bathua
member
ID 33918
12/12/2007
|
NGƯỜI TRUNG QUỐC XẤU XÍ ( 7 )
NGƯỜI TRUNG QUỐC XẤU XÍ
Phần II : Các Bài Viết
KỲ THỊ CHỦNG TỘC
Vốn là một thứ thâm thù huyết hận giữa các dân tộc, sự kỳ thị chủng tộc trên thế giới hiện nay đang trên đà được khắc phục bởi ư thức con người và sự phát triển của nhân quyền.
Nhưng đối với người Trung Quốc vốn thông minh tuyệt vời - vừa làm ra vẻ ta đây rất trịnh trọng, vừa tính toán rất chi ly, nhưng chung quy vẫn chỉ luẩn quẩn trong cái quan niệm khu vực đầy cảm tính của cái nước tương kia - th́ cách tốt nhất không ǵ hơn là tự than khóc cho số phận hẩm hiu của ḿnh. Người Trung Quốc cơ bản không có một tư cách ǵ để công kích và phê b́nh sự phân biệt chủng tộc của người Mỹ da trắng cả. Mà hiện nay nước Mỹ có lẽ là một trong những nước mà sự kỳ thị chủng tộc được xem là ít nhất trên thế giới.
Cứ nh́n thử chung quanh, nước lớn nước bé, nước mạnh nước yếu đếm không xuể, nhưng e rằng chỉ có nước Mỹ là nước c̣n tiếp tục chấp nhận người Trung Quốc nhiều nhất. Giả sử không có nước Mỹ th́ không hiểu tất cả những người Trung Quốc ngày đêm mơ tưởng như điên cuồng đến việc rời bỏ nước để di dân không biết sẽ đi đâu ?
Tôi nói như vậy không có nghĩa là người Mỹ da trắng không kỳ thị chủng tộc, hoặc không kỳ thị ǵ đối với người Trung Quốc.
Tôi chỉ muốn nói cái đầu óc kỳ thị nơi người Trung Quốc, so với kỳ thị chủng tộc, c̣n ở mức độ thấp kém hơn, v́ nó là đầu óc kỳ thị địa phương. ở bất cứ một nước nào đă đạt đến một nền văn minh cao, cái đầu óc kỳ thị địa phương này tự nhiên biến mất để nhường chỗ cho lợi ích của những đảng phái chính trị.
Có bao giờ anh nghe nói người Mỹ của tiểu bang Virginia tẩy chay người của tiểu bang Arizona chưa ? Hoặc người Nhật ở đảo Honshu (Bổn châu) tẩy chay người ở đảo Shikoku (Tứ Quốc) không ? Thế mà cái kỳ thị chủng tộc của người Trung Quốc so với cái kỳ thị của người Mỹ c̣n kinh khủng hơn nhiều.
Nếu ta đem kết hợp lại với nhau những ư niệm rất hẹp ḥi kiểu " Con cháu của Hoàng Đế và Thần Nông ", " Đại Hán oai trời ", " Không phải là tộc loại của chúng ta ", " Ḷng dạ khác chúng ta " th́ chỗ c̣n lại cho người các dân tộc khác sống sẽ chẳng c̣n ǵ !
Có một số người Trung Quốc ở Mỹ - địa vị xă hội cũng chẳng hơn ǵ những người Mỹ da đen nhưng lại xem những người này không đáng một đồng xu - hễ cứ nhắc người Mỹ da đen th́ lại lắc đầu lia lịa như bị động kinh. Cái hành vi khinh thị ấy có thể làm cho người ta tức mà chết được. Không ai có thể tưởng tượng nếu 11 % của dân Trung Quốc là da đen hoặc da đỏ th́ mấy ông da vàng kia sẽ sốt lên đến bao nhiêu độ ?
Người không cùng một tỉnh đă không thể chấp nhận, bao dung lẫn nhau rồi ! Đối với người không cùng một chủng tộc không biết sự thể sẽ như thế nào ?
Kỳ thị chủng tộc là một thứ quan niệm ghẻ lở, nó dai dẳng và lây lan. Nhưng cái đáng làm ta ngạc nhiên, kinh dị là phương pháp nước Mỹ dùng xử lư cái loại ghẻ lở đó. Phương pháp của họ có thể không giống Trung Quốc, v́ phương pháp Trung Quốc là : " Dấu bệnh v́ sợ phải chữa " (Húy tật kỵ y) và " Cái xấu trong nhà không thể để lộ ra ngoài " (Gia xú bất khả ngoại dương). Sự thực đó là nguyên tắc chứ không phải phương pháp.
Phương pháp " chân chính " là một đằng bị chảy máu ở hậu môn lại lấy tay che đít nói: " Không, tôi có bị bệnh trĩ hành hạ đâu? Ai bảo tôi có bệnh trĩ tức là có ư đồ hoặc có ḷng dạ ǵ đó ! " Có cái " ư đồ " ǵ đó là một vũ khí truyền thống toàn năng. Chỉ cần tung nó ra, niệm vài câu thần chú là đối phương phải vắt gị lên cổ mà chạy; đồng thời cái búi trĩ kia bỗng nhiên lành lại.
ồ! Xin lỗi! Tôi nhỡ mồm! Không phải cái búi trĩ kia bỗng nhiên lành mà tự nó đang ở t́nh trạng có bệnh bỗng nhiên biến thành t́nh trạng không có bệnh ǵ cả. Con gịi của hũ tương, cái con người dị dạng, chỉ biết che dấu bệnh của ḿnh chứ không muốn chữa nó.
Nước Mỹ là một xă hội lành mạnh, cường tráng đến độ nó có thể tự điều chỉnh ḿnh. Thay v́ lấy tay che đít th́ cái phản ứng của nó lại là nói toáng lên cho mọi người biết: " Tôi có bệnh trĩ đây! Mỗi ngày tôi bị chảy mất 8.000 ga-lông máu [gallon = khoảng hơn 4 lít]. Tôi muốn biết giá của một chiếc quan tài là bao nhiêu ? " Tất cả mọi người đều biết th́ mọi người đều ư thức rằng ḿnh có liên quan. Sau đó tiêm thuốc, uống thuốc, mổ xẻ, biến ghế gỗ thành ghế xô-pha, biến cái lưng c̣ng thành lưng thẳng để có thể đứng thẳng lên được .
Tất cả các phương tiện truyền thông hay văn học đều phải nói lên cái kỳ thị chủng tộc này, làm cho mọi người đều biết, làm cho mọi người đều sợ v́ thấy ḿnh có liên quan. Một xă hội lành mạnh phải dựa trên một tâm lư lành mạnh của người dân - người dân có trí tuệ biết tôn trọng sự thực, có dũng cảm thừa nhận những sai lầm, có năng lực tự sửa đổi .
Kỳ thị chủng tộc là một sai lầm. Đó là một sự thực không thể chối căi. Người Mỹ có được cái trí tuệ và dũng cảm t́m cách sửa đổi và giải quyết một cách thỏa đáng những lỗi lầm. Họ có khả năng lựa chọn những quyết định đúng đắn khiến cho sự kỳ thị chủng tộc dần dần bớt đi, và có thể một ngày nào đó không c̣n nữa .
- Trích từ " Dẫm lên đuôi nó " .
( Sưu Tầm )
_BatHua_
Alert webmaster - Báo webmaster bài viết vi phạm nội quy
|
|
bathua
member
REF: 268501
12/12/2007
|
NGƯỜI TRUNG QUỐC XẤU XÍ
Phần II : Các Bài Viết
LẤY HỔ THẸN LÀM VINH DỰ
Dưới sự ủy thác của Cục Giáo dục tỉnh Đài Bắc, Trường Đại học Sư phạm Công lập Đài Loan đă làm một cuộc điều tra xem ư kiến mọi người như thế nào về việc trừng phạt thân thể. Kết luận báo cáo cho biết : 91% thầy giáo, 85% gia trưởng, 80% học sinh đều cho rằng nếu không đưa đến việc đả thương th́ sự đánh đ̣n là một việc nên làm. Cuộc điều tra này cho thấy cả người đánh lẫn người bị đánh - như chuyện Châu Du và Hoàng Cái ở trận Xích Bích - hai bên cùng ưng thuận. Một bên ưng thuận đánh và một bên chấp nhận bị đánh.
Tại Đại hội thường niên của Hội Tâm lư học Trung Quốc và của Hội Tâm lư trắc nghiệm Trung Quốc vấn đề này cũng được đem ra thảo luận. Một số người dự Đại hội thuộc trường phái hiếu chiến đă dùng những lời lẽ khó hiểu để yêu cầu cải tạo các trường học thành những pḥng tra khảo thời cổ đại. Ngay cả bản thân Chủ tịch chính phủ Đài Loan, ông Lâm Dương Cảng - mà vận mệnh cuộc đời lại hoàn toàn trái ngược với đời của Bá Dương tôi - đă tuyên bố với Quốc hội Đài Loan rằng lúc nhỏ sở dĩ ông đă học hành được v́ bị thày giáo đánh cho đau đến nỗi phải kêu trời. Ông Lưu Gia Dục, giáo sư Viện Y học quốc lập Dương Minh c̣n đưa ra kiến nghị với Bộ Giáo dục là đối với học sinh có thể dùng những h́nh phạt thân thể " thích đáng ".
Nhưng sự đóng góp hay ho nhất phải là của bà Dương Thục Huệ, phóng viên tờ " Tự lập Văn báo " trên một mục đặc biệt nhan đề: " Yêu ư? Đánh ư? ". Bà đề nghị : quan trọng nhất là làm sao vận dụng cho thích đáng, chỉ cần sao cho trẻ con đừng bị lầm lạc, Cục Giáo dục không cần quy định một cách quá " cứng nhắc ". Trong bài báo của bà ta có một đoạn đáng để lại cho hậu thế như sau :
" Một ông giáo nọ ở một trường Trung học công nổi tiếng tại Đài Bắc có " cái roi để đánh học tṛ " và cái " tài dạy học " cùng nổi tiếng như nhau. Ngay hôm đầu tiên bắt đầu dạy học, ông treo lên tường bao nhiêu là roi mây (chẳng khác nào một gian pḥng dùng để tra khảo người thời xưa -BD). Sau đó giao hẹn với học tṛ : " Cứ mỗi một thành tích dưới tiêu chuẩn mấy điểm là đánh mấy roi ". Kết quả là tất cả học sinh của lớp ông này đều đạt thành tích rất tốt (và tỷ lệ lên lớp cũng rất cao). Cái tên của ông toàn trường ai cũng biết (Nếu ông ta treo trong lớp những thanh kiếm th́ không chừng tiếng tăm của ông ta có thể bay đến cả Luân Đôn nữa - BD). Tất cả học sinh đều xin được vào lớp của ông (Phải có một con số rơ ràng ở đây chứ không thể nói chung chung được - BD). Rất nhiều học tṛ sau khi đă tốt nghiệp rồi c̣n tiếc những lúc " xếp hàng để được đánh tay " (những cô cậu vừa qua những đợt thi tàn nhẫn để vào trường xong có lẽ c̣n có cái t́nh cảm này, chứ về sau tôi e rằng làm ǵ c̣n chuyện đó - BD). Như vậy để thấy rằng vấn đề không phải ở chỗ sự trừng phạt thân thể có cần thiết không (Đối với những thầy giáo muốn nổi tiếng e rằng việc này mười phần quan trọng - BD), nhưng ở chỗ ư nghĩa mà sự trừng phạt thể xác có thể đem lại được. "
Cái đoạn văn này (của bà Dương Thục Huệ) là một trong những sản phẩm văn hóa đặc biệt của cái hũ tương.
