Vietnam Single Tim Ban Bon Phuong  


HOME  -  FORUM  -  REGISTER  -  MY ACCOUNT  -  NEW  PHOTOS  -  BROWSE  -  SEARCH  -  POEM  -  ECARD  -  FAQ  -  NCTT  -  CONTACT



Diễn Đàn
 Những chủ đề mới nhất
 Những góp ư mới nhất
 Những chủ đề chưa góp ư

 
NCTT Những chủ đề mới nhất

NCTT Những góp ư mới nhất
NCTT Website


Who is Online
 

 

Forum > Truyện ngắn >> NGƯỜI TRUNG QUỐC XẤU XÍ ( 3 )

 Bấm vào đây để góp ư kiến

Trang nhat

 bathua
 member

 ID 33912
 12/12/2007



NGƯỜI TRUNG QUỐC XẤU XÍ ( 3 )
profile - trang ca nhan  posts - bai da dang  email -goi thu   Thong bao bai viet spam den webmaster  edit -sua doi, thay doi edit -sua doi, thay doi  post reply - goy y kien


NGƯỜI TRUNG QUỐC XẤU XÍ

Phần : I

ĐỜI SỐNG , VĂN HỌC VÀ LỊCH SỬ

Diễn văn đọc tại Phân khoa Sử , Đại học Stanford , San Francisco , ngày 22-08-1981 .



