sướng lắm, có ô tô, nhà lầu, lấy vợ đẹp. May mà tau chưa uống, chưa ăn". Lượm nghĩ vậy, và nhếch mép cười, mắt vẫn đăm đắm nhìn hai đứa con Tây. Và nó nhận ra nhiều nét Sô-lê trên gương mặt trẻ con của mỗi đứa: Thằng anh thì cặp môi mỏng dính, còn con em thì có vết lõm ở giữa cằm.
Lượm hỏi chúng giọng thân mật:
- Chúng mày có bắt được nhiều bướm đẹp không?
- Ở đằng kia nhiều bướm đẹp lắm, nhưng chúng bay nhanh quá. Thằng anh chỉ về phía cuối vườn trả lời vẻ mặt ỉu xìu.
Con em hỏi:
- Mày có biết bắt bướm không?
- Không những bắt bướm, tao còn bắt được cả châu chấu, cả chuồn chuồn, cả chim.
Ðúng lúc đó một con chuồn chuồn ớt từ đâu bay lại, đậu xuống một nhánh cỏ ngay phía trước mặt Lượm.
Con bé rụt đầu, lè lưỡi, gương mặt sáng bừng một vẻ vui thích khôn tả. Nó kêu lên khe khẽ, giọng nghẹn lại vì hồi hộp:
- Ôi! ôi! đẹp quá.. Ðẹp quá! Anh Giắc. Anh bắt đi...bắt đi, nó bay mất!... ôi?...
Thằng anh đưa cao cây vợt, nét mặt căng thẳng rón rén bước gần đến con chuồn chuồn, nhưng Lượm kịp đưa tay ngăn nó lại, giọng thì thào, hồi hộp không kém:
- Ðừng, đừng... mày làm nó bay mất! Ðể tao bắt giúp mày. Lượm nhón người, cố thật khẽ để dây xích trói chân không khua thành tiếng. Nó quỳ cái chân không bị xích lên cố vươn người về phía con chuồn chuồn cho thật vừa tầm tay... Ngay lúc đó một ý nghĩ rất mơ hồ lướt nhanh qua óc nó: "Tóm cổ được con chuồn chuồn đỏ như quả ớt chín này, mình sẽ có cơ rút chân ra khỏi dây xích". Không hiểu sao trống ngực nó đập mạnh đến nỗi nó phải đưa bàn tay trái lên ép chặt lấy lồng ngực. Nó chĩa ngón tay trỏ, quay tít trước mặt con chuồn chuồn, rồi bất thần xòe cả bàn tay chộp thật nhanh. Con chuồn chuồn đã nằm gọn trong bàn tay nó, đôi cánh mỏng như voan hồng rung lên thành tiếng tuyệt vọng. Thằng anh và con em vứt cả vợt bướm xuống cỏ nhảy lên, vỗ tay reo.
- Bravô! Ðược rồi! Bắt được rồi Mày bắt nó tài quá!
Lượm đưa bàn tay trái vuốt mồ hồi dầm dề trên mặt, lào thào nói:
- Suỵt! đừng làm ồn!
Bàn tay nó, cầm con chuồn chuồn rung lên như đang cầm một vật gì quá nặng. Nó trao con chuồn chuồn cho con em.
- Ðây, cho mày. Cầm vào cánh không nó bay mất.
Lượm quay sang nói với thằng anh:
Mày là anh, mày phải nhường nó. Nếu có một con khác bay đến tao sẽ bắt cho mày.
Thằng anh lúc này không còn nhớ gì đến chuyện Việt Minh cắt cổ trẻ con. Nó chỉ còn thán phục cái tài bắt chuồn chuồn bằng tay không của Lượm- Nó hỏi, cặp mắt xanh cười tít:
- Mày có bắt được chim không? Chim con trong tổ trên ngọn cây ấy mà. - Nó chỉ ngón tay lên cao ra hiệu:
- Tau còn bắt được cả chim mẹ nữa kia...
- Ðằng kia, trên cây rất cao có một tổ chim gì ấy. Ðứng dưới gốc tau nghe rõ tiếng chim con kêu: chiếp? chiếp? - Nó chúm đôi môi mỏng dính, đỏ chót, cố bắt chước tiếng chim non kêu. - Mày có bắt được không?
- Tau thừa sức.
- Cây ấy cao lắm.
- Cao bằng ba ngôi lầu này tau cũng trèo lên như chơi.