Thật ra, cái loại sản phẩm này đă xuất hiện trên thị trường từ thời Tống vào năm 1068. Thời ấy, hoàng đế c̣n nhỏ lúc học nghe thầy giáo giảng bài th́ ngồi, thầy giáo th́ lại đứng bên cạnh như học tṛ.
Thừa tướng kiêm thầy giáo của gia đ́nh là Vương An Thạch v́ tôn sư trọng đạo mới đề nghị cho phép thầy giáo cũng được ngồi.
Tin tức của đề nghị này truyền ra, cái vại tương kia liền bắt đầu sủi bọt. Một trong những đại thần kiểu gịi bọ tương dầu là Lữ Hối bèn kêu toáng lên như bị dẫm lên đuôi, và đằng đằng sát khí kết tội :
- " Vương An Thạch vọng tưởng ngồi cạnh vua khi giảng bài cho vua, muốn xóa bỏ cả cái tôn nghiêm của hoàng đế để đưa cái tôn nghiêm của thầy học hoàng gia lên. Quả là họ Vương không biết ǵ về sự ḥa thuận trên-dưới, mà cũng không biết ǵ về sự phân biệt vua-tôi ! "
Ôi thôi ! Ngay từ thời cổ cũng đă có những ông giáo lấy làm vinh dự được đứng bên cạnh hoàng đế như thế. Chẳng trách thời nay, cũng có học sinh " xếp hàng để được khỏ tay " và lấy đó làm vinh dự.
Tôi lại nhớ đến năm 1910 - vào những ngày mới thành lập nước Trung Quốc Dân Quốc - có một lăo già người Măn Thanh bảo hoàng chạy đến trước huyện đường, tụt quần ra sai gia nhân đánh ḿnh một trận bằng roi. Sau đó, dường như thấy người đă nhẹ nhơm, bèn bảo: " Sướng quá! Sướng quá! Đă lâu không được thưởng thức cái mùi vị này ! " Kiểu biểu diễn này so với việc thích được quất vào tay c̣n tiến xa hơn một bậc.
Chuyện khó hiểu là : tại sao cái đầu óc nô lệ ở Trung Quốc vẫn không thể chấm dứt được ? Mặc dù trong văn hóa Trung Quốc có một số truyền thống rất ư tàn khốc như bó chân đàn bà, thiến đàn ông, và nhục h́nh bây giờ đều đă bị băi bỏỷ.
Bộ Giáo dục nghiêm cấm h́nh phạt thân thể, đó là một trong những quyết định rất đúng đắn. Không tưởng tượng được vào những năm 80 của thế kỷ XX này mà c̣n có người muốn đặt lại vấn đề. Vấn đề ở đây đáng lẽ phải là đối với điều hổ thẹn phải biết hổ thẹn, chỉ có những kẻ mà đầu óc nô lệ đă thâm căn cố đế mới có thể có được cái tài là lấy điều hổ thẹn làm vinh dự.
Mối nguy cơ đích thực của dân tộc Trung Quốc vẫn là có những quái thai như Lữ Hối, như những đứa học tṛ " thích xếp hàng để được đánh tay ". Nếu những chuyện nhục nhă như thế lại trở thành vinh dự th́ trên thế giới này chắc chẳng c̣n chuyện ǵ để lấy làm vinh dự nữa.
Những kẻ thích bị sỉ nhục th́ hoặc bị mất cảm tính của con người, hoặc tỏ ra không biết; hoặc không quan tâm đến nó; hoặc để trốn tránh trách nhiệm hay có thâm ư ǵ khác; hoặc chỉ đơn giản v́ họ là những kẻ trời sinh ra để làm nô lệ; hoặc đă là nô lệ từ trong bào thai rồi.
Những người chủ trương đánh đ̣n nhấn mạnh : " thương cho roi cho vọt ". Ôi ! T́nh thương ơi ! V́ ngươi mà con người đă phạm biết bao nhiêu tội lỗi mỗi ngày.
Bố mẹ v́ thương mà bó chân con gái ḿnh; nghĩ rằng trong tương lai nó sẽ dễ lấy chồng. Đó cũng là t́nh thương vậy. " Vua cha " đối với tiện dân th́ đánh cho thịt nát xương tan, bởi v́ " h́nh kỳ vô h́nh " (trong thời gian giam giữ th́ không được đánh), đó cũng là t́nh thương dân như con đỏ.
Cứ thử hỏi một câu: - Thầy giáo đối với học tṛ, đánh một roi, đó là t́nh thương? Đánh 10 roi, 100 roi cũng vẫn là t́nh thương ư ? Trên báo đăng chuyện thầy giáo đánh ba bạt tai làm cho học tṛ bị chấn thương sọ năo rồi cũng nhất quyết bảo đó là v́ ḿnh thương nó.
Làm sao phân định được ranh giới đây ? Làm sao biết được cái hàm ư của nó đúng hay sai ? Trong nền giáo dục bằng t́nh thương làm ǵ có tiết mục " Tu lư học " (đánh đập học tṛ)? C̣n nếu nói đến " thích đáng " th́ thế nào là " thích đáng? " Ai định được tiêu chuẩn ? Và làm sao biết
được cái nào là hợp tiêu chuẩn ?
- " Chỉ cốt không gây thành thương tích là được! ".
Đó là tiêu chuẩn ư ?
Trên thực tế, bất cứ một sự trừng phạt thân thể nào cũng đều để lại thương tích. Giống như bảo : " Cứ đút tay vào ḷ lửa, càng lâu càng tốt, chưa thấy thương tích th́ chưa cần rút ra ". Cái ư nghĩa này nghe chừng cũng thảm năo chẳng khác nào âm thanh của một bánh xe x́ hơi. Bất cứ ai lúc sắp bắt đầu ra tay đánh th́ các thớ thịt đều gồng lên, tṛng mắt long lên. Chỉ nội cái dáng điệu khủng khiếp này - thần thái và ánh mắt hung ác - dù chưa đánh thật cũng đă có thể làm cho người sắp bị đánh tổn thương rồi.
Cứ như đứa học tṛ đứng trước quyền uy tuyệt đối của người thầy, hoặc đứa con trước uy quyền tuyệt đối của ông bố, khi người bố dơ tay lên dọa đánh, đều đă cảm thấy ḿnh bị hạ nhục như thế nào. Rơ ràng chẳng có t́nh thương ǵ ở đó cả ! Chỉ có cái mầm mống của sự hận thù từ cả đôi bên, bởi v́ đó là một thứ lăng nhục đối với nhân cách.
Đến lúc nào học tṛ không c̣n thích xếp hàng để được đánh tay nữa, lúc ấy các em mới có thể xóa bỏ được mặc cảm bị sỉ nhục, và lúc ấy sự trừng phạt thể xác mới không c̣n có ư nghĩa " tốt đẹp " nữa.
Nếu những trẻ em không làm nổi các bài thi lại phải chịu những sự trấn áp, bạo lực th́ ḷng tự trọng bẩm sinh của trẻ con, cái linh tính và trí tưởng tượng rất đáng quư của chúng e rằng sẽ bị tiêu tan mất.
Có đến 29% thầy giáo, sau khi Bộ Giáo dục nghiêm cấm đánh đ̣n học tṛ, đă cảm thấy " ḷng lạnh như tro tàn, chẳng c̣n muốn dạy học nữa ". Những con người văn hóa theo nghề gọi là " gơ đầu trẻ " này nếu không được phép thi triển cái thủ đoạn đánh đ̣n học tṛ quỷ khốc thần sầu th́ họ cảm thấy đành phải thúc thủ, không c̣n cách nào khác. Như vậy Bộ Giáo dục có lẽ tốt hơn nên mời họ cuốn gói ra khỏi trường và giới thiệu họ đến làm gác cửa cho các ṣng bạc.
Bá Dương không đủ sức để phản đối 91%, 85%, cả đến 80% những người đồng ư việc đánh đ̣n. Nhưng tôi đây có thể hướng về những người học tṛ bị sỉ nhục, đề nghị một bí quyết như sau : Nếu họ đánh các em, tuy các em không thể đánh lại được ngay bây giờ, nhưng khi lớn lên như một người trưởng thành, th́ phải quyết tâm trả mối thù đó. Mười năm chưa có ǵ là muộn cả. Có những phần tử rất hiếu chiến có thể mắng các em: " Tôi cứ đánh đấy! Mười năm sau rồi ta nói chuyện! " Đối với cái loại rắn vườn này, các em vĩnh viễn đừng bao giờ quên chúng, hăy cứ thật t́nh hẹn chúng mười năm sau.
Nhưng đây chưa phải là ư chính của tôi.
Cái ư nghĩa chính, khiến ḷng tôi thật đau xót, là : qua lần điều tra này (của Trường Đại học Sư phạm công lập Đài Loan) số người thích đánh đ̣n và những người thích bị đánh đă chiếm một tỷ lệ quá cao.
Phàm mục đích của giáo dục là bồi dưỡng cái tôn nghiêm và vinh dự của nhân tính. Thế mà ngược lại, hôm nay mọi người đều đồng ư rằng : mục đích của giáo dục là tiêu diệt cái tôn nghiêm và vinh dự của nhân tính đó.
Có thể nói đây là một trong những x́-căng-đan lớn của thế kỷ XX và của vấn đề giáo dục. Điều đó chứng tỏ cái vại tương này không những rất sâu mà tương lại c̣n đặc nữa. Cho dù bây giờ chính phủ có xuất đầu lộ diện giúp đỡ đi nữa th́ một số người cũng khó ḷng sửa đổi được .