Cái chủ đề tôi được giao phó hôm nay đối với tôi quá lớn, tôi cảm thấy hầu như không đảm đương nổi và sợ không đủ tư cách để đề cập đến một chủ đề lớn như thế. Tôi chỉ t́nh nguyện cố gắng đóng góp cảm tưởng riêng tư về những ǵ mà 5.000 năm lịch sử Trung Quốc gợi ư cho tôi.
Trước khi bắt đầu, tôi xin nói đến một cảm tưởng khác về người da đỏ châu Mỹ (chủ nhân nước Mỹ, cư dân nguyên thủy và chân chính của châu Mỹ).
Tôi đă được đi tham quan những vùng đất hoang phế của dân da đỏ ở Mỹ. Tôi cũng đă đến thăm những khu biệt lập dành riêng cho người da đỏ và gặp một số người da đỏ. Thời gian tuy rất ngắn, không nói được nhiều chuyện, nhưng ấn tượng đối với tôi rất sâu sắc. Tôi khám phá ra rằng các sản phẩm thủ công của người da đỏ ngày nay so với các sản phẩm của người da đỏ sáu trăm năm trước, không nói về h́nh thức và hoa văn, chỉ nói về những thủ pháp đan dệt và chất liệu sử dụng th́ không có ǵ thay đổi. Chỉ từ cái sự kiện nhỏ đó, tôi suy nghĩ và tự hỏi rồi không biết số mệnh của dân tộc này sẽ đi về đâu ?
Chúng ta không thể tưởng tượng được một dân tộc lớn với lịch sử lâu đời như thế lại có thể đang thoi thóp, ngắc ngoải trong các khu biệt lập tại Mỹ hiện nay. Cảnh ngộ của chính những người da đỏ này sau khi bị lừa gạt, tàn sát và sỉ nhục, so với cái lịch sử bi thương của người Trung Quốc chúng ta th́ nên nghĩ thế nào cho phải?
Riêng tôi có một ư nghĩ và nó làm cho tôi rất chán nản. Đó là vấn đề trước mắt của người da đỏ chẳng phải vấn đề đạo đức hoặc kinh tế ǵ cả nhưng đơn thuần là một đe dọa diệt chủng. Tôi không phải là một nhà tiên tri hoặc tướng số, tôi chỉ dùng sự suy đoán riêng tư và căn cứ trên những điều bạn bè cho tôi biết. Chúng ta có thể đoán rằng 100, 500, 1.000 năm sau, có thể sớm hơn hoặc chậm hơn, một ngày nào đó người da đỏ có thể hoàn toàn bị diệt chủng. Bởi v́ họ không tiếp thu được văn minh hiện đại.
Đương nhiên trước mắt, họ vẫn có những khu vực riêng họ không xâm phạm người khác, người ngoài cũng không xâm phạm họ. Nhưng những khu này lại là đất của nước Mỹ, có thể nói là do những người da trắng ban phát cho. Dĩ nhiên, trên vấn đề lư luận hoặc t́nh cảm chúng ta có thể nói không phải là ban phát cho, mà do họ tự tranh đấu mới có được một ít đất cũ vốn của họ. Nhưng nếu cái t́nh cảm của ta không dính dáng ǵ đến văn học, thơ ca nhưng đơn thuần về lư tính th́ chúng ta sẽ thấy rằng vài vùng đất riêng này là do ân huệ của nước Mỹ da trắng. Cho nên, nếu có một ngày nào đó, nước Mỹ đông dân hơn cần lấy lại những khu vực này th́ cái kết cục của người da đỏ sẽ vô cùng thê thảm.
Phải chăng chúng ta cần phải có cách nh́n như thế này : Sự hủy diệt của một dân tộc là một điều vô cùng lớn lao, nhưng không phải không có thể xảy ra ?
Những lúc tôi nh́n thấy những khu hoang phế của dân da đỏ, và cái sự tŕ trệ về văn hóa của chúng ta là trong ḷng tôi như dao cắt; không thể nào không nghĩ rằng một ngày nào đó dân tộc Trung Quốc cũng chẳng khác ǵ dân tộc da đỏ.
Có một người bạn bảo tôi : " Không thể thế được, dân tộc Trung Quốc có một lịch sử lâu đời, dân lại đông như thế ". Tôi nghĩ đấy chẳng qua chỉ là một cách an ủi về mặt tinh thần. V́ đem 5.000 năm lịch sử ra để bảo chứng cho sự bất diệt của một dân tộc th́ không hiểu căn cứ trên cơ sở nào ? Vũ trụ mênh mông, 5.000 năm chỉ là một khoảnh khắc, nhân loại sẽ c̣n tồn tại đến cả 5.000 ức năm nữa là ít. So với 5.000 ức năm th́ 5.000 năm có là bao ! C̣n nói về dân số nhiều ít, đó là một điều chẳng quyết định ǵ trong vấn đề hưng vong của một dân tộc. Thời đầu, lúc người châu Âu đổ bộ lên châu Mỹ, dân số người da đỏ c̣n rất lớn, lớn hơn nhiều so với người da trắng.
Cái ư nghĩ hồ đồ này làm tôi rất buồn và thấy rằng người Trung Quốc chúng ta đang gặp rất nhiều vấn đề. Một vấn đề nổi bật thật khó hiểu là tại sao đến bây giờ người Trung Quốc không thể hùng mạnh ? Trong khi chúng ta thật ra có đủ các điều kiện để trở nên hùng mạnh. Thế th́ nhất định các điều kiện cản trở sự hùng mạnh của ta phải vượt xa các điều kiện giúp chúng ta hùng mạnh.
Tôi xin nói trước tôi nghiên cứu lịch sử không có bài bản ǵ cả, cũng giống kiểu luyện thép thô sơ mà người Trung Quốc làm trong " Bước nhảy vọt lớn ", nhưng luyện rất chuyên cần nên bây giờ rất tâm đắc, xin đóng góp một ít suy nghĩ sau đây để mọi người tham khảo.
Tôi bắt đầu bằng một câu chuyện thế này : ở Mỹ có một công ty phái nhân viên của ḿnh đi Âu châu khảo sát. Sau mấy tháng người ấy trở về làm báo cáo dầy cả 200 trang cho công ty, nói rằng về phương diện kỹ thuật cũng như quản lư châu Âu đều lạc hậu kinh khủng, không thể nào b́ được với Mỹ.
Khi ban giám đốc đọc xong bản báo cáo liền ra lệnh khai trừ nhân viên này. Tổng Giám đốc nói : " Chúng tôi gửi anh đi châu Âu để tận mắt khai thác những sở trường của họ chứ không phải t́m những sở đoản của họ. Chúng tôi không cần anh phát hiện những ǵ ḿnh đă làm tốt rồi. Chúng tôi cần biết những điểm họ mạnh hơn ḿnh và thấy được những khuyết điểm của ḿnh để sửa chữa. Chúng tôi không cần nghe những lời tự ca tụng, cái đó nghe nhiều sẽ bị ru ngủ, làm cho phẩm chất sản phẩm của chúng ta xuống thấp, công ty chẳng mấy lúc mà đóng cửa ".
Câu chuyện này có thể xem là một chuyện ngụ ngôn v́ từ nó chúng ta rút ra được một bài học lớn. Cái chúng ta cần hôm nay không phải là phát hiện những thứ hay ho của ḿnh mà t́m ra những cái ngăn chặn sự tiến bộ của dân tộc Trung Quốc, cho chúng ta thấy được nguyên nhân đang cản trở sự hùng mạnh của đất nước.
Lúc năy ăn cơm trưa, có vài người bạn quan tâm đến việc học tập của con cháu chúng ta, sự tốn kém của học phí đại học. Tôi cũng thấy được rằng người Trung Quốc dù khổ sở nghèo khó thế nào đi nữa cũng đều cố gắng cho con cháu ḿnh được học hành. Đó là một điểm mạnh, một ưu điểm của dân tộc Trung Quốc, tôi không cần các bạn nhắc lại quá nhiều nữa. Cái tôi muốn nói hôm nay là những khuyết điểm của dân tộc chúng ta. V́ chỉ nói ưu điểm th́ không thể tự cứu được ḿnh, muốn tự cứu được ḿnh phải biết nói lên những khuyết điểm của ḿnh.
Điểm thứ nhất :
Trung Quốc có lịch sử 5.000 năm. Trong 5.000 năm ấy, lực lượng phong kiến chà đạp lên phẩm giá, nhân tính con người không phải ngày càng giảm thiểu mà ngày một gia tăng.
Thời Xuân Thu Chiến Quốc, vua và quan c̣n gần như cùng ngồi ngang hàng nhau, có thể nói nằm cùng gường ăn cùng mâm. Đến thời Tây Hán, thế kỷ thứ II trước Công nguyên (206 BC-AD 25), Thúc Tôn Thông đặt ra nghi lễ triều đ́nh dưới triều hoàng đế Lưu Triệt vào lúc học phái Nho gia đang nắm quyền. Nghi thức này biến đế vương thành một thứ quyền uy, không những rất trang nghiêm, cung kính mà c̣n làm cho mọi người khiếp sợ.
Khi Đại thần vào triều kiến Hoàng đế có vệ sĩ kè kè bên cạnh, bất kỳ ai có thái độ không hợp quy cách, như kiểu vô t́nh ngẩng đầu lên nh́n một cái cũng có thể bị xử phạt. Những thay đổi này làm cho vua chúa xa cách nhân dân, lúc nào cũng giữ một khoảng cách, nhưng dưới trướng Hoàng đế các Đại thần vẫn c̣n có chỗ ngồi.
Đến thế kỷ thứ X dưới triều Tống (960- 1279) th́ cái địa vị này cũng không c̣n nữa. Việc Tể tướng cùng ngồi với Hoàng đế để luận đạo đă vĩnh viễn mất. Cái cải cách rất nhỏ này nhưng ư nghĩa rất lớn. Nghĩa là giữa vua tôi, quan dân khoảng cách càng ngày càng lớn.
Đến thế kỷ XIV dưới triều Minh (1368 - 1644), cái nhân phẩm c̣n bị chà đạp đến độ không tưởng tượng được. Nhà vua đối với thần dân của ḿnh khinh thị như cừu thù. Triều Minh này lập ra cái quan niệm " vua cha ". Vua là cha, Hoàng đế là bố của tất cả mọi người trong nước. Cái quan niệm này khi được thiết lập rồi lại sinh ra các hủ tục khác không kể xiết. Trong những thứ ấy, cái đáng sợ nhất là " đ́nh trượng ". Từ Tể tướng đến tiểu quan, chỉ cần bị xem là phạm pháp đều có thể bị nọc ra giữa cung điện, giữa công đường, hoặc ngay tại một chỗ công cộng, dùng gậy đánh cho đến thịt rơi máu văi. Cái chế độ " đ́nh trượng " kết hợp với tư tưởng " vua cha " làm cho ḷng tự trọng của người Trung Quốc gần như mất hẳn, làm cho nhân cách của họ hầu như không c̣n ǵ . Cách duy nhất để giữ được ḷng tự trọng là cố gắng không kêu la khi bị đánh. Để khỏi kêu la thường những viên quan kiên cường đă chà xát mặt xuống đất mạnh đến nỗi sau đó râu rụng không c̣n sợi nào. Thời đó, phản ứng duy nhất có thể làm được là như vậy, không có cách phản kháng nào khác.
Chúng ta thường bảo rằng dân Trung Quốc là một dân tộc có sức đồng hóa phi thường, và cho đến ngày nay vẫn đúng như vậy. Chúng ta có thể thấy bao lần trong lịch sử, sau khi chiếm được Trung Quốc, những dân tộc ngoại xâm cuối cùng cũng đều bị đồng hóa. Sớm nhất là thời Bắc Ngụy (368 - 534), Hiếu Văn Đế Thác Bạt Hoành (Hoằng) sau khi chiếm được Trung Quốc lại sử dụng hệ thống chính trị của Trung Quốc để cải cách, canh tân. Triều Măn Thanh cũng thế. Hai lần bị xâm lược lớn nhất này lại là hai lần thắng lợi lớn nhất của văn hóa Trung Quốc.
Nhưng ta phải chú ư điều này : Những kẻ xâm lược cố nhiên đều hấp thụ và kế thừa văn hóa Trung Quốc, nhưng lại tiếp thu cái phần kém nhất của văn hóa Trung Quốc, nên kết cục cũng chẳng ra ǵ. Thay v́ trở nên hùng mạnh th́ cả dân tộc họ lẫn dân tộc Trung Quốc lại càng suy thoái. Ví dụ như hoàng đế Bắc Ngụy là Thác Bạt Hoành tuyên bố cấm người Tiên Bi (Ty) nói tiếng Tiên Bi, nhất loạt đều dùng tiếng Trung Quốc, ngoài ra lại đổi tên họ ḿnh thành tên họ Trung Quốc, áp dụng chế độ cung đ́nh phong kiến, chế độ gia thế, quư tộc Trung Quốc mà họ không hề có. Trước kia họ là dân du mục trên các thảo nguyên, đầu óc khoáng đạt. Tôn ty trật tự, khoảng cách giữa các giai tầng xă hội không lớn lắm. Những thứ tốt đẹp đó đều bị phá hoại cả.
Thính giả: - Xin hỏi " đ́nh trượng " là thế nào?