Con bé từ nãy đến giờ vẫn mải mê ngắm con chuồn chuồn bị kẹp chặt giữa hai ngón tay mũm mĩm, nó bước đến cầm vai áo Lượm lay lay:
- Mày đi bắt ngay đi! Bắt được, cho em một con anh Giắc nhé!
Lượm chỉ xuống cỏ chân bị xích:
- Nhưng chân tau bị trói, tau không đi được.
Thằng anh chỉ tên lính gác đang hỗ mồm ngáy như sấm:
- Có phải thằng kia trói mày không? Tao sẽ đến gọi nó dậy mở trói cho mày.
Lượm hốt hoảng đưa tay ngăn nó lại, nói gần như thì thầm:
- Ðừng! Ðừng? Ðừng đánh thức nó. Nó không mở đâu.
- Ồ, nó là thằng lính Mi-sen háu ăn đây mà. Ba tao vẫn tát nó luôn. Nó sợ tao lắm.
- Chẳng cần đánh thức nó... Nó sẽ không cho tao trèo cây bắt chim đâu... nó sợ tao ngã chết. Lượm cố moi óc bịa đặt cách giải thích cho thằng Tây con này tin là không nên đánh thức thằng lính gác. Lượm chỉ chùm chìa khóa nằm lấp lánh trên khóm cỏ vì có một đốm nắng dội vào, sát sau lưng tên lính.
- Mày chỉ cần lấy chùm chìa khóa kia lại đây cho tao, là tao tự mở trói được thôi.
Con em nhanh nhẩu đưa con chuồn chuồn cho thằng anh:
- Anh cầm giúp em. Ðể em lấy cho.
Lượm nhìn con bé, nói như hụt hơi:
- Nhưng phải đi thật khẽ, như lúc bắt bướm ấy. Ðừng để thằng Mi-sen háu ăn thức dậy, nó sẽ đòi lại chùm chìa khóa mất.
- Ðược! Ðược! Còn bé tinh nghịch gật gật đầu làm những búp tóc xoăn mềm như tơ, rung rinh quanh cái cổ trắng nõn nà.
Con bé cúi nhặt cái vợt bắt bướm, cúi lom khom, đi rón rén đến chỗ tên lính gác nằm ngủ. Vừa tầm tay, nó đưa vợt lên úp chụp chùm chìa khóa- Chùm chìa khóa đã nằm gọn trọng cái vợt, đáy vớt vải tuyệt trắng phủ lên trên- Nó quay lại rụt đầu lè lưỡi, nhìn Lượm và anh nó, hồi hộp đến như vậy mà cái vẻ trẻ con tinh nghịch, dễ thương của con bé làm cho Lượm phải mỉm cười. Lượm đưa ngón tay lên môi ra hiệu bảo nó im lặng, gật gật đầu tán thưởng, khuyến khích- Con bé nhắc vợt, đưa hai ngón tay bụ bẫm nhón chùm chìa khóa, rồi rón rén quay trở lại, trao cho Lượm.
Lượm phải trấn tĩnh và cố gắng lắm mới không vồ ngay lấy chùm chìa khóa trong tay con bé. Qua một lần vượt ngục thất bại, người chiến sĩ quân báo mười bốn tuổi này đã có ít nhiều kinh nghiệm. Lượm biết rằng đây là những giây phút quyết định sự thành bại. Chỉ một tí tẹo hấp tấp, thiếu suy tính là hỏng việc. Lượm ngửa bàn tay run run đón lấy chùm chìa khóa. Cái chất thép lạnh, nặng trĩu, như truyền qua máu mà thấm đến tận óc. Ôi, cái điều mà mười phút trước đây hầu như là chuyện hão huyền, viển vông, bây giờ đã nằm gọn trong lòng bàn tay nó. Toàn thân Lượm run lên, một cảm giác bồi hồi đến ớn lạnh.
Chùm chìa khóa hơn một chục chiếc, dài ngắn các cỡ, nhưng nó nhận ra ngay chiếc chìa khóa xích. Lúc nãy chỉ nhìn thoáng mà không hiểu sao cái chìa in vào trí nhớ nó như in lên sáp mềm. Lượm tra chìa vào khóa xoay một vòng. Tiếng khóa kêu đánh tách, nghe to và vang dội khác thường. Nó hốt hoảng đưa mắt nhìn về phía tên lính gác.