V́ thế chúng ta có thể nói rằng : cái nền giáo dục của chúng ta quá ư là dị h́nh, đă đến chỗ đi ngược lại thiên chức của nó .
Càng nghĩ đến tôi lại càng thấy lạnh xương sống .
- Trích từ " Dẫm lên đuôi nó " .
( Sưu Tầm )
_BatHua_
|
|
bathua
member
REF: 268514
12/12/2007
|
NGƯỜI TRUNG QUỐC XẤU XÍ
Phần II : Các Bài Viết
CÁI VẠI TƯƠNG
Một Biểu Tượng Của Căn Bệnh Văn Hóa Trung Quốc
Khiêu Lập Dân
Trong " Thất thập niên đại Tạp chí ", Hồng Kông, ngày 12-11-1973 .
Phàm người Trung Quốc nào c̣n quan tâm đến tiền đồ tổ quốc đều có thể nghĩ đến một vấn đề căn bản sau đây : tại sao Trung Quốc (từ 1842 đến 1949) lại yếu thế ? Mỹ, Nhật tại sao lại mạnh thế ?
Diện tích của Trung Quốc rất lớn (đứng thứ nh́ trên thế giới chỉ sau Liên-xô), người lại rất đông (vào bậc nhất thế giới), tài nguyên tương đối phong phú. Thêm vào đó, lại có một nền văn hóa mà một số người tự hào là lâu đời tới 5.000 năm. Đáng lư Trung Quốc phải là một quốc gia vào hạng mạnh nhất thế giới mới đúng. Nhưng sự thực lại không phải như vậy. Từ Chiến tranh Nha phiến (1840), bị các cường quốc liên tục đến xâu xé, Trung Quốc phải cắt đất bồi thường, chỉ tư nữa là đă bị phân chia.
Đối với câu hỏi trên, chỉ có hai cách trả lời :
Thứ nhất : Đầu óc và sức lực của người Trung Quốc tồi quá.
Thứ hai : Cái văn hóa truyền thống của Trung Quốc có vấn đề.
Đối với cái khả năng thứ nhất, có hai cách giải thích không giống nhau. Cách thứ nhất là: đầu óc, sức lực người Trung Quốc tồi quá. Có lẽ họ chỉ khá hơn rợ Hung-nô, Đột-quyết và người da đen ở Phi Châu ngày hôm nay (chứ không phải ngày mai), nhưng chắc chắn là thua người Mỹ, Anh, Pháp, Nga, Nhật.
Cách giải thích thứ hai : trí lực của tổ tiên người Trung Quốc rất khá, ít nhất cũng tài giỏi ở mức độ huy hoàng của những đời Hán, Đường. Nhưng bất hạnh thay, cái trí lực ấy càng ngày càng kiệt quệ, đời sau không bằng đời trước, sau vài trăm năm đă biến thành một dân tộc của những thằng ngu.
Giả sử đúng là trí lực của chúng ta quá tồi, chúng ta phải chấp nhận nó như thế thôi. Nhưng ai đă dậy chúng ta không biết tự ḿnh phấn đấu nhỉ ? Căn cứ trên " Định luật sinh tồn - mạnh được yếu thua " th́ một đất nước bị biến thành cái loại " thuộc địa hạng bét " như thế bởi v́ nó xứng đáng như thế. Nếu nói ngược lại, giả sử không phải v́ trí lực của chúng ta có vấn đề, nhưng v́ cái văn hóa của chúng ta có vấn đề, th́ tiền đồ của chúng ta c̣n có thể khá được, nhưng chúng ta phải biết tự sửa ḿnh, can đảm vứt cái gánh nặng văn hóa ấy đi mới được.
Chúng ta vừa nói qua khả năng thứ nhất (trí lực có vấn đề), đó là một khả năng trên mặt lư luận, nhưng không tồn tại trong thực tế. Bởi v́ không có một người Trung Quốc nào thừa nhận rằng trí lực của dân tộc Trung Quốc chúng ta lại thấp kém. Đấy không phải là một vấn đề cảm tính hoặc v́ muốn tự thổi phồng ḿnh lên, nhưng một vấn đề trên mặt lư luận có chứng cớ, không thể phủ nhận.
Những chứng cớ này là ǵ ?
Ta có thể nh́n thấy trong hai sự kiện sau :
1- Phần đóng góp của người Hoa vào công cuộc phát triển kinh tế ở Đông-Nam-á.
2- Những thành tựu về học thuật của người Hoa tại Mỹ, những thành quả này làm cho người da trắng vốn đầy tự tôn mặc cảm cũng phải thừa nhận rằng trí tuệ cá nhân người Hoa cao. Nhưng họ cũng biết người Hoa không đoàn kết, không hợp tác với nhau, chống đối nhau một cách kịch liệt và không phát huy được sức mạnh tập đoàn.
Ông Bá Dương trong tập " Đến chết không nhận lỗi " đă đưa ra một cách giải thích tuyệt vời về vấn đề của người Hoa chúng ta :
Một người đến thỉnh giáo một vị cao tăng, hỏi về kiếp trước và kiếp sau của ḿnh. Vị cao tăng đáp bằng mấy câu thơ sau :
Muốn biết kiếp trước thế nào
Cứ xem ḿnh sống ra sao kiếp này
Đầu thai rồi thế nào đây
Hăy nh́n vào việc hiện nay đang làm
[Dục tri tiền thế nhân
Kim sinh thụ giả thị
Dục tri hậu thế quả
Kim sinh tác giả thị ]
Bá Dương lại c̣n than rằng : " Mấy câu danh ngôn này làm cho tôi liên tưởng đến cái văn hóa 5.000 năm của chúng ta ". Muốn biết cái văn hóa này tốt hay xấu, không phải cứ vùi đầu vào nghiên cứu cái đống giấy cũ, mà phải mở to mắt nh́n những tội nợ mà chúng ta đang phải chịu hôm nay th́ may ra mới rơ được.
Vấn đề th́ rơ ràng có rồi, mà cũng có thể nói rằng đó là vấn đề văn hóa. Vậy phải đi thêm một bước nữa để t́m cách phân tích nó.
Ông Tôn Quang Hán, một người rất ngưỡng mộ ông Bá Dương, trong bài " Hoàn cảnh và đất đai " có viết:
" Nguyên nhân tại sao Trung Quốc không thể xây dựng được một quốc gia cường thịnh ? Đó không phải vấn đề bẩm sinh, nhưng một vấn đề sau khi sinh. Nếu dùng ngôn ngữ của người làm ruộng để nói th́ đó không phải là vấn đề " giống " mà là vấn đề " đất ".
Đối với thực vật, đất là thổ nhưỡng, thủy phân, không khí, ánh sáng mặt trời, v.v...; đối với một dân tộc, đất là hoàn cảnh, tập tục của nhân tính nói chung.
Cho đến nay thực sự chúng ta chưa sinh sản được những loại cây tốt. Nguyên nhân, nếu không do hạt giống, th́ nhất định phải v́ đất đai, hoàn cảnh, có ǵ đó không thích hợp cho những giống cây này sinh trưởng.
Trong văn hóa và tập tục 5.000 năm của Trung Quốc, ngoài phần tốt ra cũng có phần xấu. Phần xấu này là mảnh đất nơi hạt giống kia không thể lớn lên được. Cái phần văn hóa, tập tục rộng lớn, xấu xa này đúng như ông Bá Dương gọi một cách đơn giản và tóm lược là cái " vại tương ".
Tôi thấy Lỗ Tấn tiên sinh đă sáng tạo ra cái " A Q ", Lư Tông Ngô tiên sinh lại sáng tạo ra cái " Hậu hắc ", sau đó Bá Dương tiên sinh c̣n sáng tạo ra cái " hũ tương ", ba thứ này đều chí lư cả, chẳng khác nào ba chân của một cái đỉnh.
Nếu nói " A Q " đă vạch trần " nhân tính " của người Trung Quốc, " Hậu hắc " đă tố giác cái " quan tính " của người Trung Quốc, th́ " Hũ tương " tựa hồ như gốc gác của hai thứ trên. Tại sao có " A Q "? Chính do cái " Hũ tương " mà ra!
Thế th́ cái " Hũ tương " đây là ǵ, và có ǵ ở trong đó ? Định nghĩa của ông Bá Dương như sau :
" Một xă hội hỗn độn bị sâu ruỗng và tù hăm, lại bị loại chính trị nô tài thao túng, đạo đức què quặt, nhân sinh quan cá nhân, đồng tiền và thế lực làm vua. Một xă hội như thế làm cho linh tính con người chỉ có xơ cứng và tiêu tan đi thôi ".
Ông Bá Dương c̣n nói tất cả các thứ trong hũ tương ấy lại đẻ ra những hiện tượng khác như : " sự sùng bái quyền thế một cách mù quáng ", " tính ích kỷ chắc như gông cùm ", " ngôn ngữ bịp bợm ", " mê đắm những xác chết ", " bất hợp tác ", " tàn nhẫn và đố kỵ một cách lạnh lùng, trắng trợn ", " làm phách và ngớ ngẩn ".
Trước khi nói về những sản phẩm của hũ tương, tôi xin được nói thêm vài câu, v́ một khi tràng giang đại hải về hũ tương rồi sợ không thể quay trở lại được nữa.
Một số người yêu nước nghĩ rằng Trung Quốc phải giầu mạnh. Không ai có thể phủ nhận điều đó. Nhưng làm thế nào để giàu mạnh mới là vấn đề. Chẳng lẽ cứ phô trương cái sẹo của tổ tiên ra? Cứ trách cứ tổ tiên phỏng có ích ǵ? Chẳng lẽ cứ trách cứ tổ tiên cho đă đời, rồi th́ quốc gia sẽ giầu mạnh lên chăng ?
Tôi cho rằng làm như thế không phải là thượng sách. Dân tộc Trung Quốc là một dân tộc bị " bệnh ", năm tháng càng dài th́ bệnh càng nặng.
Cái bệnh này bắt nguồn từ thời Hán Vũ Đế sùng đạo Nho, lại càng bị nặng thêm với những thứ kỳ quặc như khoa cử, như Lư học thời Minh, Tống, làm cho dân tộc Trung Quốc hầu như bị tiêu tan hết linh tính, chỉ c̣n thoi thóp sống mà thôi.
Những đối thủ ngày trước như Hung - Nô, Đột - Quyết, Khiết - Đan, Tây - Hạ thực ra có một nền tảng văn hóa quá thấp, nên không tránh khỏi bị Hán hóa. Ngay cả sau này Mông Cổ và Măn Thanh chỉ chinh phục được chúng ta trên mặt vơ lực, c̣n trên mặt văn hóa lại bị chúng ta chinh phục lại. Những chiến thắng về văn hóa này làm cho chúng ta vốn mắc bệnh mà không hề biết.