" Đ́nh trượng " là " đánh đít ". Người bị đánh nằm sấp, bốn hoạn quan giữ tay chân buộc chặt vào cọc, sau đó dùng bao tải trùm đầu, hai hoạn quan đè đùi sát xuống đất. Vua ra lệnh đánh 100 trượng là đánh 100. Thông thường không đánh quá 100 trượng, v́ 100 là cũng đủ chết rồi. Bọn tay sai chấp hành lệnh quan sát sắc mặt vua. Nếu vua chỉ ghét thôi mà không muốn giết, th́ đánh xong 100 trượng, kẻ bị đánh vẫn c̣n có thể sống được. Nhưng nếu ư ông con trời kia lại muốn giết, th́ chỉ cần ba bốn mươi trượng là đủ toi mạng.
Nói chung các quan viên hay người có chức phận khi bị đánh phải đút lót cho bọn hoạn quan, bọn này sẽ dùng thủ pháp đánh kêu rất to, trông rất đau, máu thịt tơi bời, nhưng lại không phạm vào gân cốt, không chết người. Bọn này đều được huấn luyện đến độ có thể dùng giấy bọc một bó rơm, đánh cho rơm bên trong nát mà tờ giấy không hề rách. Ngược lại họ có thể đánh làm sao không để lại thương tích ǵ trên da thịt mà bên trong gân cốt đều nát bấy. Chế độ đánh đ̣n này làm nhân phẩm hoàn toàn bị phá sản. Thế kỷ XIV, XV tại châu Âu đă là thời Phục Hưng nhưng tại Trung Quốc, hỡi ôi ! vẫn c̣n là thời kỳ đánh đít.
Xin quay lại vấn đề. Dân Mông Cổ là một dân tộc rất kỳ quái, sau khi đă xâm nhập vào Trung Quốc vẫn giữ một thái độ chống đối văn hóa Trung Quốc. Trong ṿng 180 năm, lúc đến thế nào th́ ra đi thế ấy, không hề bị nhiễm văn hóa Trung Quốc.
C̣n nhà Thanh, sau khi được thành lập lại thừa kế cấu trúc xă hội và hệ thống chính trị của triều Minh, thời kỳ hắc ám nhất, làm cho chính quyền mới đă có mầm mống bị đục ruỗng để cuối cùng không thể nào cứu văn được nữa.
Nhân quyền bị chế độ phong kiến, xă hội phong kiến chà đạp trong một thời gian lâu dài như vậy cơ hồ chẳng c̣n ǵ. Cái ảnh hưởng của việc này rất lớn đối với người Trung Quốc, nó làm người Trung Quốc không giữ được ḷng tự trọng nữa.
Cái tự trọng c̣n lại chẳng qua cũng chỉ là cái tinh thần tự dối ḿnh như A Q trong truyện của Lỗ Tấn. Cái tinh thần đó và cái ḷng tự trọng chân chính khác nhau một trời một vực. Ví dụ tôi đến thăm anh, thấy anh nhà cao cửa rộng, học vấn uyên bác, trong ḷng tôi kính phục, hâm mộ anh. Trên đường về đáng lẽ tôi nghĩ phải cố gắng phấn đấu, làm việc, học hành để có thể được như anh. Đằng này lúc ra khỏi nhà anh tôi lại bảo: ở nhà đẹp thế! Không biết ăn cắp hay ăn cướp ở đâu ra lắm tiền! Cầu trời cho ngày mai có đám cháy thiêu trụi cái nhà nó đi cho rồi !
Tâm lư dân tộc ta bị ức chế lâu ngày chỉ biết dùng cái tinh thần đó để tự thỏa măn.
Điểm thứ hai :
Trong suốt 5.000 năm lịch sử, Trung Quốc chỉ có ba thời đại hoàng kim. Thời đại đầu là Xuân Thu Chiến Quốc (770 - 476 trước Công nguyên) - thời này có rất nhiều trường phái tư tưởng, nhiều lối sống khác nhau cùng xuất hiện. Thời đại thứ hai phải là đời Đường (618 - 907) - từ Đường Thái tông Lư Thế Dân đến Đường Minh Hoàng Lư Long Cơ khoảng 100 năm (650 - 756). Thời kỳ thứ ba là 100 năm đầu của nhà Thanh (1644 - 1911).
Trong 5.000 năm lịch sử Trung Quốc chỉ có ba thời đại hoàng kim này. C̣n hơn 4.000 năm kia, cơ hồ mỗi năm, thậm chí mỗi ngày đều có chiến tranh.
Một học giả Tây phương đă làm thống kê chứng minh rằng từ khi nhân loại có lịch sử đến giờ, không năm nào không có chiến tranh. Hiện tượng này đối với lịch sử Trung Quốc cũng chẳng khác.
Riêng tôi cũng đă làm qua thống kê, lại c̣n viết thành một bộ sơ cảo : " Lịch biên niên những thời đại chiến loạn của sử Trung Quốc " (Trung Quốc sử đại chiến loạn biên niên lịch) cho thấy ở Trung Quốc năm nào cũng có chiến tranh. Nhưng không thể đem Trung Quốc so sánh với thế giới được. Thế giới là một đơn vị quá lớn so với Trung Quốc, nhất là vào đời nhà Minh th́ bản đồ Trung Quốc chỉ bằng thời Tần ở thế kỷ thứ II trước Tây lịch, nghĩa là bằng khoảng một nửa bản đồ hiện nay.
Thế mà trong một bản đồ nhỏ như thế, mỗi năm đều có chiến tranh ! Chỉ căn cứ trên những chiến tranh lớn được ghi chép lại, các chiến sự nhỏ không thuộc phạm vi thống kê này, th́ cũng có thể thấy rằng loạn lạc, chiến tranh ở Trung Quốc đáng sợ vô cùng.
Khi một triều vua này thay thế một triều vua khác, cái thời kỳ quá độ đầy hỗn loạn có thể kéo dài từ 30 đến 50 năm. Từ lúc đoạt chính quyền đến lúc ổn định, lại cần khoảng 20 năm nữa. Rồi tiếp đó là cái ṿng luẩn quẩn bắt đầu bằng sự thối nát của chính quyền vừa đoạt được, các lực lượng phản kháng lại trỗi dậy, rồi kéo đến những hỗn loạn lớn. Chiến tranh lại bắt đầu, rồi cái ṿng trị loạn, tranh giành, chém giết cứ tiếp diễn.
Có thể nói rằng người Trung Quốc trường kỳ, thậm chí vĩnh viễn, sinh ra và lớn lên trong tham ô, hỗn loạn, chiến tranh, giết chóc, bần cùng, cho nên chẳng bao giờ có cảm giác được an toàn, lúc nào cũng hoảng hốt, lo âu.
Chúng ta có lịch sử lâu đời, lại có đất nước mênh mông, đầu óc tất phải khoáng đạt, lớn lao, cởi mở, tự tin. Thế mà ngược lại chỉ v́ bần cùng, giết chóc, đố kỵ một cách lâu dài thành ra ḷng dạ chúng ta thành hẹp ḥi.
Chỉ cần ngày hôm nay có thể qua đi là được rồi, ngày mai thế nào không cần biết. Chiến tranh sẽ c̣n kéo dài đến mức độ nào, ai mà thấy trước được ! Chiến tranh ảnh hưởng đến thủy lợi, thủy lợi bị phá hủy rồi th́ đến hạn hán lớn, sau hạn hán là đến nạn châu chấu.
Những tai họa này, hạn hán, ngập lụt, châu chấu, rồi đất hoang ngh́n dặm. Trong lịch sử, cái câu " Người ăn thịt lẫn nhau " không biết đă xuất hiện đến mấy chục lần hay mấy trăm lần. Nếu chúng ta nghĩ rằng chúng ta là một dân tộc có văn minh cao, sao lại có thể có cái hành vi dă man ấy ? Cũng chỉ v́ những tai nạn đối với chúng ta quá nhiều, lại bị tai nạn quá lâu !
Chẳng cần nói quốc gia dân tộc ǵ cả, chỉ nói từng cá nhân, một con người nếu bần cùng quá lâu ngày, quá ư khổ sở, người ấy rồi đối với bất cứ sự việc ǵ cũng đều sinh ra cái tâm lư nghi ngờ.
Mấy hôm trước khi ra tù, một quan chức kêu tôi ra bảo : " Tôi báo cho anh một tin mừng, anh sắp được thả rồi! ". Tôi nói: " Tôi chán thịt thỏ lắm rồi! ". Anh ta bảo: " Anh không tin tôi à? Tôi nói dối anh làm ǵ? ". Tôi phải yêu cầu anh ta đem giấy đến cho tôi xem.
Bởi v́ tôi đă từng quá tin, từng bị gạt quá nhiều, mỗi lần như vậy đều thất vọng. Một người bị nạn quá lâu có quyền không tin vào những tin tức tốt. Một dân tộc cũng vậy. Bị đày đọa lâu ngày, mọi người cho rằng sang một triều đại mới có thể rồi sẽ như thế này, thế nọ. Kết quả gần như không có một lần nào là không hụt hẫng.
Có người hỏi: tại sao Trung Quốc không có kiến trúc lớn mà nước ngoài lại có? - ấy là v́ các kiến trúc Trung Quốc thường làm bằng gỗ, dễ bị mục. Tôi cho rằng đó không phải là câu trả lời đúng mà nguyên nhân là v́ cứ sau mỗi một
triều đại mới lên là chúng lại bị đem đốt đi.
Nhà Tần để lại những cung A Pḥng đẹp như thế, nhưng Hạng Vũ cho rằng đó là mồ hôi nưới mắt của dân, do chính trị bạo ngược làm ra, bèn cho một mồi lửa. Chỉ mấy hôm sau, Hạng Vũ lại cho xây một cung điện khác. Rồi qua mấy hôm nữa sẽ có một kẻ khác phê b́nh cho rằng đấy là bạo chính, là mồ hôi nước mắt nhân dân, lại thiêu rụi đi. Cứ như thế mà đi đến chỗ măi măi nghèo xơ xác, không có cách nào mở mang được đầu óc, xây dựng được ḷng tự tôn.
Lại có câu cách ngôn " Đa nạn hưng bang " (nhiều nạn th́ dựng được nước). Trước tiên chúng ta cần hiểu rằng cách ngôn thuộc về cảm tính, trong một điều kiện đặc biệt nào đó, nó là chân lư, nhưng nó không hề có tính khoa học. Nếu " nạn " mà quá nhiều th́ làm cách nào " hưng bang " được ? Đối với cách ngôn nhất định cần có nhận thức.
Lại lấy một ví dụ nói " Ai binh tất thắng " (Quân lính đau buồn th́ sẽ thắng trận), điều này có thể không có ǵ là chắc chắn. Ai binh chẳng đă từng thất bại đầy rẫy! Một đội quân dù lớn mà rốt cuộc bị tiêu diệt, lúc đó không phải thành ai binh th́ là ǵ ? Giống như khi Carthage (Các-ta-giơ ở Bắc Phi) chống lại La-Mă, đến lúc cuối cùng cơ hồ cả nước đều là quân binh, có thể nói " vừa khóc vừa đánh ", kết cục vẫn bị La-Mă tiêu diệt. " Ai binh " chưa chắc đă thắng. " Nạn " mà quá nhiều chắc ǵ đă dựng được nước ? Phải nói rằng " nạn " nhiều đúng mức, đúng thời may ra mới có thể " hưng bang " được.
C̣n Trung Quốc th́ sao ? Dường như cái " nạn " lại quá nhiều. Cũng may là cái quá nhiều đó chưa đạt đến độ tiêu diệt cả chúng ta, nhưng cũng đă đến cái chỗ đủ nhiều để làm cho chúng ta mất cả linh tính.
Điểm thứ ba :
Chúng ta phát hiện được trong lịch sử Trung Quốc một hiện tượng kỳ quái mà các nước khác không có, đó là chế độ khoa cử, hay gọi tắt là " Quan trường ".
Nhật Bản hấp thụ văn hóa Trung Quốc một cách toàn diện. Không cái ǵ Trung Quốc có mà họ không từng tiếp nhận, từ cái nhỏ như manh chiếu (Tatami), đôi guốc (Geta), đến cái lớn như chế độ, tổ chức chính trị, v.v.., nhưng chỉ có một điểm mà họ không tiếp nhận, mà điểm này đă giúp họ trở thành một nước hùng cường rất nhanh chóng trong thời Minh Trị Duy Tân, đó là chế độ khoa cử.
Chế độ khoa cử Trung Quốc cũng có những tác dụng tốt, nhưng lại đẻ ra " vấn đề quan trường ". Quan trường là một cái mạng nhện kỳ quái, nh́n th́ không thấy, sờ không đụng, nhưng lúc bị rơi vào rồi mới biết. Ta không thể dùng chữ Bureaucrats tiếng Anh để dịch chữ " quan liêu " trong tiếng Trung Quốc được, bởi chữ này không lột tả hết được cái đặc trưng của nó. Quan liêu chẳng trung thành với quốc gia, lănh tụ ǵ cả, chỉ tận tâm tận lực với kẻ cất nhắc nó lên làm quan. Các triều đại Trung Quốc có thể thay đổi, song quan trường vẫn thế.
Người Măn Thanh sở dĩ thống trị được người Tây Tạng, người Mông Cổ, người Hán v́ biết nhắm vào nhược điểm của các dân tộc này.
Đối với người Tây Tạng họ dùng đạo Lạt-ma, mời những tăng lữ lạt-ma đến Bắc Kinh và đối xử với họ cực kỳ cung kính.