Hắn vẫn ngáy vang như sấm.
Rất thận trọng nó tháo hai vòng xích sắt ra khỏi chân.
Nó vịn gốc cây, lảo đảo đứng lên, nói với hai đứa bé, giọng dỗ dành:
- Chúng mày cứ đứng yên ở đây. Tao đến cây cao kia trèo lên, bắt được chim tao sẽ mang đến cho chúng mày ngay. Những con chim thật đẹp, mỏ đỏ, cánh xanh biếc.
Thằng anh ngắt lời:
- Tao muốn xem mày bắt chim.
- Không được! Nghe tiếng đông người, chim sợ sẽ bay hết... những con chim đẹp nó khôn lắm.
Nghe vậy hai đứa đành gật đầu đồng ý:
- Mày phải bắt nhanh lên nhé!
- Ừ! nhanh, rất nhanh... Không nhanh thì thất bại hoàn toàn.
24.
Lượm bước gần như chạy về phía cuối vườn. Nó ngoảnh lại hai ba lần để kiểm tra hai đứa bé và tên lính gác. Nó gật gật đầu khuyến khích hai đứa bé đứng yên, không được làm ồn. Nó đã đến gần sát hàng rào ngoảnh lại lần cuối cùng. Hai đứa bé đứng dựa vào nhau nhìn theo nó không chớp mắt. Nó đưa tay chỉ lên một ngọn cây cao. Thằng anh gật đầu. Nó vòng ra đằng sau thân cây làm như để trèo, nhưng lại cúi rạp người gần như bò, chạy nép ven hàng rào khoảng mười thước. Nó sợ nếu trèo qua rào ngay, hai đứa bé sẽ nhìn thấy, kêu lên, thằng lính gác tỉnh dậy, thế là đi đứt!
Tầm mắt hai đứa bé đã bị che khuất. Hàng rào sắt khá cao nhưng Lượm vốn là tay trèo leo điệu nghệ. Hai tay bíu cọc sắt, chân đạp vào tấm tôn, dùng toàn lực gân cốt đu lên nóc rào- Trước khi vọt ra ngoài, nó lia mắt kiểm tra con đường- Ðường vắng người. Xa xa tít phía cuối đường có mấy người đàn bà gồng gánh. Không chậm trễ một giây, nó trườn người qua kẽ hở giữa hai gióng sắt nhọn chỉ một loáng nó đã buông thả người từ trên hàng rào sắt xuống hè đường râm mát bóng cây. Nó cắm cổ chạy dọc theo lề đường, chân gần như không kịp bén đất.
Gặp một con đường rẽ, nó rẽ luôn. Con đường này có rất nhiều cây me, cây phượng, cây bút bút. Chỉ mười phút sau nó đã ngồi chóc ngóc trên một ngọn cây bút bút, giữa cái chạc ba. Nó ôm chặt một cành cây để thở. Hơi thở nó đứt quãng. Nó hoảng sợ: "E mình đứt hơi mà chết nốt". Đầu óc nó quay cuồng, cả ngọn cây như đang lắc lư, chao đảo ngả nghiêng muốn hất nhào nó xuống đất, "Tại mình đang chóng mặt" Nó thoáng nghĩ vậy và càng ôm riết cành cây. Một nỗi mệt nhọc khủng khiếp đổ ụp xuống người nó. Nó xỉu đi, không còn hay biết gì nữa. Nhưng hai tay nó vẫn ôm chết cành cây, không chịu ngả với bản năng kỳ lạ của sinh vật gan góc. Giống hệt loài chim gõ kiến, dù bị bắn chết, cũng đừng hòng chim buông rời cành cây đang bám.
Hai anh em thằng Giắc đứng ngong ngóng đợi đến mười lăm phút, không thấy thằng bắt chim trở lại. Chúng nóng ruột, cầm vợt chạy về phía Lượm vừa chạy, xem đã bắt được con chim nào chưa. Sao mà lâu thế! Chúng đi loanh quanh ngẩng nhìn lên các ngọn cây tìm kiếm. Không thấy bóng thằng bắt chim đâu cả! Hai đứa thi nhau gọi, không có tiếng trả lời. Thế là hai đứa bắt đầu sợ. Thằng anh khôn ngoan hơn, nó biết là anh em nó vừa làm một việc dại dột, có thể làm cho người lớn tức giận. Nó liền dặn con em phải giấu biệt chuyện lấy chùm chìa khóa đưa cho thằng bắt chim "Ba mà biết, ba sẽ phạt, không cho chúng mình đến vườn này chơi, bắt bướm nữa đâu!". Con em gật đầu ưng thuận. Hai đứa len lén đi vào nhà.