Cho đến khi nhà Thanh bị ép buộc phải mở cửa cho Tây phương chúng ta mới gặp phải đối thủ lợi hại mà chúng ta chưa bao giờ gặp trước kia. Lúc đó, cái trạng thái bệnh tật nọ mới bị lộ tẩy ra ngoài.
Một dân tộc mắc " bệnh " cũng giống như một cá nhân, nếu không chữa cho hết bệnh th́ không có cách nào khá lên được. Dù dân chủ, dù khoa học, mà ngay cả đến những thứ thuốc bổ nhất thiên hạ cũng chẳng có ích ǵ cho một người bị bệnh đường ruột và dạ dày quá nặng.
Muốn chữa được bệnh trước hết phải t́m cho ra " căn bệnh ". Không thể v́ sợ thuốc hoặc sợ đau mà giấu bệnh được. Nếu cần, dẫu phải cưa tay cưa chân cũng kiên quyết làm, dù phải cắt bỏ dạ dày, thay thận cũng không tiếc. Cần phải có cái dũng khí như thế mới có khả năng cải tử hoàn sinh được. Vấn đề cốt lơi ở đây là phải khiêm tốn kiểm thảo căn bệnh văn hóa lâu đời này.
" Căn bệnh " này của dân tộc Trung Quốc xét cho cùng là ǵ ? Lỗ Tấn, Lư Tông Ngô, Bá Dương,... trước sau đều đă chỉ rơ. Nhưng " thuốc thang " thế nào cho khỏi ? Vấn đề trị bệnh này c̣n lớn hơn việc nêu rơ tên bệnh, song cơ hồ các vị đó chưa thấy ai đề cập đến cho chúng ta. Nhưng nếu suy nghĩ kỹ ta có thể thấy cái " ư tại ngôn ngoại " của họ. Dường như trước tiên họ muốn chúng ta cùng tham khảo để thấy rơ từng chứng bệnh một, liệt kê ra từng nguyên nhân của căn bệnh. Để rồi sau đó người Trung Quốc - những ai c̣n biết suy nghĩ - từng người một nh́n vào những bệnh chứng này mà suy xét, cái nào xấu th́ bỏ đi, cái nào không xấu th́ giữ lại.
Nếu những người có ḷng này càng ngày nhiều, " cái bỏ đi " và " cái giữ lại " càng ngày càng lớn. Như thế, tất chẳng mấy chốc cái bệnh lâu đời đó của dân tộc Trung Quốc sẽ không thuốc mà tự lành. Cái này có lẽ sẽ dính dáng đến vấn đề " biết dễ, làm khó " hoặc " biết khó, làm dễ " mà ở đây chúng ta không bàn đến.
Trong bài " Đến chết không nhận lỗi " (ở tập " Đập vỡ hũ tương ") có đoạn như sau:
" Có kẻ cho rằng người Trung Quốc bản thân không xứng đáng, cho nên mới để cho nước nhà ra nông nỗi này. Không những không biết tự trách móc ḿnh, mà trái lại, họ c̣n tức tối, đi trách cứ tổ tiên cái này không đúng, cái nọ không đúng, làm họ phải chịu hậu quả. Thay v́ xây dựng một giang sơn tốt đẹp để họ được hưởng phúc lộc th́ tổ tiên để lại cho họ một đất nước như thế ".
Đối với cách nói ấy, ông Bá Dương đă trả lời :
" Điều này chả khác chuyện cha với con. Nếu con khá giả, thông minh linh lợi,học qua được đại học, thế mà đời lại hỏng th́ đương nhiên không thể trách cứ được bố nó ; mà nó chỉ có thể tự trách ḿnh không xứng đáng. Nhưng nếu như đứa con từ khi sinh ra đă bị vi trùng lậu làm cho hỏng mắt, lại bị di truyền làm cho dở điên dở khùng, ngớ ngớ ngẩn ngẩn, lang thang đầu đường xó chợ xin ăn kiếm sống th́ cái trách nhiệm của nó quá nhỏ. Nếu nó có mở mồm trách bố nó tại sao lại mắc bệnh phong t́nh, trách mẹ nó v́ sao không chữa khỏi bệnh đi, th́ chúng ta cũng không thể nhẫn tâm bắt nó im mồm được ".
Các sản phẩm của cái hũ tương mà ông Bá Dương đă nói đương nhiên không nhất thiết cái nào cũng hoàn toàn đúng, nhưng ít nhất cũng có một phần không sai. Văn chương ông Bá Dương xưa nay vốn mạch lạc phân minh, chỉ tiếc lúc nói về những sản phẩm hũ tương, hành văn lại hơi lộn xộn, có lúc lung tung lạc đề. Lúc th́ vụt một cái lộn trở lại, lúc vụt một cái lại phóng đi.
Chúng tôi xin trích một phần giới thiệu nhỏ dưới đây - đă qua một lần chỉnh lại theo nguyên tắc giữ đúng nguyên ư tác giả - để người đọc đối chiếu với nguyên văn làm bằng chứng :
Sản phẩm đầu tiên của hũ tương là sự sùng bái quyền thế một cách điên cuồng. ở Trung Quốc thời cổ, người có quyền thế tối cao là Hoàng đế. Đối với ông ta những nguyên tắc luân lư đều vô nghĩa. Thân thuộc nhánh bên (không phải trực hệ) ở trước mặt Hoàng đế bất quá chỉ là " thần ", là " nô tài ", (Ví phỏng Hoàng đế đă được tấn phong, cho dù là bố mẹ cũng không được là ngoại lệ). Đối với cái thứ tính cách oái oăm trái với luân lư này (quan tính lớn hơn nhân tính), một loại đạo đức dị h́nh, không những không ai phản đối mà c̣n cho là ư trời, nghĩa đất.
Về mặt hoang dâm trong đời sống cung đ́nh th́ những Hoàng đế Tây phương c̣n phải kém xa. Chưa cần bàn đến cái " Ba ngh́n người đẹp trong hậu cung " của thời Đường, ngay thời Chu vương triều, thiên tử có thể có tới 121 bà vợ một cách hợp pháp.
Theo " Nội tắc " trong " Lễ kư " chỉ để sắp xếp cho chu tất chương tŕnh hàng ngày của cái việc " điên loan đảo phụng ", sao cho cả hơn trăm bà đều được thấm đượm ơn mưa móc của nhà vua cũng đă là một điều khổ tâm rồi; chưa kể những chuyện ghen tuông tranh giành giữa các bà.
Tất cả các ông thánh đối với mấy việc này không những không phản đối, mà họ c̣n biến các loại " dâm đồ " này thành thiên tử thánh thần, biến cái kiểu " chơi loạn chơi tạp " này thành ra phép tắc chính thức của quốc gia, xă hội. V́ vậy Bá Dương cho rằng :
Thánh nhân không những chỉ hùa theo mà c̣n là đầu sỏ, cùng phạm tội với những kẻ có quyền và bọn dâm đồ. Quyền lực nào khác xăng dầu, thánh nhân không những không t́m cách đề pḥng sự dễ cháy của nó mà lại c̣n châm lửa th́ khi nó bốc lên làm sao mà dập được ?
Bá Dương cho là quyền lực của Hoàng đế Tây phương luôn luôn bị thành phần trí thức giới hạn, giám sát. Nhưng ở Trung Quốc th́ các ông thánh lại v́ phe nắm quyền mà phát minh ra thứ triết học kỳ quặc kiểu như sau :
" Khắp dưới gầm trời không có chỗ nào không là đất của nhà vua. Tất cả các kẻ sĩ trong thiên hạ có kẻ nào mà không phải là tôi của nhà vua ". Th́ ra, sinh mạng tài sản của nhân dân đều do cái tên " đại dâm đồ " đó ban cho. Chẳng trách cái thằng chơi gái thứ dữ đó cứ muốn làm ǵ th́ làm.
Khi sự tôn sùng quyền thế là nền tảng của 5.000 năm văn hóa truyền thống th́ cái quan hệ giữa người và người chỉ có sự " kính và sợ ", c̣n sự " thương yêu " th́ không đáng kể. Cái gọi là " nhân " chỉ là thứ t́m thấy trong sách vở, khó mà gặp được trong hành động. Vả lại, chữ " nhân " này tựa hồ không có tính cách b́nh đẳng của hai bên cùng được lợi.
Sùng bái quyền thế một cách tuyệt đối đưa đến một nền chính trị nô tài và cái đạo đức dị h́nh, không c̣n tiêu chuẩn về thị phi, chỉ c̣n cái tiêu chuẩn vụ lợi bất kể phải trái. Chỉ c̣n một con đường là tiền tài, phú quư, công danh. Mọi người đều phải gọt đầu cho nhọn để liều mạng chui vào chỗ quan trường. Chỉ cần tôi có thể làm quan th́ bắt tôi làm ǵ tôi cũng làm.
Như Đào Uyên Minh - không v́ năm hộc thóc mà uốn cong lưng - th́ có được mấy người ?
" Mười năm tân khổ " chẳng v́ nghiên cứu phát minh, chẳng v́ viết sách lập thuyết, chẳng v́ bôn ba cách mạng, mà chỉ v́ " một ngày thành danh ". " Thành danh " ở đây có nghĩa là làm quan vậy.
Xưa nay, việc làm quan hấp dẫn người ta như điên cuồng cũng bởi v́:
1- Có quyền trong tay, dù ở cấp bực nào (tùy quan lớn nhỏ) cũng muốn ǵ được nấy.
2- Được mọi người sùng bái.
3- Học vấn trở thành uyên bác (Đối với người Tây phương : tri thức là quyền lực. Đối với người Trung Quốc : quyền lực là tri thức).
4- Tài sản được gia tăng (Người Tây phương lấy buôn bán làm nguồn gốc của sự giàu sang. Người Trung Quốc trọng sĩ, khinh thương; lại bị ảnh hưởng của cái " Hà tất viết lợi " của Mạnh Tử).
Sở dĩ mồm không nói đến lợi, nhưng trong bụng lại nghĩ đến lợi một cách sống chết, v́ thế mới làm quan để vơ vét. Chuyện tên đạo tặc khét tiếng Trịnh Chúng đời Nam Tống, sau khi quy hàng được bổ làm quan, bị đồng liêu coi rẻ, y tức ḿnh bèn có thơ rằng :
" Các vị làm quan để ăn trộm,
Trịnh Chúng ăn trộm mới làm quan ! "
(Các vị tố quan hựu tố tặc,
Trịnh Chúng tố tặc tài tố quan)
Đúng là một câu nói toạc móng heo cái việc làm quan !