Đối với người Mông Cổ th́ họ dùng thủ đoạn hôn nhân, gả những công chúa cho những hoàng tử Mông Cổ, con cái lai sinh ra thành ra con cháu của ḿnh, đem chúng nuôi dưỡng ở cung đ́nh nhà Thanh. Các vương tử đó một khi lớn lên không thể nào phản lại chú bác cô d́ của chúng.
Trong khi đó công chúa Măn Châu không bao giờ lấy người Hán. Người Măn Châu trị người Hán bằng phương pháp khoa cử. Họ biết người Trung Quốc có cái khuyết điểm là thích làm quan. Nếu tôi cho anh cái hy vọng được làm quan th́ anh có thể ngoan ngoăn đem giao ngay hết cả ư thức dân tộc lẫn phẩm giá con người.
Sở dĩ " Quan trường " có cái bộ mặt của các xă hội thần bí v́ nó mang những tiêu chuẩn cư xử và những quan niệm về giá trị rất đặc thù.
Nó không trung thành với vua, vua thay th́ nó vẫn làm quan. Nó cũng không sợ mất nước, nước mất, chỉ cần nó vẫn được làm quan th́ nó vẫn làm. Cái xă hội ăn chơi, phù hoa là nơi các quan ra oai, tự nhiên h́nh thành một hệ thống tương hỗ bao che giữa các quan với nhau - một quan hệ vô cùng phức tạp.
Quyển sách " Quan trường hiện h́nh kư " là một quyển sách phân tích cái cấu trúc của chế độ quan trường Trung Quốc dưới cặp mắt nghiên cứu những vấn đề xă hội. Bởi v́ từ khi quan trường được thiết lập, những quan hệ giữa người với người tại Trung Quốc càng trở nên tinh xảo. Các vị ở Mỹ lâu năm có thấy rằng cái quan hệ giữa con người ở Mỹ so với Trung Quốc th́ quá đơn thuần không ?
ở Trung Quốc có một câu nói: " Làm việc th́ dễ, làm người th́ khó! ". Làm người là thế nào nhỉ ? Tức là làm sao cho cái quan hệ giữa con người với nhau được tốt đẹp.
Có một vở Kinh kịch (kịch Bắc Kinh) nhan đề " Thẩm đầu thích thang " (khám đầu t́m kẻ giết ông Thang) trong đó có một quan ṭa, một vị bồi thẩm và một góa phụ nhan sắc xinh đẹp mà chồng vừa bị mưu sát. Trong phiên ṭa người đàn bà góa ôm một đầu người đứng khóc. Nhiệm vụ của ṭa là phải xác minh xem đấy là đầu của ai. Nếu đúng là đầu của chồng bà ta th́ vụ án xem như có thể kết thúc. Nhưng nếu là đầu của một người khác th́ vụ án này c̣n liên quan đến rất nhiều người, và có thể sẽ c̣n nhiều người khác sẽ chết. Ông bồi thẩm có ư thích người đàn bà góa trẻ đẹp này, và bà này cũng ra ám hiệu cho ông ta biết là bà ta sẽ ưng thuận tái giá với ông ấy, nên ông này một mực rằng đấy là đầu của chồng bà ta. Nhưng sau khi xem chừng vụ án có vẻ xong xuôi, bà góa bèn tỏ ư không muốn lấy ông bồi thẩm nữa. Ông này cũng lập tức quay phắt ra nhất quyết bảo cái đầu ấy lại không phải là của chồng bà ta nữa. Vở kịch này tiêu biểu cho cái phản phúc trong quan hệ quan trường của người Trung Quốc chúng ta. Đầu thật, đầu giả cho đến phút cuối cùng cũng không ai có thể biết như thế nào.
Tôi nghĩ rằng trong chúng ta nhiều người đă về làm việc ở Trung Quốc hoặc sẽ về làm việc trong tương lai, tôi tin chắc khó khăn các vị gặp phải thường không dính dáng đến bản thân công việc, mà dính đến những người cùng làm việc với các vị.
Nói ví dụ anh làm việc ở một ḷ nguyên tử. Anh có biết ǵ về nguyên tử hay không, đó là một vấn đề thuộc công việc. Nhưng sẽ rầy rà to nếu một hôm anh cần một đinh ốc cho ḷ phản ứng mà người quản lư ốc vít lại nghỉ việc. Anh ta bị ốm, đương nhiên xin nghỉ, anh không thể cấm người ta ốm được. Nhưng sự thật anh ta lại không hề cảm cúm ǵ cả, chỉ nghỉ để đi đánh mạc chược? Tại sao?
Bởi v́ quan hệ giữa anh và người ấy không được tốt đẹp. Cái ḷ nguyên tử của anh có hoạt động được hay không, thậm chí có bị nổ tung đi nữa, cái việc ấy người đó cũng cóc cần. Nếu anh bảo nước nhà bị thiệt hại th́ cũng kệ, tôi cứ việc quan tôi làm.
Đó là cái đầu óc quan trường tích lũy từ mấy ngh́n năm, một chứng bệnh vẫn c̣n duy tŕ đến cuộc Bắc Phạt của quân Cách mạng Quốc dân năm 1928.
Về mặt quân sự, trong khi quân đội đánh dẹp các sứ quân ở miền Bắc, th́ về mặt chính trị cái chất độc của quan trường lại tràn xuống miền Nam. Trước kia giữa những đồng chí cách mạng t́nh cảm rất trong sáng, nhưng khi đă bị cuốn hút vào giới quan trường bỗng trở thành phức tạp ghê gớm, phức tạp đến độ một người lành mạnh không thể nào chịu nổi.
Cái quan hệ giữa con người với nhau trở thành một loại keo dính đến độ hễ dán vào rồi là không thể nào gỡ ra được nữa. Có ai trong các vị thấy điều đó khi về nước không?
Lấy một ví dụ khi anh về nước, bạn bè mời anh đi ăn cơm, anh dám cả gan từ chối th́ t́nh bạn sẽ từ đó bị sổ toẹt ngay. Đó là đặc tính của quan trường, nó làm cho quan hệ con người trở nên khúc mắc ghê gớm. Tại sao lại như thế ? Tại sao anh ta phải xử sự như vậy ? Bởi v́ làm như thế th́ cái địa vị của anh ta mới càng thêm vững chắc.
Tôi có một người bạn về Đài Loan được một người chưa hề quen mời ăn cơm. Sau khi ăn xong, người này mới nhờ anh đem dùm về Mỹ một món đồ. Người này làm ra vẻ nhờ vả rất tự nhiên, như thể bạn bè vẫn thường giúp đỡ nhau chứ không phải đánh đổi một bữa cơm để lấy chuyện đưa đồ.
Cái hiện tượng quan trường là như vậy, giống kiểu anh làm ḷ nguyên tử, cái ḷ phản ứng hạt nhân này rất nguy hiểm không phải ai cũng mó vào được. Nhưng người nọ lại cho rằng đă là bạn bè với nhau cho anh ta sờ đến một cái th́ đă sao.
Thường thường một người trước khi làm quan và sau khi được làm quan là hai loại người khác nhau. Thật ra nói như vậy không lô-gíc. Chỉ có thể nói rằng hễ cái " quan tính " của một người càng hưng thịnh th́ cái nhân tính của người đó càng biến mất đi. Không c̣n nhân tính nữa, chỉ c̣n cái quan tính lúc làm quan. Cho đến một ngày tất phải về hưu, lúc đó cái nhân tính may ra mới hồi phục.
Sự tồn tại của quan trường làm cho cách làm việc tại Trung Quốc trở thành rất đặc biệt, khiến cho quỹ đạo của sự phát triển văn hóa đi lệch hướng.
Điểm thứ tư :
Tôi cho rằng Khổng Khâu (Khổng Tử) là một nhân vật vĩ đại, tri thức uyên bác, lại có một tấm ḷng nhân hậu và những cống hiến lớn đối với xă hội. Cái Nho giáo do Khổng Khâu cùng những học phái Nho gia sau này lập ra đều đă ảnh hưởng đến người Trung Quốc một cách sâu rộng, và c̣n ảnh hưởng ngay cả đến chúng ta ngày nay. Nhưng tinh thần nhà Nho là một tinh thần bảo thủ, nói một cách nghiêm túc hơn th́ nhà Nho không những rất bảo thủ mà c̣n phản tiến bộ.
Chữ " Nho " này vào thời Xuân Thu Chiến Quốc chỉ được dùng theo nghĩa sử dụng trong nghi lễ cúng tế. Một nhà Nho là một người hiểu biết cái tŕnh tự cúng tế. Gặp lúc quốc gia cần các nghi lễ mới cần loại người này đóng góp ư kiến. Bản chất loại người này vốn nệ cổ. Thời đó chưa có lễ nhạc mới, phải dùng lễ nhạc thời cổ. Để có miếng cơm nhà Nho phải giữ ǵn sao cho nghề nghiệp của họ được ổn định nên sinh ra thói nệ cổ. Nếu chúng ta không dùng từ nệ cổ, sùng bái những cái cũ, v́ cho rằng nó có nghĩa xấu th́ cũng phải bảo là họ rất bảo thủ.
Cái tinh thần bảo thủ này ở Trung Quốc đă trở thành một ư thức bền bỉ, làm cho xă hội mất hết sức sáng tạo, mất tập quán tự t́m hiểu, tự phê phán.
Bạn bè lúc nói chuyện về nước Mỹ (xin lỗi, tôi cứ múa búa trước cửa Lỗ Ban, tôi muốn nói chơi thôi, xin quư vị cứ nghe chơi chứ đừng tin thật! ), có người nói về việc đàn áp chủng tộc, nào tàn sát dân da đỏ, ngược đăi da đen, kỳ thị da vàng. Tôi đă từng đi tham quan đảo Angel (En-giơn), đă được nh́n thấy chữ và những ḍng thơ người Trung Quốc để lại nói lên những sầu thảm và đau khổ của đời họ.
Những khuyết điểm này của nước Mỹ có thật không ? Dĩ nhiên là có thật, thậm chí c̣n hơn sự tưởng tượng của chúng ta nữa. Nhưng chúng ta phải lưu ư thêm một vấn đề khác, đó là đối với các khuyết điểm kia họ có khả năng sửa đổi không? Tự họ có ư thức được vấn đề không ? T́nh h́nh hiện nay so với trước có khá hơn không ? Nếu không th́ tiền đồ của nước này chắc chắn cũng không sáng sủa ǵ. Nếu có th́ chúng ta phải thấy rằng đấy là một quốc gia vĩ đại, có một sức sống dồi dào.
Trước kia nước Mỹ có " cây treo cổ người ", bây giờ không c̣n nữa. Xưa kia nước Mỹ đối với tù nhân có dùng " nhà lao nước ". Bây giờ khi bắt bớ người, họ phải đọc điều thứ 9 của Hiến pháp cho người ấy. Nước Mỹ đă có những điều sai lạc, nhưng lại có năng lực sửa sai.
Nhưng dân tộc Trung Quốc chúng ta lại hoàn toàn không có năng lực này. T́nh trạng nệ cổ lâu dài, không cầu tiến, bảo thủ, đă làm cho cái năng lực này tiêu tan.
Nh́n lại lịch sử chúng ta sẽ thấy Thương Ưởng - một nhà tư tưởng đời Tần - đă dùng luật pháp biến đổi nước Tần như thế nào. Trước đó dân chúng sinh hoạt trong gia đ́nh, bố mẹ, con cái, anh chị em, lớn nhỏ đều nằm chung trên một giường gạch lớn ( cái kháng, một loại giường xây bằng gạch hoặc đất, ở dưới có bếp lửa vừa để nấu ăn vừa sưởi ấm vào mùa đông).
Thương Ưởng dạy họ cách sống văn minh bằng cách bắt bố mẹ, con cái không được ngủ chung pḥng, anh trai, em gái cũng vậy. Điều này cho thấy vào thời đó chúng ta là một quốc gia man rợ và lạc hậu đến dường nào.
Thương Ưởng chẳng phải đă phát minh ra bom nguyên tử, cũng không phải đă cải cách về mặt vật chất, nhưng đă dùng pháp chế để tạo ra một chế độ mới, một xă hội mới, giáo dục con người về mặt văn hóa. Và cải cách đó của ông cơ bản đă thành công.
Thương Ưởng là người của thế kỷ thứ IV trước Tây lịch. Hơn 2.000 năm sau đó chưa có ai đột phá thêm một lần nữa, làm được những cải cách cơ bản như vậy. Cứ mỗi lần có người muốn đột phá, cuối cùng đều thân bại danh liệt, cửa nhà tan nát, tính mạng không c̣n. Chính số phận Thương Ưởng rồi cuối cùng cũng bị ngũ mă phân thây. Nho gia học phái thường thường vẫn lấy cái kết cục bi thảm của Thương Ưởng để răn đe những kẻ muốn cải cách và uy hiếp sự tiến bộ của người Trung Quốc.
Trong lịch sử Trung Quốc c̣n có một nhà cải cách lớn nữa là Vương An Thạch, một người mà đạo đức, học lực cùng sức làm việc đều không có chỗ nào có thể chê được. Nhưng những cải cách của ông toàn gặp trắc trở lớn. Trương Cư Chính cũng vậy, ông cũng gặp một kết cục thê thảm như Thương Ưởng, lúc vừa mất th́ nhà bị niêm phong, con bị bỏ đói cho chết. Rồi đến cuộc cải cách năm Mậu Tuất (1898) của Khang Hữu Vi cũng chẳng khác ǵ, tất cả đều thất bại !