Ðã gần đến giờ làm việc, thằng "Mi-sen háu ăn" choàng tỉnh đậy, ngáp một tiếng thật to, cầm khẩu súng xách bao đạn và huýt lên như gọi chó. Nó bỗng đứng sững như chôn chân xuống đất, mắt trợn trừng, miệng há hốc: Thằng tù bé con đã biến mất! Hắn chạy nhào tới chỗ rễ cây xích Lượm. Sợi dây xích nằm trơ ngoằn ngoèo trên cỏ, cùng với cái khóa. Nó chợt nhớ, chộp tay túi quần. Chùm chìa khóa nặng trĩu cũng không cánh mà bay. Thật giống như chuyện ma quỷ vậy Hắn thoáng nghĩ: "Mình đe nó đừng cắn dây xích mà trốn lại hóa ra chuyện thật" Chỉ mấy phút sau, cả Sở mật thám Phòng nhì Pháp cũng giống như ty An ninh năm hôm trước, nhốn nháo hết lên vì cái tin Lượm trốn.
Tên quan ba Sô-lê ra chỗ Lượm vừa ngồi, xem xét sợi dây xích, cái khóa, rễ cây luồn dây xích, chỗ tên lính nằm ngủ... Nghe thằng lính "Mi-sen háu ăn" lắp bắp run rẩy báo cáo lại đầu đuôi sự việc, Sô-lê run lên vì tức giận. Cái mặt nạ đẹp trai lịch sự của hắn rớt xuống, nhường chỗ cho gương mặt nham hiểm, tàn bạo. Hắn gầm lên:
- Mày nói láo! Không thể như thế được! Hắn đạp ngã tên lính xuống cỏ, dùng mũi giày đen bóng đá tới tấp vào mặt, vào đầu phút chốc cả gương mặt với chòm râu dê của thằng "Mi-sen háu ăn" nhoe nhoét máu.
Ðúng là tên Sô-lê khó mà tin được thằng bé con Việt Minh ấy có thể vươn cánh tay ra dài đến hơn mười thước, móc chùm chìa khóa trong túi quần tên lính, mở khóa trốn đi. Hắn cho rằng tên lính đã phạm một sơ xuất nào đó, để thằng bé lấy cắp được chùm chìa khóa.
Hắn sai bọn văn phòng gọi điện thoại đến tất cả các trạm gác trong thành phố, tả kỹ hình đáng của Lượm. Hắn ra lệnh cho đội hiến binh túc trực cạnh sở mật thám, phóng mô tô dọc theo các đường phố lùng tìm Lượm. Hắn quát lên trong máy điện thoại.
- Phải bắt giữ tất cả những thằng bé khả nghi.
Suốt mấy tiếng đồng hồ cả lực lượng Sở mật thám Phòng nhì đổ xô lùng tìm, kiểm soát không sót một đường ngang ngõ tắt nào trong thành Huế. Nhưng vô hiệu! Chú bé tình báo Việt Minh đã biến mất khỏi thành phố như nhân vật trong cuốn tiểu thuyết- Người vô hình.
Quan ba Sô-lê hai tay thọc túi quần đi đi lại lại trong phòng làm việc, lồng lộn như con thú dữ bị mắc bẫy - Hắn đấm bàn rít lên: - Ðể cho một đứa con nít trốn thoát ngay tại "Ðơ-dèm buya-rô" thì thật là nhục nhã!
Chuông điện thoại tới tấp đổ, các cánh quân truy lùng tên "Việt Minh con nít" đều báo cáo về là nó đã lọt ra khỏi thành phố. Nhưng tên mật thám cáo già Sô-lê vẫn tin chắc là Lượm còn ẩn náu đâu đó trong thành phố.
Hắn gọi điện thoại đến Sở cảnh sát dã chiến, ra lệnh dắt ngay chó béc- giê trinh sát đến.
Và đó là một tình huống mà người chiến si vượt ngục mười bốn tuổi không kịp lường tới.
(Hết tập một)
P/S :B
Alert webmaster - Báo webmaster bài viết vi phạm nội quy
|
Trang nhat