Tôn thờ quyền thế quá độ - không cần nói đến trường hợp chính trị, học thuật - ngay cả đến t́nh hữu nghị giữa người với người cũng biến chất, biến thành thiển cận, thành thế lợi Một biểu tượng của căn bệnh văn hóa Trung Quốc
Khiêu Lập Dân
Trong " Thất thập niên đại Tạp chí ", Hồng Kông, ngày 12-11-1973.
Phàm người Trung Quốc nào c̣n quan tâm đến tiền đồ tổ quốc đều có thể nghĩ đến một vấn đề căn bản sau đây : tại sao Trung Quốc (từ 1842 đến 1949) lại yếu thế ? Mỹ, Nhật tại sao lại mạnh thế ?
Diện tích của Trung Quốc rất lớn (đứng thứ nh́ trên thế giới chỉ sau Liên-xô), người lại rất đông (vào bậc nhất thế giới), tài nguyên tương đối phong phú. Thêm vào đó, lại có một nền văn hóa mà một số người tự hào là lâu đời tới 5.000 năm. Đáng lư Trung Quốc phải là một quốc gia vào hạng mạnh nhất thế giới mới đúng. Nhưng sự thực lại không phải như vậy. Từ Chiến tranh Nha phiến (1840), bị các cường quốc liên tục đến xâu xé, Trung Quốc phải cắt đất bồi thường, chỉ tư nữa là đă bị phân chia.
Đối với câu hỏi trên, chỉ có hai cách trả lời :
Thứ nhất : Đầu óc và sức lực của người Trung Quốc tồi quá.
Thứ hai : Cái văn hóa truyền thống của Trung Quốc có vấn đề.
Đối với cái khả năng thứ nhất, có hai cách giải thích không giống nhau. Cách thứ nhất là: đầu óc, sức lực người Trung Quốc tồi quá. Có lẽ họ chỉ khá hơn rợ Hung-nô, Đột-quyết và người da đen ở Phi Châu ngày hôm nay (chứ không phải ngày mai), nhưng chắc chắn là thua người Mỹ, Anh, Pháp, Nga, Nhật.
Cách giải thích thứ hai : trí lực của tổ tiên người Trung Quốc rất khá, ít nhất cũng tài giỏi ở mức độ huy hoàng của những đời Hán, Đường. Nhưng bất hạnh thay, cái trí lực ấy càng ngày càng kiệt quệ, đời sau không bằng đời trước, sau vài trăm năm đă biến thành một dân tộc của những thằng ngu.
Giả sử đúng là trí lực của chúng ta quá tồi, chúng ta phải chấp nhận nó như thế thôi. Nhưng ai đă dậy chúng ta không biết tự ḿnh phấn đấu nhỉ ? Căn cứ trên " Định luật sinh tồn - mạnh được yếu thua " th́ một đất nước bị biến thành cái loại " thuộc địa hạng bét " như thế bởi v́ nó xứng đáng như thế. Nếu nói ngược lại, giả sử không phải v́ trí lực của chúng ta có vấn đề, nhưng v́ cái văn hóa của chúng ta có vấn đề, th́ tiền đồ của chúng ta c̣n có thể khá được, nhưng chúng ta phải biết tự sửa ḿnh, can đảm vứt cái gánh nặng văn hóa ấy đi mới được.
Chúng ta vừa nói qua khả năng thứ nhất (trí lực có vấn đề), đó là một khả năng trên mặt lư luận, nhưng không tồn tại trong thực tế. Bởi v́ không có một người Trung Quốc nào thừa nhận rằng trí lực của dân tộc Trung Quốc chúng ta lại thấp kém. Đấy không phải là một vấn đề cảm tính hoặc v́ muốn tự thổi phồng ḿnh lên, nhưng một vấn đề trên mặt lư luận có chứng cớ, không thể phủ nhận.
Những chứng cớ này là ǵ ?
Ta có thể nh́n thấy trong hai sự kiện sau :
1- Phần đóng góp của người Hoa vào công cuộc phát triển kinh tế ở Đông-Nam-á.
2- Những thành tựu về học thuật của người Hoa tại Mỹ, những thành quả này làm cho người da trắng vốn đầy tự tôn mặc cảm cũng phải thừa nhận rằng trí tuệ cá nhân người Hoa cao. Nhưng họ cũng biết người Hoa không đoàn kết, không hợp tác với nhau, chống đối nhau một cách kịch liệt và không phát huy được sức mạnh tập đoàn.
Ông Bá Dương trong tập " Đến chết không nhận lỗi " đă đưa ra một cách giải thích tuyệt vời về vấn đề của người Hoa chúng ta :
Một người đến thỉnh giáo một vị cao tăng, hỏi về kiếp trước và kiếp sau của ḿnh. Vị cao tăng đáp bằng mấy câu thơ sau :
Muốn biết kiếp trước thế nào
Cứ xem ḿnh sống ra sao kiếp này
Đầu thai rồi thế nào đây
Hăy nh́n vào việc hiện nay đang làm
[Dục tri tiền thế nhân
Kim sinh thụ giả thị
Dục tri hậu thế quả
Kim sinh tác giả thị ]
Bá Dương lại c̣n than rằng : " Mấy câu danh ngôn này làm cho tôi liên tưởng đến cái văn hóa 5.000 năm của chúng ta ". Muốn biết cái văn hóa này tốt hay xấu, không phải cứ vùi đầu vào nghiên cứu cái đống giấy cũ, mà phải mở to mắt nh́n những tội nợ mà chúng ta đang phải chịu hôm nay th́ may ra mới rơ được.
Vấn đề th́ rơ ràng có rồi, mà cũng có thể nói rằng đó là vấn đề văn hóa. Vậy phải đi thêm một bước nữa để t́m cách phân tích nó.
Ông Tôn Quang Hán, một người rất ngưỡng mộ ông Bá Dương, trong bài " Hoàn cảnh và đất đai " có viết:
" Nguyên nhân tại sao Trung Quốc không thể xây dựng được một quốc gia cường thịnh ? Đó không phải vấn đề bẩm sinh, nhưng một vấn đề sau khi sinh. Nếu dùng ngôn ngữ của người làm ruộng để nói th́ đó không phải là vấn đề " giống " mà là vấn đề " đất ".
Đối với thực vật, đất là thổ nhưỡng, thủy phân, không khí, ánh sáng mặt trời, v.v...; đối với một dân tộc, đất là hoàn cảnh, tập tục của nhân tính nói chung.
Cho đến nay thực sự chúng ta chưa sinh sản được những loại cây tốt. Nguyên nhân, nếu không do hạt giống, th́ nhất định phải v́ đất đai, hoàn cảnh, có ǵ đó không thích hợp cho những giống cây này sinh trưởng.
Trong văn hóa và tập tục 5.000 năm của Trung Quốc, ngoài phần tốt ra cũng có phần xấu. Phần xấu này là mảnh đất nơi hạt giống kia không thể lớn lên được. Cái phần văn hóa, tập tục rộng lớn, xấu xa này đúng như ông Bá Dương gọi một cách đơn giản và tóm lược là cái " vại tương ".
Tôi thấy Lỗ Tấn tiên sinh đă sáng tạo ra cái " A Q ", Lư Tông Ngô tiên sinh lại sáng tạo ra cái " Hậu hắc ", sau đó Bá Dương tiên sinh c̣n sáng tạo ra cái " hũ tương ", ba thứ này đều chí lư cả, chẳng khác nào ba chân của một cái đỉnh.
Nếu nói " A Q " đă vạch trần " nhân tính " của người Trung Quốc, " Hậu hắc " đă tố giác cái " quan tính " của người Trung Quốc, th́ " Hũ tương " tựa hồ như gốc gác của hai thứ trên. Tại sao có " A Q "? Chính do cái " Hũ tương " mà ra!
Thế th́ cái " Hũ tương " đây là ǵ, và có ǵ ở trong đó ? Định nghĩa của ông Bá Dương như sau :
" Một xă hội hỗn độn bị sâu ruỗng và tù hăm, lại bị loại chính trị nô tài thao túng, đạo đức què quặt, nhân sinh quan cá nhân, đồng tiền và thế lực làm vua. Một xă hội như thế làm cho linh tính con người chỉ có xơ cứng và tiêu tan đi thôi ".
Ông Bá Dương c̣n nói tất cả các thứ trong hũ tương ấy lại đẻ ra những hiện tượng khác như : " sự sùng bái quyền thế một cách mù quáng ", " tính ích kỷ chắc như gông cùm ", " ngôn ngữ bịp bợm ", " mê đắm những xác chết ", " bất hợp tác ", " tàn nhẫn và đố kỵ một cách lạnh lùng, trắng trợn ", " làm phách và ngớ ngẩn ".
Trước khi nói về những sản phẩm của hũ tương, tôi xin được nói thêm vài câu, v́ một khi tràng giang đại hải về hũ tương rồi sợ không thể quay trở lại được nữa.
Một số người yêu nước nghĩ rằng Trung Quốc phải giầu mạnh. Không ai có thể phủ nhận điều đó. Nhưng làm thế nào để giàu mạnh mới là vấn đề. Chẳng lẽ cứ phô trương cái sẹo của tổ tiên ra? Cứ trách cứ tổ tiên phỏng có ích ǵ? Chẳng lẽ cứ trách cứ tổ tiên cho đă đời, rồi th́ quốc gia sẽ giầu mạnh lên chăng ?
Tôi cho rằng làm như thế không phải là thượng sách. Dân tộc Trung Quốc là một dân tộc bị " bệnh ", năm tháng càng dài th́ bệnh càng nặng.
Cái bệnh này bắt nguồn từ thời Hán Vũ Đế sùng đạo Nho, lại càng bị nặng thêm với những thứ kỳ quặc như khoa cử, như Lư học thời Minh, Tống, làm cho dân tộc Trung Quốc hầu như bị tiêu tan hết linh tính, chỉ c̣n thoi thóp sống mà thôi.
Những đối thủ ngày trước như Hung - Nô, Đột - Quyết, Khiết - Đan, Tây - Hạ thực ra có một nền tảng văn hóa quá thấp, nên không tránh khỏi bị Hán hóa. Ngay cả sau này Mông Cổ và Măn Thanh chỉ chinh phục được chúng ta trên mặt vơ lực, c̣n trên mặt văn hóa lại bị chúng ta chinh phục lại. Những chiến thắng về văn hóa này làm cho chúng ta vốn mắc bệnh mà không hề biết.