Nho gia học phái có một cách nói : " Nếu không có lợi mười phần th́ không cần cải cách ! " (Lợi bất thập, bất biến pháp). Đại ư muốn nói rằng nếu lợi ích không đạt 100 % th́ không nên cải cách. Cái quan niệm này là một nguyên nhân lớn nhất làm cho dân tộc Trung Quốc chúng ta không thể tiến bộ, không thể hùng mạnh được. V́ bất cứ một cải cách nào cũng không thể đem lại mười phần mười lợi ích cả. Chỉ cần đạt lợi ích lấy năm phần rưỡi của mười phần cũng là lớn lắm rồi.
Tối hôm qua có vài vị nói chuyện về vấn đề phiên âm tiếng Hán, có người đề cập đến khuyết điểm này, có người nói đến khuyết điểm khác, nhưng trên đời này thử hỏi có cái cải cách nào mà không có khuyết điểm ? Cái th́ có vấn đề về mặt t́nh cảm, cái th́ về mặt lư luận. Nếu anh muốn 100 % không có vấn đề th́ trên đời này làm ǵ có được cái chuyện quái dị đó.
V́ tinh thần nhà Nho vốn bảo thủ nên có lần một vị hoàng đế triều Tống hỏi Tư Mă Quang: " Có nhất định cần cải cách không? Ví như cứ giữ được luật pháp của Tiêu Hà từ triều Tây Hán mà không thay đổi ǵ có được không? " Tư Mă Quang đáp: " Đương nhiên là được, bởi v́ có quá nhiều kẻ ngông cuồng, bọn hiếu sự cứ muốn sửa đổi lăng nhăng chỉ tổ tạo dịp may cho đạo tặc hoành hành. Nếu không muốn thay đổi ǵ th́ những phong tục tốt đẹp từ thời Nghiêu Thuấn cũng có thể giữ đến ngày nay ".
Tư Mă Quang là một kiện tướng trong giới quan trường thời bấy giờ. Cái loại sâu mọt hại nước, hại dân này là một trở lực cực lớn cho sự tiến bộ của Trung Quốc.
Lúc vừa lên Tể tướng, việc đầu tiên Tư Mă Quang làm là xóa sạch toàn bộ những luật pháp mới của Vương An Thạch, gồm cả đạo luật rơ ràng mười phần hiệu quả về cách tuyển người (Mộ dịch pháp). Tô Đông Pha và con của Phạm Trọng Yêm là Phạm Thuần Nhân đều đứng ra phản đối. Tư Mă Quang liền trở mặt ngay với họ.
Điều này cho thấy ở thời đại Bạn Cước Thạch bọn quan trường chẳng kể thị phi, chẳng nghĩ đến lợi ích nhân dân, chẳng trung thành ǵ với nguyên thủ quốc gia, mà chỉ trung thành với lợi ích bản thân.
Tư Mă Quang thật ra cũng chẳng phải là một nhà chính trị ǵ cả, bất quá chỉ là một tên quan trường dơ bẩn thế thôi.
Điểm thứ năm :
Vấn đề cuối cùng tôi muốn nói là cái tác hại của nạn dân số quá đông. Cứ sau các cuộc nội chiến, thay đổi triều đại là dân số nổ bùng. Thế rồi cái ṿng luẩn quẩn bi thảm lại bắt đầu : chiến tranh, tàn sát, tử vong.
Có người bảo cái đất Mỹ sướng quá, mức sống cao thế ! Không biết các vị có chú ư một điều là dân số Mỹ chỉ có 260 triệu người. Giả sử dân số Mỹ tăng lên một tỷ người hoặc tất cả dân Trung Quốc lại dọn sang Mỹ ở th́ t́nh h́nh sẽ ra sao ?
Vấn đề dân số là một vấn đề nguy ngập. Nếu Trung Quốc muốn trở nên giàu mạnh tất phải liều mạng giảm dân số.
Có câu nói " Nhiều người th́ làm băng băng, ít người th́ ăn bánh ḿ hấp " (một loại bánh rẻ nhất). Thời xưa th́ có thể như thế thật nhưng thời nay th́ không. Người nhiều quá chỉ tổ thất nghiệp. Một trăm người làm chẳng bằng một cái điện năo (máy vi tính).
Câu " ít người th́ ăn bánh ḿ hấp " là một chân lư đă lỗi thời. Thu nhập gia đ́nh nuôi hai, ba đứa con th́ c̣n đủ để duy tŕ một mức sống tương đối khá. Nhưng nếu chẳng may không để ư mà có 200 đứa, th́ lấy ǵ mà nuôi chúng nó ? Tiền ăn, ở, tiền học, tiền quần áo,... lấy đâu ra ?
Trung Quốc người quá đông, nghèo khổ quá lớn, quan trường quá mạnh, cạnh tranh quá khắc nghiệt, những lư do này sinh ra nơi người Trung Quốc cái hiện tượng bẩn, loạn , ồn, xâu xé lẫn nhau. Người Trung Quốc có câu " Khí thế hung hăng " (lai thế hung hung) để nói việc chúng ta không biết đối xử với nhau một cách có lễ độ.
Lúc tôi ở Los Angeles (Los Angeles) có người hỏi tôi cảm tưởng về nước Mỹ. Tôi bảo nước Mỹ là một nước trọng lễ nghĩa. Lại hỏi thế Trung Quốc có phải là một nước trọng lễ nghĩa không ? Tôi cho là Trung Quốc là một nước tuyệt đối không trọng lễ nghĩa. Người Trung Quốc thật thô lỗ, hầu như lúc nào cũng chuẩn bị sẵn một đ̣n để đánh phủ đầu đối phương.
Các vị chắc chắn có thể thấy người Trung Quốc rất ít cười. Phải chăng v́ quá nhiều hoạn nạn, đau khổ, sầu năo quá lâu làm cho họ không thể cười nổi nữa ? Cho nên tôi mới thấy dân Mỹ thật là rất vui sướng, ít nhất đó là nước Mỹ mà tôi gặp, tôi tiếp xúc. Một nước rất hạnh phúc, lương thiện, hay giúp đỡ người khác. So sánh với người Mỹ th́ người Trung Quốc lúc nào cũng lo âu, ḷng đầy những ư tưởng hận thù, chỉ sợ người khác làm cho ḿnh thiệt hại. Trong cuộc sống lúc nào cũng lo ngay ngáy, đôi mắt để tự vệ lúc nào cũng sẵn sàng long lên ṣng sọc.
Có người nói ở Mỹ người ta kỳ thị chủng tộc. Dĩ nhiên là có, nhưng sự thật là không phải chỉ riêng ở Mỹ. ở nước nào mà không có kỳ thị chủng tộc ? Nhưng ít nhất nước Mỹ cũng c̣n bao dung chúng ta, không những bao dung con người mà c̣n dung túng cả những cái bất lịch sự, dơ bẩn, hỗn loạn, ồn ào và sự xâu xé lẫn nhau của chúng ta nữa.
Đấy là những điều tôi đă " khảo sát " được khi đến Mỹ. Tôi rất tâm đắc và nói ra thành thực không dấu diếm. C̣n những ưu điểm của chúng ta, không cần nhắc lại làm ǵ, v́ có nói đi nói lại nó vẫn c̣n đó, không nói nó cũng chẳng đi đâu mất. Tôi chỉ nhắc đến khuyết điểm để chúng ta có thể tự phản tỉnh. Những khuyết điểm này vô cùng nghiêm trọng. Cái hũ tương văn hóa của chúng ta chứa đựng biết bao vấn đề phức tạp. Phải làm sao bây giờ ?
Tôi xin có vài ư kiến sau đây :
Những vấn đề này - nếu là vấn đề - th́ đối với chúng ta cái phản ứng đầu tiên như một con người là phải tự ḿnh t́m ṭi, suy nghĩ. Từ mấy ngh́n năm nay, toàn những người khác - thánh nhân, các quan lớn hoặc những loại người như thế - đă thay chúng ta suy nghĩ. Tự ḿnh, chúng ta thấy không cần suy nghĩ hoặc không dám suy nghĩ xem nên làm thế nào mới đúng. Người Trung Quốc tựa hồ cứ như kẻ có nhu cầu luyện tập cho ḿnh thành người ngốc đi.
Sau khi báo chí Đài Bắc đăng tin con trai tỷ phú Rockefeller (Rốc-cơ-phê-lơ) đi thám hiểm New Guinea (Tân Ghi-ne) bị thổ dân ăn thịt, tức th́ có nhiều người bảo : " Có phúc mà không biết hưởng, ḿnh mà như nó th́ đi Ghi-nê làm khỉ ǵ ! "
Khi ở Phoenix (Phê-nic) tôi trú chân lại nhà một gia đ́nh Mỹ khoảng năm, sáu ngày. Con gái chủ nhà tên là Margaret (Ma-ga-rét), 16 tuổi đă đi Honduras (Ôn-đu-rát) để dậy cho người bản xứ hiểu được cách giữ ǵn đôi mắt. Tŕnh độ vệ sinh ở nước này c̣n tệ hơn ở Trung Quốc nữa, nghĩa là một nơi rất bẩn. Thế mà đúng lúc tôi ở đó th́ cô ta về nhà, kể chuyện cho mẹ nghe, mặt mày hớn hở bảo rằng sang năm cô sẽ lại đi nữa, v́ cô thấy cần giúp đỡ những người nghèo và lạc hậu ở nơi đó. Mẹ cô không những đồng ư mà c̣n khích lệ cô.
Người Trung Quốc chúng ta có lẽ sẽ nghĩ rằng nếu là ḿnh chắc chẳng cần đi đến cái nơi khỉ ho c̣ gáy đó làm ǵ. Nhưng người mẹ ở nước Mỹ kia lại ca ngợi con gái ḿnh, cho rằng con gái ḿnh có ư thức, có ḷng tốt, biết tỏ ra có thể xả thân v́ người khác, và v́ vậy rất lấy làm hănh diện. Thật ra đối với tôi bà ta cũng chẳng có nhu cầu khoe khoang cái ḷng tốt của cô con gái làm ǵ. Mà tôi cũng không thể cho cô ta làm quan hay tiền bạc ǵ cả. Dưới mắt của bà ta chẳng qua tôi cũng chỉ là thành viên của một dân tộc lạc hậu mà thôi. Cái động cơ trong thâm tâm người mẹ ấy chỉ là ḷng chân thành.
Trong những hoàn cảnh tương tự người Trung Quốc lúc nào cũng sẽ quá thông minh. Bởi tôi nghĩ rằng trên thế giới này không dân tộc nào, kể cả dân tộc Do Thái, có thể thông minh như kiểu người Trung Quốc được. Nếu một đối một, người Trung Quốc tất phải thắng. Nhưng nếu từ hai trở đi, người Trung Quốc không thể nào không thua, bởi tựa hồ như thiên tính của người Trung Quốc là không đoàn kết được với nhau. ư nghĩa của đoàn kết là mỗi người đều phải hy sinh một phần quyền và lợi của ḿnh. Ví dụ, có hai vật h́nh tṛn muốn dính sát lại với nhau th́ phải gọt ra thành hai h́nh vuông bé hơn một tư. Nhưng chả ai muốn ḿnh bị gọt cả, chỉ muốn người khác bị gọt thôi, kết cục làm sao đoàn kết được ?
Người Trung Quốc thông minh đến mức nào ? Đến độ khi bị đem đến ḷ sát sinh, c̣n cố c̣ kè về giá cả của ḿnh, nếu kiếm thêm được vài đồng th́ chết rất hả hê.
Cái kiểu thông minh quá cỡ này nhất định sẽ thành kiểu ích kỷ quá cỡ. ở Trung Quốc người nào mà không suy nghĩ một cách ích kỷ, cư xử một cách ích kỷ đều bị chế diễu là ngu ngốc.
Người Trung Quốc không khoan dung, hễ ai có tâm địa tốt, rộng lượng với người khác, tán dương người khác đều bị chửi là đồ ngốc. Có người tát anh mà anh lại phản kháng, có người phạm pháp mà anh lại can ngăn th́ anh đúng là ngốc. Hễ cứ làm một việc mạo hiểm để sau đó không thể làm quan, hoặc không thể phát tài, là mọi người đương nhiên cho anh là thằng ngốc.
Tôi cho rằng để cứu dân tộc ḿnh, mỗi người Trung Quốc cần có ít nhiều cái ngốc đó, nếu không rồi cũng sẽ dần ṃn suy đồi như dân da đỏ.
Tục ngữ có câu : " Người không ích kỷ th́ trời tru đất diệt " (nhân bất tự tư, thiên tru địa diệt), nghĩa là ai mà không ích kỷ th́ bị người khác xem là không có cách ǵ cứu chữa được. Chúng ta không thể nào tự ḿnh bắt đầu, không cần dựa vào chính phủ hoặc người khác mà vào chính bản thân ḿnh để làm một vài điều mà mọi người cho là ngốc nghếch chăng ?
Để kết luận, tôi cho rằng chúng ta đừng nên làm cho cái quan hệ con người trở thành phức tạp. Phải bắt đầu bằng sự rèn luyện bản thân ḿnh, con cái ḿnh. Ví dụ trẻ con ở Mỹ được mẹ chúng dạy cách thu dọn, lau chùi bàn ăn, vứt rác vào thùng sau khi ăn xong. Những thứ giáo dục đó phải bắt đầu từ bản thân, bắt đầu từ tấm bé. Sự huấn luyện này phải bắt đầu như một khởi điểm cũng như một lịch tŕnh.
Người Trung Quốc có rất nhiều đức tính, nhưng đáng tiếc chúng chỉ ở trên sách vở. Bây giờ chúng ta mong rằng chúng sẽ xuất hiện trên hành động. Hăy thử xem chúng ta có làm nổi hay không ?
Tôi xin dứt lời v́ đă lạm dụng quá nhiều th́ giờ của quư vị, xin thứ lỗi và xin chỉ giáo.
?@
Phần thảo luận
Thính giả : Ông vừa nói đến chế độ phong kiến dày xéo nhân quyền, cụ thể trong thời nhà Minh. Thực ra t́nh h́nh phương Tây th́ có khác ǵ ? Tôi nghĩ văn hóa hóa Tây phương cũng trải qua những thử thách của thời đại quân chủ chuyên chế như vậy, nhưng tại sao họ lại có thể đẻ ra được quan niệm nhân quyền và chủ nghĩa tự do mà Trung Quốc cho đến ngày nay vẫn không làm được ?
Bá Dương : Rất tiếc tôi không thể trả lời vấn đề này. Cứ cho rằng chúng ta không thể hiểu được v́ sao người phương Tây lại ăn bằng dao nĩa mà người Trung Quốc lại ăn bằng đũa. Văn hóa phát triển dần từng bước, hai nền văn hóa này từ thuở xa xưa không có ǵ dính dáng với nhau, không có khả năng ảnh hưởng lẫn nhau, mỗi cái phát triển theo mô h́nh riêng của nó. Sinh hoạt của từng cá nhân và vận mệnh của mỗi dân tộc thường bị những yếu tố rất lớn hoặc đôi khi rất nhỏ làm chuyển đổi phương hướng. Nhưng chúng ta lại không hiểu cái nhân tố lớn, nhỏ ấy là cái ǵ và ở đâu.
Thính giả : Những điều ông vừa nói làm chúng tôi cảm thấy buồn về cái thời trẻ tuổi lạc quan của chúng tôi. Tôi thuộc vào thế hệ những người lớn lên sau chiến tranh, và từ trước đến giờ tôi vẫn cho rằng thế hệ chúng tôi từ cách suy nghĩ cho đến nếp sống xă hội đều nhất nhất không giống thế hệ đàn anh.
Nói ví dụ, hiện giờ tôi không làm quan chức ǵ, nhưng biết đâu có một ngày nào đó tôi lại chẳng có một chức vị, để rồi chỉ có quan tính mà mất nhân tính. Nhưng dù có rơi vào trường hợp đó, tôi tin rằng cái quan tính của tôi so sánh với quá khứ vẫn ít hơn một tư, mà nhân tính nhiều hơn một tư. Tuy nhiên hôm nay ông nói vậy, tôi lại thấy không giống cách nghĩ của tôi.
Bá Dương : Tôi nghĩ tôi chỉ nói lên sự thực lịch sử. Nhưng v́ thời đại và hoàn cảnh vẫn đổi thay, giáo dục tiến triển, có thể ngày nay rồi sẽ không như thế nữa. Vả lại tôi tin tưởng vào sự thành tâm của anh và tin rằng anh sẽ làm được chuyện ấy.
Thính giả : Tôi vẫn thấy cách giải thích của ông khác tôi.
Bá Dương : Tôi cần nhấn mạnh thêm rằng cái chuyên chế chính trị ở Trung Quốc với cái chuyên chế chính trị của Tây phương về nồng độ và kích thước hoàn toàn không giống nhau.
Tôi học sử phương Tây không nhiều, nhưng nếu đem so sánh th́ chuyên chế Trung Quốc rất cực đoan.
ở cung đ́nh phương Tây chỉ quỳ một gối, trừ phi đối với thượng đế th́ mới quỳ hai gối. ở Trung Quốc không những phải quỳ cả hai gối mà c̣n phải khấu đầu, thậm chí đập đầu xuống đất cho kêu thành tiếng (Khải hưởng đầu).
Cuối đời nhà Thanh có câu : " Đập đầu nhiều, nói ít " (Đa khải đầu, thiểu thuyết thoại). Cái khái niệm nội tại cùng tŕnh độ của chuyên chế Trung Quốc e rằng Tây phương không thể so sánh nổi.
Tôi được thấy một bức tranh sơn dầu vẽ Louis XIV (Lu-is XIV) của Pháp. Ông này ngồi giữa, các đại thần và hoàng hậu ngồi chung quanh. Cái cảnh này không thể nào có ở Trung Quốc được, các đại thần ở Trung Quốc nhất định phải nơm nớp lo sợ, lấm la lấm lét quỳ mọp chung quanh.
Thính giả : Xin ông cho biết ư kiến về chữ giản thể (chữ Hán đơn giản hóa, dùng ở lục địa, so với chữ cũ nhiều nét vẫn dùng ở Đài Loan).
Bá Dương : Tôi tán thành chữ giản thể, lại càng tán thành việc phải phiên âm tiếng Trung Quốc. Tối hôm qua nhiều bạn tụ tập nói chuyện về vấn đề này, đại khái không ai nhất trí. Cái tâm lư bị bế tắc của những người phản đối chữ phiên âm cần phải được giải tỏa.
Lấy ví dụ, lúc gọi điện tôi hỏi anh họ ǵ? - Tôi họ Lưu! Chữ Lưu này viết thế nào có lẽ trên điện thoại khó mà giải thích cho rơ ràng được. Nếu tôi bảo anh đi tra từ điển, dĩ nhiên không phải tra được ngay, tra đến lần thứ hai, thứ ba vẫn không thấy chắc phải nổi điên lên.
Ngày xưa chúng ta trách cứ cổ văn không có dấu chấm câu, không biết ngắt câu thế nào và hiểu làm sao. Có ai đọc qua " Sử đời Nguyên " chưa ? Tên Mông Cổ như mớ ḅng bong, dài ḷng tḥng không biết là mấy người. Ngày nay tuy đă có dấu chấm câu, nhưng những khuyết điểm lớn của cái loại chữ vuông này lại càng lộ rơ.
Vấn đề đầu tiên là tách chữ. V́ tiếng Trung Quốc có nhiều từ ghép, dù biết hết các chữ đơn ở trong câu cũng chưa chắc đă hiểu.
Sau đó là không thể phiên âm. Loại chữ vuông này thông thường chữ nào đọc riêng chữ đó, không thể dính liền âm tiết lại với nhau, nên phải phí rất nhiều sức lực để tập trung mới hiểu được ư từ những âm tiết rời rạc đó. Ví dụ tôi nói " Tôi từ Mă-lai-xi-a đến " (Ngă ṭng mă lai tây á lai), ở đây chữ Malaisia phải liên âm và cách âm với chữ lai sau đó. Nếu không " Mă lai " (ngựa đến), " Tây á lai " (Tây á đến), và nếu có em bé nào lại lấy tên là Tây á th́ câu nói này lại thành vấn đề lớn.
Ngày nay máy chữ, điện năo (máy tính điện tử) đánh nhanh biết bao, tôi chỉ sợ rằng cái thứ chữ vuông này không thể nào bắt kịp bước tiến. Tôi chỉ mơ ước có được một cái máy đánh chữ tiếng Trung Quốc để khỏi phải ngày ngày làm cái loại động vật ḅ lên trang giấy.
Nhưng phiên âm tiếng Trung Quốc không phải dễ, chủ yếu v́ cái trở ngại tâm lư nơi chúng ta, v́ chúng ta cho rằng dùng ABCD là dùng mẫu tự tiếng Anh, chữ phiên ra là tiếng Anh. Kỳ thực không phải như vậy. Chúng ta phải hiểu là chữ ABCD này là mẫu tự Trung văn. Chữ phiên ra là chữ Hoa, không đến nỗi có cảm giác nhục nhă v́ bị đồng hóa. Đúng vậy, nó là tiếng Trung Quốc, tiếng Hoa chứ không phải tiếng Anh, tiếng Đức. Nếu dùng ABCD mà lại thành tiếng Anh th́ người Đức, người Pháp có thể tức chết được.
Văn tự hoàn toàn là công cụ, giống như cái xe, anh mua nó th́ nó là của anh, ai mua nó th́ nó là của người đó. Kỳ thực nếu chúng ta dùng văn tự phiên âm ngay hôm nay, người chết đói đầu tiên sẽ là tôi v́ tôi đang dùng cái loại chữ vuông này để kiếm cơm. Nhưng tôi cảm thấy sinh mệnh của riêng ḿnh rất ngắn ngủi, những lư do chính trị cũng rất ngắn ngủi, chỉ có văn hóa dân tộc là quan trọng, rất quan trọng. Nhất là các vị tại Mỹ, các vị có thể thấy con cháu đời thứ hai nói được tiếng Trung Quốc mà không viết được. Khó như thế th́ làm sao mà dậy chúng ?
Cứ như chữ Quốc ( ) [ nước ] viết thế nào ? Muốn biết nó chỉ có cách học thuộc ḷng, không có phương pháp nào khác. Ngay cả lúc trẻ con gào lên : " Tôi ghét tiếng Trung Quốc! " mà chúng ta vẫn c̣n chưa thức tỉnh sao? Chúng ta không thể làm cho những khó khăn trên đường tiến bước của Trung Quốc tăng thêm, không thể tự xích tay, cùm chân được.
Tại sao lại phải sống cho quá khứ, cho tổ tiên thay v́ sống cho con cháu ḿnh? Nếu chỉ v́ phiên âm mà rồi không đọc được sách cổ nữa th́ cũng chả sao. Hiện giờ chưa phiên âm mà anh đọc cũng đă chẳng hiểu rồi c̣n ǵ !
Việc quá khứ, việc tổ tiên, chúng ta có thể nhờ một số người để chuyên đi quét dọn miếu đường. Chúng ta phải v́ con cháu, v́ thế hệ sau này, v́ tương lai của nước nhà và dân tộc. Một ngày nào đó, nếu tiếng Trung Quốc bỗng nhiên trở thành tiếng quốc tế, chắc chắn nó không thể phổ cập được trừ phi dùng phiên âm.
Hôm nay tôi nhai đi nhai lại những khuyết điểm của Trung Quốc chắc có người nghe bị mất tinh thần. Nhưng tôi thấy rằng cần như vậy, v́ nếu cứ lải nhải khoe khoang những ưu điểm, đức hạnh, sự thông minh của ḿnh, rồi sẽ chẳng c̣n ai tôn trọng ḿnh nữa, v́ chính ḿnh đă không tôn trọng ḿnh ǵ cả.
Các bạn nên biết, những hoạn nạn của người Trung Quốc, không phải là chỉ của riêng người Trung Quốc mà c̣n là của cả thế giới. Một chiếc thuyền nhỏ ch́m th́ không sao, một chiếc tầu lớn bị ch́m có thể cuốn theo vào ṿng xoáy nước của nó những chiếc thuyền nhỏ xung quanh.
Tại sao Nhật Bản lại đến xâm lược chúng ta ?
Chính v́ sự yếu đuối của chúng ta đă dụ dỗ họ ra tay. Chúng ta phải tự cứu lấy ḿnh. Điều đầu tiên để tự cứu là phải biết được những khuyết điểm của ḿnh. Nếu không tự biết những khuyết điểm của ḿnh th́ chẳng khác ǵ suốt ngày chỉ nghĩ đến những chuyện đắc ư, chỉ sợ rồi cũng như Giả Bảo Ngọc (một nhân vật trong Hồng Lâu Mộng) suốt ngày luẩn quẩn với những ư tưởng dâm dật.
Thính giả : Tôi thường nghe được hai câu này - " Dĩ bất biến ứng vạn biến " (Lấy sự không thay đổi để ứng phó với mọi thay đổi), và câu " Báo thiện bất báo ưu " (Đáp lại bằng điều thiện, không đáp lại bằng sự lo buồn).
Bá Dương : Đối với câu " Dĩ bất biến ứng vạn biến " th́ tôi không dám có ư kiến ǵ, c̣n câu " Báo thiện bất báo ưu " tôi cho rằng đấy chỉ là một đặc trưng của giới quan trường.
Thính giả (người Mỹ) : Hôm nay h́nh như ông chỉ nói về khuyết điểm của người Trung Quốc, tôi muốn xin ông cũng nói về những cái xấu của người Mỹ. Qua những sách ông đọc, những việc ông nh́n, ông thấy được những điều ǵ nước Mỹ cần phải học hỏi ở năm ngh́n năm lịch sử Trung Quốc ?
Bá Dương : Về những điều xấu của nước Mỹ, chính người Mỹ đă nói lên nhiều rồi, đó là chỗ tôi rất khâm phục. V́ nước Mỹ có cái khả năng tự cân đối, tự phản tỉnh và tự điều chỉnh. Tự ḿnh có chỗ sai trái đều dám tự nói ra, tự ḿnh có thể tiếp thu, đánh giá. Đấy là những điểm mà người Trung Quốc chúng tôi không có được. Dĩ nhiên nước Mỹ không phải mười phần toàn mỹ, v́ trên thế giới này chưa có ǵ như vậy, mà nước Mỹ nếu như vậy chỉ sợ rồi nó sẽ xơ cứng mất.
Thính giả : Lúc ở đại học tôi có đọc qua vài tác phẩm của ông, tôi rất thích cái ng̣i bút châm chọc, cay chua, mỉa mai những điều không hợp lư trong xă hội. Hôm nay, được nghe ông nói về những khuyết điểm của người Trung Quốc, tôi rất cảm động mà cũng rất khổ tâm, chán nản, buồn rầu. Nhưng tôi cho rằng cũng giống như một con bệnh, nếu đă biết ḿnh bị bệnh tất phải t́m cách cứu chữa, thuốc thang. Tôi không biết trong các tác phẩm của ông có những ǵ mách bảo chúng tôi làm chuyện đó ? Ngoài ra tôi muốn ông nói một tư về t́nh h́nh trên văn đàn Đài Loan, giới thiệu cho chúng tôi những tác giả và những tác phẩm hay.