Cho đến khi nhà Thanh bị ép buộc phải mở cửa cho Tây phương chúng ta mới gặp phải đối thủ lợi hại mà chúng ta chưa bao giờ gặp trước kia. Lúc đó, cái trạng thái bệnh tật nọ mới bị lộ tẩy ra ngoài.
Một dân tộc mắc " bệnh " cũng giống như một cá nhân, nếu không chữa cho hết bệnh th́ không có cách nào khá lên được. Dù dân chủ, dù khoa học, mà ngay cả đến những thứ thuốc bổ nhất thiên hạ cũng chẳng có ích ǵ cho một người bị bệnh đường ruột và dạ dày quá nặng.
Muốn chữa được bệnh trước hết phải t́m cho ra " căn bệnh ". Không thể v́ sợ thuốc hoặc sợ đau mà giấu bệnh được. Nếu cần, dẫu phải cưa tay cưa chân cũng kiên quyết làm, dù phải cắt bỏ dạ dày, thay thận cũng không tiếc. Cần phải có cái dũng khí như thế mới có khả năng cải tử hoàn sinh được. Vấn đề cốt lơi ở đây là phải khiêm tốn kiểm thảo căn bệnh văn hóa lâu đời này.
" Căn bệnh " này của dân tộc Trung Quốc xét cho cùng là ǵ ? Lỗ Tấn, Lư Tông Ngô, Bá Dương,... trước sau đều đă chỉ rơ. Nhưng " thuốc thang " thế nào cho khỏi ? Vấn đề trị bệnh này c̣n lớn hơn việc nêu rơ tên bệnh, song cơ hồ các vị đó chưa thấy ai đề cập đến cho chúng ta. Nhưng nếu suy nghĩ kỹ ta có thể thấy cái " ư tại ngôn ngoại " của họ. Dường như trước tiên họ muốn chúng ta cùng tham khảo để thấy rơ từng chứng bệnh một, liệt kê ra từng nguyên nhân của căn bệnh. Để rồi sau đó người Trung Quốc - những ai c̣n biết suy nghĩ - từng người một nh́n vào những bệnh chứng này mà suy xét, cái nào xấu th́ bỏ đi, cái nào không xấu th́ giữ lại.
Nếu những người có ḷng này càng ngày nhiều, " cái bỏ đi " và " cái giữ lại " càng ngày càng lớn. Như thế, tất chẳng mấy chốc cái bệnh lâu đời đó của dân tộc Trung Quốc sẽ không thuốc mà tự lành. Cái này có lẽ sẽ dính dáng đến vấn đề " biết dễ, làm khó " hoặc " biết khó, làm dễ " mà ở đây chúng ta không bàn đến.
Trong bài " Đến chết không nhận lỗi " (ở tập " Đập vỡ hũ tương ") có đoạn như sau:
" Có kẻ cho rằng người Trung Quốc bản thân không xứng đáng, cho nên mới để cho nước nhà ra nông nỗi này. Không những không biết tự trách móc ḿnh, mà trái lại, họ c̣n tức tối, đi trách cứ tổ tiên cái này không đúng, cái nọ không đúng, làm họ phải chịu hậu quả. Thay v́ xây dựng một giang sơn tốt đẹp để họ được hưởng phúc lộc th́ tổ tiên để lại cho họ một đất nước như thế ".
Đối với cách nói ấy, ông Bá Dương đă trả lời :
" Điều này chả khác chuyện cha với con. Nếu con khá giả, thông minh linh lợi,học qua được đại học, thế mà đời lại hỏng th́ đương nhiên không thể trách cứ được bố nó ; mà nó chỉ có thể tự trách ḿnh không xứng đáng. Nhưng nếu như đứa con từ khi sinh ra đă bị vi trùng lậu làm cho hỏng mắt, lại bị di truyền làm cho dở điên dở khùng, ngớ ngớ ngẩn ngẩn, lang thang đầu đường xó chợ xin ăn kiếm sống th́ cái trách nhiệm của nó quá nhỏ. Nếu nó có mở mồm trách bố nó tại sao lại mắc bệnh phong t́nh, trách mẹ nó v́ sao không chữa khỏi bệnh đi, th́ chúng ta cũng không thể nhẫn tâm bắt nó im mồm được ".
Các sản phẩm của cái hũ tương mà ông Bá Dương đă nói đương nhiên không nhất thiết cái nào cũng hoàn toàn đúng, nhưng ít nhất cũng có một phần không sai. Văn chương ông Bá Dương xưa nay vốn mạch lạc phân minh, chỉ tiếc lúc nói về những sản phẩm hũ tương, hành văn lại hơi lộn xộn, có lúc lung tung lạc đề. Lúc th́ vụt một cái lộn trở lại, lúc vụt một cái lại phóng đi.
Chúng tôi xin trích một phần giới thiệu nhỏ dưới đây - đă qua một lần chỉnh lại theo nguyên tắc giữ đúng nguyên ư tác giả - để người đọc đối chiếu với nguyên văn làm bằng chứng :
Sản phẩm đầu tiên của hũ tương là sự sùng bái quyền thế một cách điên cuồng. ở Trung Quốc thời cổ, người có quyền thế tối cao là Hoàng đế. Đối với ông ta những nguyên tắc luân lư đều vô nghĩa. Thân thuộc nhánh bên (không phải trực hệ) ở trước mặt Hoàng đế bất quá chỉ là " thần ", là " nô tài ", (Ví phỏng Hoàng đế đă được tấn phong, cho dù là bố mẹ cũng không được là ngoại lệ). Đối với cái thứ tính cách oái oăm trái với luân lư này (quan tính lớn hơn nhân tính), một loại đạo đức dị h́nh, không những không ai phản đối mà c̣n cho là ư trời, nghĩa đất.
Về mặt hoang dâm trong đời sống cung đ́nh th́ những Hoàng đế Tây phương c̣n phải kém xa. Chưa cần bàn đến cái " Ba ngh́n người đẹp trong hậu cung " của thời Đường, ngay thời Chu vương triều, thiên tử có thể có tới 121 bà vợ một cách hợp pháp.
Theo " Nội tắc " trong " Lễ kư " chỉ để sắp xếp cho chu tất chương tŕnh hàng ngày của cái việc " điên loan đảo phụng ", sao cho cả hơn trăm bà đều được thấm đượm ơn mưa móc của nhà vua cũng đă là một điều khổ tâm rồi; chưa kể những chuyện ghen tuông tranh giành giữa các bà.
Tất cả các ông thánh đối với mấy việc này không những không phản đối, mà họ c̣n biến các loại " dâm đồ " này thành thiên tử thánh thần, biến cái kiểu " chơi loạn chơi tạp " này thành ra phép tắc chính thức của quốc gia, xă hội. V́ vậy Bá Dương cho rằng :
Thánh nhân không những chỉ hùa theo mà c̣n là đầu sỏ, cùng phạm tội với những kẻ có quyền và bọn dâm đồ. Quyền lực nào khác xăng dầu, thánh nhân không những không t́m cách đề pḥng sự dễ cháy của nó mà lại c̣n châm lửa th́ khi nó bốc lên làm sao mà dập được ?
Bá Dương cho là quyền lực của Hoàng đế Tây phương luôn luôn bị thành phần trí thức giới hạn, giám sát. Nhưng ở Trung Quốc th́ các ông thánh lại v́ phe nắm quyền mà phát minh ra thứ triết học kỳ quặc kiểu như sau :
" Khắp dưới gầm trời không có chỗ nào không là đất của nhà vua. Tất cả các kẻ sĩ trong thiên hạ có kẻ nào mà không phải là tôi của nhà vua ". Th́ ra, sinh mạng tài sản của nhân dân đều do cái tên " đại dâm đồ " đó ban cho. Chẳng trách cái thằng chơi gái thứ dữ đó cứ muốn làm ǵ th́ làm.
Khi sự tôn sùng quyền thế là nền tảng của 5.000 năm văn hóa truyền thống th́ cái quan hệ giữa người và người chỉ có sự " kính và sợ ", c̣n sự " thương yêu " th́ không đáng kể. Cái gọi là " nhân " chỉ là thứ t́m thấy trong sách vở, khó mà gặp được trong hành động. Vả lại, chữ " nhân " này tựa hồ không có tính cách b́nh đẳng của hai bên cùng được lợi.
Sùng bái quyền thế một cách tuyệt đối đưa đến một nền chính trị nô tài và cái đạo đức dị h́nh, không c̣n tiêu chuẩn về thị phi, chỉ c̣n cái tiêu chuẩn vụ lợi bất kể phải trái. Chỉ c̣n một con đường là tiền tài, phú quư, công danh. Mọi người đều phải gọt đầu cho nhọn để liều mạng chui vào chỗ quan trường. Chỉ cần tôi có thể làm quan th́ bắt tôi làm ǵ tôi cũng làm.
Như Đào Uyên Minh - không v́ năm hộc thóc mà uốn cong lưng - th́ có được mấy người ?
" Mười năm tân khổ " chẳng v́ nghiên cứu phát minh, chẳng v́ viết sách lập thuyết, chẳng v́ bôn ba cách mạng, mà chỉ v́ " một ngày thành danh ". " Thành danh " ở đây có nghĩa là làm quan vậy.
Xưa nay, việc làm quan hấp dẫn người ta như điên cuồng cũng bởi v́:
1- Có quyền trong tay, dù ở cấp bực nào (tùy quan lớn nhỏ) cũng muốn ǵ được nấy.
2- Được mọi người sùng bái.
3- Học vấn trở thành uyên bác (Đối với người Tây phương : tri thức là quyền lực. Đối với người Trung Quốc : quyền lực là tri thức).
4- Tài sản được gia tăng (Người Tây phương lấy buôn bán làm nguồn gốc của sự giàu sang. Người Trung Quốc trọng sĩ, khinh thương; lại bị ảnh hưởng của cái " Hà tất viết lợi " của Mạnh Tử).
Sở dĩ mồm không nói đến lợi, nhưng trong bụng lại nghĩ đến lợi một cách sống chết, v́ thế mới làm quan để vơ vét. Chuyện tên đạo tặc khét tiếng Trịnh Chúng đời Nam Tống, sau khi quy hàng được bổ làm quan, bị đồng liêu coi rẻ, y tức ḿnh bèn có thơ rằng :
" Các vị làm quan để ăn trộm,
Trịnh Chúng ăn trộm mới làm quan ! "
(Các vị tố quan hựu tố tặc,
Trịnh Chúng tố tặc tài tố quan)
Đúng là một câu nói toạc móng heo cái việc làm quan !