Bá Dương : Tôi xin nói về vấn đề thứ hai trước. Trần ánh Chân, Vương Tháp, Tam Mao, Ai Quỳnh Quỳnh, Trần Minh Bàn, Dương Thanh toàn là những nhà văn hạng nhất. Tôi không đọc được nhiều v́ ngồi tù mắt bị yếu đi, đọc chữ bé quá không được, mà sách báo Đài Loan chữ quá bé. Vấn đề này có lẽ phải xin nhà tôi đáp hộ.
Nói đến khuyết điểm, đến bệnh t́nh của người Trung Quốc, tôi biết các bạn rất buồn và tôi cũng rất buồn. Bởi v́ trước kia tôi toàn nghe nói đến những vinh quang của Trung Quốc, như kiểu Chu Nguyên Chương là một vị anh hùng dân tộc. Sau này tôi mới khám phá ra rằng không phải vậy. Trong lúc những người khác chiến đấu với quân Mông Cổ, th́ y ở tại hậu phương mở rộng địa bàn của ḿnh, đánh triệt hậu những người khác để chiếm đất, cuối cùng cướp chính quyền, hoàn toàn tính toán cho ư đồ riêng tư, chờ cho mọi người khác đánh xong quân Mông Cổ rồi y tọa hưởng kỳ thành.
Phát hiện được chuyện này tôi rất lấy làm chán nản. Tôi nghĩ nếu muốn phục hưng dân tộc phải bắt đầu bằng việc thừa nhận các khuyết điểm, những sai trái của ḿnh. Nếu không thừa nhận th́ làm sao cải cách được ? Không cải cách th́ làm sao tiến được ? Thời trước ḿnh đă không thừa nhận v́ không biết phân biệt phải trái, dù có thấy khuyết điểm cũng không dám nói. Nếu có kiểm thảo th́ chỉ toàn thấy những điều hay. Cho nên chúng ta toàn bị người ta bắt nạt, lúc th́ người này, lúc người nọ.
Mỗi người Trung Quốc phải tự xét ḿnh trước khi oán thán, kêu ca, trách cứ người khác. Tại Đài Bắc có cặp vợ chồng căi nhau t́m tôi phân bua. Người chồng hùng hổ bảo : - " Vợ tôi không yêu tôi ". Tôi nói rằng nếu muốn người khác yêu anh, điều kiện đầu tiên là tự anh phải là người khả ái. Nếu tự ḿnh không khả ái làm sao người khác có thể yêu ḿnh. Nếu ḿnh muốn người khác tôn trọng, th́ trước hết phải có cái điều kiện để được tôn trọng. Cái điều kiện này không thể cứ chửi bới hoặc hô khẩu hiệu là có được. Ví thử nơi này là nơi không thể tùy tiện khạc nhổ mà anh cứ khạc nhổ ; tiểu tiện phải vào nhà xí, anh lại cứ ở trên đại lộ mà làm, th́ hỏi rằng làm sao người ta tôn trọng anh được ? V́ vậy, để được tôn trọng chúng ta phải có những điều kiện tiên quyết, phải biết chúng ta khác người ở điểm nào, phải biết cái dở của ta, cái hay của người.
Nếu anh bảo người Mỹ tốt, người ta sẽ bảo anh là sùng bái Tây phương. Sùng bái th́ đă sao ? Hệ tư tưởng của chúng ta ngày nay, về kinh tế, học thuật, dân chủ, chính trị, nhân quyền có cái nào là do cha ông chúng ta tryền lại không ? Chế độ xă hội, h́nh thái ư thức, phương thức sinh hoạt đều do từ nước ngoài đến, có cái nào là truyền thống không ? Những sinh hoạt vật chất của chúng ta như xe ô-tô, máy bay, kính mắt, cách cắt tóc, cạo râu, nhà ở,v.v... đều chẳng phải do người Trung Quốc phát minh ra. Cho nên tôi thấy không phải là vấn đề sùng bái mà là vấn đề học tập. Hiện nay ở Đài Bắc người ta thích ăn gà ta, mà tôi cũng rất thích, không ai thích ăn gà tây, không ngon thành ra không ai ăn cả. Tóm lại cái ǵ hay th́ người ta thích.
Cái tinh thần người Trung Quốc không hiểu thế nào mà hễ cứ tôn sùng Tây phương là họ nghĩ tất yếu phải nịnh bợ nước ngoài. Không hiểu v́ sao lại đưa đến cái kết luận đó ? Sùng bái ở đây chẳng qua là học những ưu điểm của họ. Ví dụ có một ngày nào đó người Mỹ đều hút thuốc phiện tự sát, chẳng nhẽ chúng ta cũng lại bắt chước họ sao ? Chúng ta phải có cái tiền đề là làm sao cho người ta tôn trọng ḿnh, phải có khả năng tự t́m hiểu ḿnh. Đó là điều kiện tối cần để dân tộc ḿnh có thể tồn tại và phát triển.
Trách tới trách lui rồi chung quy cũng chỉ đi trách người khác th́ không thể nào cứu được dân tộc. Dân da đỏ nói măi là người da trắng giết hại họ, họ thù hận đến xương tủy, nhưng thù họ th́ làm được ǵ ? Phải tự ḿnh mạnh lên mới được. Không tự ngoi lên được, trong tương lai có thể c̣n bị giết nhiều hơn nữa. Không nên trách cứ oán thán ai cả, mà phải thấy được cái sai, khuyết điểm của ḿnh th́ mới có khả năng khá lên được.
Thính giả : Trong quyển " Những con trùng dậy sớm " ông lên án những tiểu thuyết huyền ảo, khuyên mọi người không nên xem tiểu thuyết kiếm hiệp. Trên nguyên tắc tôi hoàn toàn đồng ư với ông. Nhưng Nghê-Khuông lại bảo : " ở trên đời nếu không đọc tạp văn của Bá Dương đă là một sự mất mát lớn, nếu không xem được chuyện kiếm hiệp của Kim Dung lại là một sự mất mát lớn khác nữa ". Không hiểu ông nghĩ ǵ về câu nói này ? Vấn đề thứ hai là nghe nói lúc ở Lục Đảo ông đọc rất nhiều sách về tướng số. Tôi cho rằng môn tướng số là một bộ phận của văn hóa Trung Quốc rất thần bí, ông nghĩ sao ?
Bá Dương : Khi tôi viết quyển sách đó tôi chưa đọc tác phẩm của Kim Dung, bởi v́ thời đó tiểu thuyết của Kim Dung chưa xâm nhập vào Đài Loan (từ Hồng Kông). Sau khi đọc Kim Dung rồi th́ không thể đọc các loại truyện kiếm hiệp khác. Tôi đọc qua Vương Độ Lư, Bất Tiêu Sinh và rất nhiều kiếm hiệp khác. Nhưng sau khi đọc Kim Dung rồi, thấy chẳng ai sánh kịp. Cái tŕnh độ văn tự, cảnh ư của Kim Dung đều cực giỏi, thêm nữa tiểu thuyết kiếm hiệp của ông ta lưu hành ở nước ngoài nên ư nghĩa lại càng lớn. Nó làm mọi người say mê, giúp phổ cập hóa tiếng Trung Quốc. Ông ta viết quả là hay, bút pháp thật tài t́nh, đúng là không tiền khoáng hậu, tôi rất khâm phục.
Lúc ngồi tù tôi cũng đă đọc nhiều sách tướng số. V́ 12 năm vừa qua, thời cuộc đổi thay, có khả năng tôi không kiếm được cách sinh nhai, định ra ngồi lề đường bốc quẻ. Tôi đọc được hơn một năm. Sau đó có người bảo tôi là một chính trị phạm không được phép làm thầy bói, cho nên tôi cũng bỏ luôn. Nói đến vận mệnh th́ tôi tin là có. Các bạn trẻ thường không tin số mệnh, tôi thời trẻ cũng thế. Tăng Quốc Phiên có một lần nói với Lưu Thứ Thanh rằng : " Đừng tin sách, tin số mệnh ". Lưu Thứ Thanh bảo : " Lời nói đúng, truyền vạn thế ". Đời người có những thứ ḿnh không thể khống chế, nếu không dùng số mệnh để giải thích th́ dùng cái ǵ để giải thích được ? Những hiện tượng không thể điều khiển được, chúng ta gọi là vận mệnh, anh gọi là " bất vận mệnh " cũng được, miễn là đặt cho nó một cái tên. Tối hôm qua, phi cơ của Đài Bắc Viễn Đông Hàng Không bị nổ. Trước đó tôi có hay dùng phi cơ từ Đài Bắc đi Cao Hùng để khám mắt, nhưng b́nh thường vẫn chỉ ngồi viết bài tại ṭa soạn " Đài Loan thời báo ", c̣n chủ báo là Ngô Cơ Phúc và Tổng biên tập Tô Đăng Cơ rất hay đi đi về về giữa Cao Hùng và Đài Bắc bằng phi cơ, nên hiện nay tôi rất lo cho họ. Đấy chỉ là một dẫn chứng. Anh có thể cho phi cơ bay được, nhưng không thể làm cho phi cơ tránh được những chuyện xảy ra ngoài ư muốn.
Thính giả : Hôm nay là lần đầu tôi được gặp ông tại nước ngoài sau những năm ông bị tù đày. Tôi có một chuyện nhỏ muốn hỏi là sau bao năm khổ ải ấy bây giờ đứng trước mọi người đây, cái tâm t́nh của ông như thế nào, ông có ǵ để nói về những gian truân ấy ?
Bá Dương : Tôi cho rằng riêng tôi chẳng có ǵ thay đổi cả. Trong nhà lao cái ǵ phải khóc th́ tôi đă khóc, lúc phải cười th́ tôi cũng đă cười. Có người bảo ở trong tù th́ mặt ủ mày ê, đó là chưa thật ở tù. Nếu 10 năm mà lúc nào cũng sầu năo th́ sống thế nào được ? Lúc được vui th́ cứ vui, đó là cách nh́n của tôi. Nhất là đời người mà gặp hoạn nạn như tôi, thậm chí nghiêm trọng tưởng có thể bị tử h́nh, sau bị xử 12 năm tù.
Mười hai năm là một khoảng thời gian rất dài chả lúc nào thích ứng được. Gia đ́nh lại xảy ra biến cố, nào vợ xa chồng, chồng xa vợ, dù hẹn biển thề non lúc này đều hoàn toàn thay đổi.
Ngoài ra lại c̣n tác động đến t́nh bè bạn, đột nhiên rất nhiều bạn đâm ra sợ tôi. Có những bạn, b́nh thường có thể phó thác tài sản tính mạng được, bây giờ bỗng dưng thay đổi hẳn. Có những người chẳng thân thiết ǵ lại nhờ vả được. Cho nên tôi quan niệm rằng không thể khái quát hóa vấn đề này được, nó tùy theo mỗi trường hợp riêng.
Tôi ngồi tù được hai tháng th́ vợ tôi bỏ tôi, chưa được hai năm sau th́ chính thức ly hôn. Tôi kư giấy ly hôn gửi cho vợ tôi, cô ta hỏi c̣n đồ đạc của anh th́ sao ? Tôi hỏi đồ đạc nào? Đồ đạc trong nhà vốn tất cả là của tôi. Tôi bảo cho cô ấy toàn quyền định đoạt, những cái ǵ thuộc về tôi th́ cứ vứt hết ra đường, v́ ở Đài Loan tôi không có người thân, chẳng có chỗ nào để cất giữ.
Tôi nghĩ đấy là một trường hợp cá biệt, chẳng phải người đàn bà nào cũng như vậy. Đàn ông cũng thế, cũng có người thay ḷng đổi dạ, nhưng không phải tất cả đàn ông trong thiên hạ này đều như vậy.
Bạn bè th́ cũng chẳng khác mấy, có bạn lại sợ tôi mượn tiền, có người th́ dậu đổ b́m leo, chờ người ngă xuống giếng để ném đá theo, có người chẳng đoái hoài đến ḿnh nữa, có người lại lên án kịch liệt, chỉ muốn tôi bị xử bắn đi cho rồi.
Cái này cũng chỉ là vài trường hợp cá biệt và cũng chỉ có dăm ba người nào đó như vậy thôi. Vẫn c̣n những người khác sẵn sàng giúp đỡ ḿnh. Sự thật là như vậy.
Tôi hoàn toàn không cảm thấy bị mất mát, có mất chăng, đó là những kẻ không phải là bè bạn.
Phần Ii - Các Bài Viết
Phô bầy bệnh già nua, lẩm cẩm. Cái Triết học bắt đầu bằng kính và sợ. Chỉ trừ tôi ra. Tại sao không có thể mưu lợi được?. Giữ ḿnh là thượng sách. Loài động vật không biết cười. Nước có lễ nghĩa. Ba câu nói. Cả nước xếp hàng. Rút cuộc là cái nước ǵ ? (Đám cưới, đám ma, quán ăn). Chẳng kể thị phi, chỉ nói đến chính đạo. Phố Tầu, một động quỷ nuốt tươi người Trung Quốc . Nói chuyện về người Trung Quốc xấu xí . Kiêu ngạo hăo. Noi gương Tây phương nhưng không làm nô lệ. Kỳ thị chủng tộc. Lấy hổ thẹn làm vinh dự
hết: Đời Sống, Văn Học Và Lịch Sử, xem tiếp: Cái Triết học bắt đầu bằng KÍNH và Đời Sống, Văn Học Và Lịch Sử