Tôn thờ quyền thế quá độ - không cần nói đến trường hợp chính trị, học thuật - ngay cả đến t́nh hữu nghị giữa người với người cũng biến chất, biến thành thiển cận, thành thế lợi Một biểu tượng của căn bệnh văn hóa Trung Quốc
Khiêu Lập Dân
Trong " Thất thập niên đại Tạp chí ", Hồng Kông, ngày 12-11-1973.
Phàm người Trung Quốc nào c̣n quan tâm đến tiền đồ tổ quốc đều có thể nghĩ đến một vấn đề căn bản sau đây : tại sao Trung Quốc (từ 1842 đến 1949) lại yếu thế ? Mỹ, Nhật tại sao lại mạnh thế ?
Diện tích của Trung Quốc rất lớn (đứng thứ nh́ trên thế giới chỉ sau Liên-xô), người lại rất đông (vào bậc nhất thế giới), tài nguyên tương đối phong phú. Thêm vào đó, lại có một nền văn hóa mà một số người tự hào là lâu đời tới 5.000 năm. Đáng lư Trung Quốc phải là một quốc gia vào hạng mạnh nhất thế giới mới đúng. Nhưng sự thực lại không phải như vậy. Từ Chiến tranh Nha phiến (1840), bị các cường quốc liên tục đến xâu xé, Trung Quốc phải cắt đất bồi thường, chỉ tư nữa là đă bị phân chia.
Đối với câu hỏi trên, chỉ có hai cách trả lời :
Thứ nhất : Đầu óc và sức lực của người Trung Quốc tồi quá.
Thứ hai : Cái văn hóa truyền thống của Trung Quốc có vấn đề.
Đối với cái khả năng thứ nhất, có hai cách giải thích không giống nhau. Cách thứ nhất là: đầu óc, sức lực người Trung Quốc tồi quá. Có lẽ họ chỉ khá hơn rợ Hung-nô, Đột-quyết và người da đen ở Phi Châu ngày hôm nay (chứ không phải ngày mai), nhưng chắc chắn là thua người Mỹ, Anh, Pháp, Nga, Nhật.
Cách giải thích thứ hai : trí lực của tổ tiên người Trung Quốc rất khá, ít nhất cũng tài giỏi ở mức độ huy hoàng của những đời Hán, Đường. Nhưng bất hạnh thay, cái trí lực ấy càng ngày càng kiệt quệ, đời sau không bằng đời trước, sau vài trăm năm đă biến thành một dân tộc của những thằng ngu.
Giả sử đúng là trí lực của chúng ta quá tồi, chúng ta phải chấp nhận nó như thế thôi. Nhưng ai đă dậy chúng ta không biết tự ḿnh phấn đấu nhỉ ? Căn cứ trên " Định luật sinh tồn - mạnh được yếu thua " th́ một đất nước bị biến thành cái loại " thuộc địa hạng bét " như thế bởi v́ nó xứng đáng như thế. Nếu nói ngược lại, giả sử không phải v́ trí lực của chúng ta có vấn đề, nhưng v́ cái văn hóa của chúng ta có vấn đề, th́ tiền đồ của chúng ta c̣n có thể khá được, nhưng chúng ta phải biết tự sửa ḿnh, can đảm vứt cái gánh nặng văn hóa ấy đi mới được.
Chúng ta vừa nói qua khả năng thứ nhất (trí lực có vấn đề), đó là một khả năng trên mặt lư luận, nhưng không tồn tại trong thực tế. Bởi v́ không có một người Trung Quốc nào thừa nhận rằng trí lực của dân tộc Trung Quốc chúng ta lại thấp kém. Đấy không phải là một vấn đề cảm tính hoặc v́ muốn tự thổi phồng ḿnh lên, nhưng một vấn đề trên mặt lư luận có chứng cớ, không thể phủ nhận.
Những chứng cớ này là ǵ ?
Ta có thể nh́n thấy trong hai sự kiện sau :
1- Phần đóng góp của người Hoa vào công cuộc phát triển kinh tế ở Đông-Nam-á.
2- Những thành tựu về học thuật của người Hoa tại Mỹ, những thành quả này làm cho người da trắng vốn đầy tự tôn mặc cảm cũng phải thừa nhận rằng trí tuệ cá nhân người Hoa cao. Nhưng họ cũng biết người Hoa không đoàn kết, không hợp tác với nhau, chống đối nhau một cách kịch liệt và không phát huy được sức mạnh tập đoàn.
Ông Bá Dương trong tập " Đến chết không nhận lỗi " đă đưa ra một cách giải thích tuyệt vời về vấn đề của người Hoa chúng ta :
Một người đến thỉnh giáo một vị cao tăng, hỏi về kiếp trước và kiếp sau của ḿnh. Vị cao tăng đáp bằng mấy câu thơ sau :
Muốn biết kiếp trước thế nào
Cứ xem ḿnh sống ra sao kiếp này
Đầu thai rồi thế nào đây
Hăy nh́n vào việc hiện nay đang làm
[Dục tri tiền thế nhân
Kim sinh thụ giả thị
Dục tri hậu thế quả
Kim sinh tác giả thị ]
Bá Dương lại c̣n than rằng : " Mấy câu danh ngôn này làm cho tôi liên tưởng đến cái văn hóa 5.000 năm của chúng ta ". Muốn biết cái văn hóa này tốt hay xấu, không phải cứ vùi đầu vào nghiên cứu cái đống giấy cũ, mà phải mở to mắt nh́n những tội nợ mà chúng ta đang phải chịu hôm nay th́ may ra mới rơ được.
Vấn đề th́ rơ ràng có rồi, mà cũng có thể nói rằng đó là vấn đề văn hóa. Vậy phải đi thêm một bước nữa để t́m cách phân tích nó.
Ông Tôn Quang Hán, một người rất ngưỡng mộ ông Bá Dương, trong bài " Hoàn cảnh và đất đai " có viết:
" Nguyên nhân tại sao Trung Quốc không thể xây dựng được một quốc gia cường thịnh ? Đó không phải vấn đề bẩm sinh, nhưng một vấn đề sau khi sinh. Nếu dùng ngôn ngữ của người làm ruộng để nói th́ đó không phải là vấn đề " giống " mà là vấn đề " đất ".
Đối với thực vật, đất là thổ nhưỡng, thủy phân, không khí, ánh sáng mặt trời, v.v...; đối với một dân tộc, đất là hoàn cảnh, tập tục của nhân tính nói chung.
Cho đến nay thực sự chúng ta chưa sinh sản được những loại cây tốt. Nguyên nhân, nếu không do hạt giống, th́ nhất định phải v́ đất đai, hoàn cảnh, có ǵ đó không thích hợp cho những giống cây này sinh trưởng.
Trong văn hóa và tập tục 5.000 năm của Trung Quốc, ngoài phần tốt ra cũng có phần xấu. Phần xấu này là mảnh đất nơi hạt giống kia không thể lớn lên được. Cái phần văn hóa, tập tục rộng lớn, xấu xa này đúng như ông Bá Dương gọi một cách đơn giản và tóm lược là cái " vại tương ".
Tôi thấy Lỗ Tấn tiên sinh đă sáng tạo ra cái " A Q ", Lư Tông Ngô tiên sinh lại sáng tạo ra cái " Hậu hắc ", sau đó Bá Dương tiên sinh c̣n sáng tạo ra cái " hũ tương ", ba thứ này đều chí lư cả, chẳng khác nào ba chân của một cái đỉnh.
Nếu nói " A Q " đă vạch trần " nhân tính " của người Trung Quốc, " Hậu hắc " đă tố giác cái " quan tính " của người Trung Quốc, th́ " Hũ tương " tựa hồ như gốc gác của hai thứ trên. Tại sao có " A Q "? Chính do cái " Hũ tương " mà ra!
Thế th́ cái " Hũ tương " đây là ǵ, và có ǵ ở trong đó ? Định nghĩa của ông Bá Dương như sau :
" Một xă hội hỗn độn bị sâu ruỗng và tù hăm, lại bị loại chính trị nô tài thao túng, đạo đức què quặt, nhân sinh quan cá nhân, đồng tiền và thế lực làm vua. Một xă hội như thế làm cho linh tính con người chỉ có xơ cứng và tiêu tan đi thôi ".
Ông Bá Dương c̣n nói tất cả các thứ trong hũ tương ấy lại đẻ ra những hiện tượng khác như : " sự sùng bái quyền thế một cách mù quáng ", " tính ích kỷ chắc như gông cùm ", " ngôn ngữ bịp bợm ", " mê đắm những xác chết ", " bất hợp tác ", " tàn nhẫn và đố kỵ một cách lạnh lùng, trắng trợn ", " làm phách và ngớ ngẩn ".
Trước khi nói về những sản phẩm của hũ tương, tôi xin được nói thêm vài câu, v́ một khi tràng giang đại hải về hũ tương rồi sợ không thể quay trở lại được nữa.
Một số người yêu nước nghĩ rằng Trung Quốc phải giầu mạnh. Không ai có thể phủ nhận điều đó. Nhưng làm thế nào để giàu mạnh mới là vấn đề. Chẳng lẽ cứ phô trương cái sẹo của tổ tiên ra? Cứ trách cứ tổ tiên phỏng có ích ǵ? Chẳng lẽ cứ trách cứ tổ tiên cho đă đời, rồi th́ quốc gia sẽ giầu mạnh lên chăng ?
Tôi cho rằng làm như thế không phải là thượng sách. Dân tộc Trung Quốc là một dân tộc bị " bệnh ", năm tháng càng dài th́ bệnh càng nặng.
Cái bệnh này bắt nguồn từ thời Hán Vũ Đế sùng đạo Nho, lại càng bị nặng thêm với những thứ kỳ quặc như khoa cử, như Lư học thời Minh, Tống, làm cho dân tộc Trung Quốc hầu như bị tiêu tan hết linh tính, chỉ c̣n thoi thóp sống mà thôi.
Những đối thủ ngày trước như Hung - Nô, Đột - Quyết, Khiết - Đan, Tây - Hạ thực ra có một nền tảng văn hóa quá thấp, nên không tránh khỏi bị Hán hóa. Ngay cả sau này Mông Cổ và Măn Thanh chỉ chinh phục được chúng ta trên mặt vơ lực, c̣n trên mặt văn hóa lại bị chúng ta chinh phục lại. Những chiến thắng về văn hóa này làm cho chúng ta vốn mắc bệnh mà không hề biết.
Cho đến khi nhà Thanh bị ép buộc phải mở cửa cho Tây phương chúng ta mới gặp phải đối thủ lợi hại mà chúng ta chưa bao giờ gặp trước kia. Lúc đó, cái trạng thái bệnh tật nọ mới bị lộ tẩy ra ngoài.
Một dân tộc mắc " bệnh " cũng giống như một cá nhân, nếu không chữa cho hết bệnh th́ không có cách nào khá lên được. Dù dân chủ, dù khoa học, mà ngay cả đến những thứ thuốc bổ nhất thiên hạ cũng chẳng có ích ǵ cho một người bị bệnh đường ruột và dạ dày quá nặng.
Muốn chữa được bệnh trước hết phải t́m cho ra " căn bệnh ". Không thể v́ sợ thuốc hoặc sợ đau mà giấu bệnh được. Nếu cần, dẫu phải cưa tay cưa chân cũng kiên quyết làm, dù phải cắt bỏ dạ dày, thay thận cũng không tiếc. Cần phải có cái dũng khí như thế mới có khả năng cải tử hoàn sinh được. Vấn đề cốt lơi ở đây là phải khiêm tốn kiểm thảo căn bệnh văn hóa lâu đời này.
" Căn bệnh " này của dân tộc Trung Quốc xét cho cùng là ǵ ? Lỗ Tấn, Lư Tông Ngô, Bá Dương,... trước sau đều đă chỉ rơ. Nhưng " thuốc thang " thế nào cho khỏi ? Vấn đề trị bệnh này c̣n lớn hơn việc nêu rơ tên bệnh, song cơ hồ các vị đó chưa thấy ai đề cập đến cho chúng ta. Nhưng nếu suy nghĩ kỹ ta có thể thấy cái " ư tại ngôn ngoại " của họ. Dường như trước tiên họ muốn chúng ta cùng tham khảo để thấy rơ từng chứng bệnh một, liệt kê ra từng nguyên nhân của căn bệnh. Để rồi sau đó người Trung Quốc - những ai c̣n biết suy nghĩ - từng người một nh́n vào những bệnh chứng này mà suy xét, cái nào xấu th́ bỏ đi, cái nào không xấu th́ giữ lại.
Nếu những người có ḷng này càng ngày nhiều, " cái bỏ đi " và " cái giữ lại " càng ngày càng lớn. Như thế, tất chẳng mấy chốc cái bệnh lâu đời đó của dân tộc Trung Quốc sẽ không thuốc mà tự lành. Cái này có lẽ sẽ dính dáng đến vấn đề " biết dễ, làm khó " hoặc " biết khó, làm dễ " mà ở đây chúng ta không bàn đến.
Trong bài " Đến chết không nhận lỗi " (ở tập " Đập vỡ hũ tương ") có đoạn như sau:
" Có kẻ cho rằng người Trung Quốc bản thân không xứng đáng, cho nên mới để cho nước nhà ra nông nỗi này. Không những không biết tự trách móc ḿnh, mà trái lại, họ c̣n tức tối, đi trách cứ tổ tiên cái này không đúng, cái nọ không đúng, làm họ phải chịu hậu quả. Thay v́ xây dựng một giang sơn tốt đẹp để họ được hưởng phúc lộc th́ tổ tiên để lại cho họ một đất nước như thế ".
Đối với cách nói ấy, ông Bá Dương đă trả lời :
" Điều này chả khác chuyện cha với con. Nếu con khá giả, thông minh linh lợi,học qua được đại học, thế mà đời lại hỏng th́ đương nhiên không thể trách cứ được bố nó ; mà nó chỉ có thể tự trách ḿnh không xứng đáng. Nhưng nếu như đứa con từ khi sinh ra đă bị vi trùng lậu làm cho hỏng mắt, lại bị di truyền làm cho dở điên dở khùng, ngớ ngớ ngẩn ngẩn, lang thang đầu đường xó chợ xin ăn kiếm sống th́ cái trách nhiệm của nó quá nhỏ. Nếu nó có mở mồm trách bố nó tại sao lại mắc bệnh phong t́nh, trách mẹ nó v́ sao không chữa khỏi bệnh đi, th́ chúng ta cũng không thể nhẫn tâm bắt nó im mồm được ".
Các sản phẩm của cái hũ tương mà ông Bá Dương đă nói đương nhiên không nhất thiết cái nào cũng hoàn toàn đúng, nhưng ít nhất cũng có một phần không sai. Văn chương ông Bá Dương xưa nay vốn mạch lạc phân minh, chỉ tiếc lúc nói về những sản phẩm hũ tương, hành văn lại hơi lộn xộn, có lúc lung tung lạc đề. Lúc th́ vụt một cái lộn trở lại, lúc vụt một cái lại phóng đi.
Chúng tôi xin trích một phần giới thiệu nhỏ dưới đây - đă qua một lần chỉnh lại theo nguyên tắc giữ đúng nguyên ư tác giả - để người đọc đối chiếu với nguyên văn làm bằng chứng :
Sản phẩm đầu tiên của hũ tương là sự sùng bái quyền thế một cách điên cuồng. ở Trung Quốc thời cổ, người có quyền thế tối cao là Hoàng đế. Đối với ông ta những nguyên tắc luân lư đều vô nghĩa. Thân thuộc nhánh bên (không phải trực hệ) ở trước mặt Hoàng đế bất quá chỉ là " thần ", là " nô tài ", (Ví phỏng Hoàng đế đă được tấn phong, cho dù là bố mẹ cũng không được là ngoại lệ). Đối với cái thứ tính cách oái oăm trái với luân lư này (quan tính lớn hơn nhân tính), một loại đạo đức dị h́nh, không những không ai phản đối mà c̣n cho là ư trời, nghĩa đất.
Về mặt hoang dâm trong đời sống cung đ́nh th́ những Hoàng đế Tây phương c̣n phải kém xa. Chưa cần bàn đến cái " Ba ngh́n người đẹp trong hậu cung " của thời Đường, ngay thời Chu vương triều, thiên tử có thể có tới 121 bà vợ một cách hợp pháp.
Theo " Nội tắc " trong " Lễ kư " chỉ để sắp xếp cho chu tất chương tŕnh hàng ngày của cái việc " điên loan đảo phụng ", sao cho cả hơn trăm bà đều được thấm đượm ơn mưa móc của nhà vua cũng đă là một điều khổ tâm rồi; chưa kể những chuyện ghen tuông tranh giành giữa các bà.
Tất cả các ông thánh đối với mấy việc này không những không phản đối, mà họ c̣n biến các loại " dâm đồ " này thành thiên tử thánh thần, biến cái kiểu " chơi loạn chơi tạp " này thành ra phép tắc chính thức của quốc gia, xă hội. V́ vậy Bá Dương cho rằng :
Thánh nhân không những chỉ hùa theo mà c̣n là đầu sỏ, cùng phạm tội với những kẻ có quyền và bọn dâm đồ. Quyền lực nào khác xăng dầu, thánh nhân không những không t́m cách đề pḥng sự dễ cháy của nó mà lại c̣n châm lửa th́ khi nó bốc lên làm sao mà dập được ?
Bá Dương cho là quyền lực của Hoàng đế Tây phương luôn luôn bị thành phần trí thức giới hạn, giám sát. Nhưng ở Trung Quốc th́ các ông thánh lại v́ phe nắm quyền mà phát minh ra thứ triết học kỳ quặc kiểu như sau :
" Khắp dưới gầm trời không có chỗ nào không là đất của nhà vua. Tất cả các kẻ sĩ trong thiên hạ có kẻ nào mà không phải là tôi của nhà vua ". Th́ ra, sinh mạng tài sản của nhân dân đều do cái tên " đại dâm đồ " đó ban cho. Chẳng trách cái thằng chơi gái thứ dữ đó cứ muốn làm ǵ th́ làm.
Khi sự tôn sùng quyền thế là nền tảng của 5.000 năm văn hóa truyền thống th́ cái quan hệ giữa người và người chỉ có sự " kính và sợ ", c̣n sự " thương yêu " th́ không đáng kể. Cái gọi là " nhân " chỉ là thứ t́m thấy trong sách vở, khó mà gặp được trong hành động. Vả lại, chữ " nhân " này tựa hồ không có tính cách b́nh đẳng của hai bên cùng được lợi.
Sùng bái quyền thế một cách tuyệt đối đưa đến một nền chính trị nô tài và cái đạo đức dị h́nh, không c̣n tiêu chuẩn về thị phi, chỉ c̣n cái tiêu chuẩn vụ lợi bất kể phải trái. Chỉ c̣n một con đường là tiền tài, phú quư, công danh. Mọi người đều phải gọt đầu cho nhọn để liều mạng chui vào chỗ quan trường. Chỉ cần tôi có thể làm quan th́ bắt tôi làm ǵ tôi cũng làm.
Như Đào Uyên Minh - không v́ năm hộc thóc mà uốn cong lưng - th́ có được mấy người ?
" Mười năm tân khổ " chẳng v́ nghiên cứu phát minh, chẳng v́ viết sách lập thuyết, chẳng v́ bôn ba cách mạng, mà chỉ v́ " một ngày thành danh ". " Thành danh " ở đây có nghĩa là làm quan vậy.
Xưa nay, việc làm quan hấp dẫn người ta như điên cuồng cũng bởi v́:
1- Có quyền trong tay, dù ở cấp bực nào (tùy quan lớn nhỏ) cũng muốn ǵ được nấy.
2- Được mọi người sùng bái.
3- Học vấn trở thành uyên bác (Đối với người Tây phương : tri thức là quyền lực. Đối với người Trung Quốc : quyền lực là tri thức).
4- Tài sản được gia tăng (Người Tây phương lấy buôn bán làm nguồn gốc của sự giàu sang. Người Trung Quốc trọng sĩ, khinh thương; lại bị ảnh hưởng của cái " Hà tất viết lợi " của Mạnh Tử).
Sở dĩ mồm không nói đến lợi, nhưng trong bụng lại nghĩ đến lợi một cách sống chết, v́ thế mới làm quan để vơ vét. Chuyện tên đạo tặc khét tiếng Trịnh Chúng đời Nam Tống, sau khi quy hàng được bổ làm quan, bị đồng liêu coi rẻ, y tức ḿnh bèn có thơ rằng :
" Các vị làm quan để ăn trộm ,
Trịnh Chúng ăn trộm mới làm quan ! "
( Các vị tố quan hựu tố tặc ,
Trịnh Chúng tố tặc tài tố quan )
Đúng là một câu nói toạc móng heo cái việc làm quan !
Tôn thờ quyền thế quá độ - không cần nói đến trường hợp chính trị, học thuật - ngay cả đến t́nh hữu nghị giữa người với người cũng biến chất, biến thành thiển cận , thành thế lợi .
( Sưu Tầm )
_BatHua_
|
1
|
Kí hiệu:
:
trang cá nhân :chủ
để đă đăng
:
gởi thư
:
thay đổi bài
:ư kiến |
|
|
|
|