Diễn văn đọc tại Phân khoa Sử, Đại học Stanford, San Francisco, ngày 22-08-1981.
Cái chủ đề tôi được giao phó hôm nay đối với tôi quá lớn, tôi cảm thấy hầu như không đảm đương nổi và sợ không đủ tư cách để đề cập đến một chủ đề lớn như thế. Tôi chỉ t́nh nguyện cố gắng đóng góp cảm tưởng riêng tư về những ǵ mà 5.000 năm lịch sử Trung Quốc gợi ư cho tôi.
Trước khi bắt đầu, tôi xin nói đến một cảm tưởng khác về người da đỏ châu Mỹ (chủ nhân nước Mỹ, cư dân nguyên thủy và chân chính của châu Mỹ).
Tôi đă được đi tham quan những vùng đất hoang phế của dân da đỏ ở Mỹ. Tôi cũng đă đến thăm những khu biệt lập dành riêng cho người da đỏ và gặp một số người da đỏ. Thời gian tuy rất ngắn, không nói được nhiều chuyện, nhưng ấn tượng đối với tôi rất sâu sắc. Tôi khám phá ra rằng các sản phẩm thủ công của người da đỏ ngày nay so với các sản phẩm của người da đỏ sáu trăm năm trước, không nói về h́nh thức và hoa văn, chỉ nói về những thủ pháp đan dệt và chất liệu sử dụng th́ không có ǵ thay đổi. Chỉ từ cái sự kiện nhỏ đó, tôi suy nghĩ và tự hỏi rồi không biết số mệnh của dân tộc này sẽ đi về đâu ?
Chúng ta không thể tưởng tượng được một dân tộc lớn với lịch sử lâu đời như thế lại có thể đang thoi thóp, ngắc ngoải trong các khu biệt lập tại Mỹ hiện nay. Cảnh ngộ của chính những người da đỏ này sau khi bị lừa gạt, tàn sát và sỉ nhục, so với cái lịch sử bi thương của người Trung Quốc chúng ta th́ nên nghĩ thế nào cho phải?
Riêng tôi có một ư nghĩ và nó làm cho tôi rất chán nản. Đó là vấn đề trước mắt của người da đỏ chẳng phải vấn đề đạo đức hoặc kinh tế ǵ cả nhưng đơn thuần là một đe dọa diệt chủng. Tôi không phải là một nhà tiên tri hoặc tướng số, tôi chỉ dùng sự suy đoán riêng tư và căn cứ trên những điều bạn bè cho tôi biết. Chúng ta có thể đoán rằng 100, 500, 1.000 năm sau, có thể sớm hơn hoặc chậm hơn, một ngày nào đó người da đỏ có thể hoàn toàn bị diệt chủng. Bởi v́ họ không tiếp thu được văn minh hiện đại.
Đương nhiên trước mắt, họ vẫn có những khu vực riêng họ không xâm phạm người khác, người ngoài cũng không xâm phạm họ. Nhưng những khu này lại là đất của nước Mỹ, có thể nói là do những người da trắng ban phát cho. Dĩ nhiên, trên vấn đề lư luận hoặc t́nh cảm chúng ta có thể nói không phải là ban phát cho, mà do họ tự tranh đấu mới có được một ít đất cũ vốn của họ. Nhưng nếu cái t́nh cảm của ta không dính dáng ǵ đến văn học, thơ ca nhưng đơn thuần về lư tính th́ chúng ta sẽ thấy rằng vài vùng đất riêng này là do ân huệ của nước Mỹ da trắng. Cho nên, nếu có một ngày nào đó, nước Mỹ đông dân hơn cần lấy lại những khu vực này th́ cái kết cục của người da đỏ sẽ vô cùng thê thảm.
Phải chăng chúng ta cần phải có cách nh́n như thế này : Sự hủy diệt của một dân tộc là một điều vô cùng lớn lao, nhưng không phải không có thể xảy ra ?
Những lúc tôi nh́n thấy những khu hoang phế của dân da đỏ, và cái sự tŕ trệ về văn hóa của chúng ta là trong ḷng tôi như dao cắt; không thể nào không nghĩ rằng một ngày nào đó dân tộc Trung Quốc cũng chẳng khác ǵ dân tộc da đỏ.
Có một người bạn bảo tôi : " Không thể thế được, dân tộc Trung Quốc có một lịch sử lâu đời, dân lại đông như thế ". Tôi nghĩ đấy chẳng qua chỉ là một cách an ủi về mặt tinh thần. V́ đem 5.000 năm lịch sử ra để bảo chứng cho sự bất diệt của một dân tộc th́ không hiểu căn cứ trên cơ sở nào ? Vũ trụ mênh mông, 5.000 năm chỉ là một khoảnh khắc, nhân loại sẽ c̣n tồn tại đến cả 5.000 ức năm nữa là ít. So với 5.000 ức năm th́ 5.000 năm có là bao ! C̣n nói về dân số nhiều ít, đó là một điều chẳng quyết định ǵ trong vấn đề hưng vong của một dân tộc. Thời đầu, lúc người châu Âu đổ bộ lên châu Mỹ, dân số người da đỏ c̣n rất lớn, lớn hơn nhiều so với người da trắng.
Cái ư nghĩ hồ đồ này làm tôi rất buồn và thấy rằng người Trung Quốc chúng ta đang gặp rất nhiều vấn đề. Một vấn đề nổi bật thật khó hiểu là tại sao đến bây giờ người Trung Quốc không thể hùng mạnh ? Trong khi chúng ta thật ra có đủ các điều kiện để trở nên hùng mạnh. Thế th́ nhất định các điều kiện cản trở sự hùng mạnh của ta phải vượt xa các điều kiện giúp chúng ta hùng mạnh.
Tôi xin nói trước tôi nghiên cứu lịch sử không có bài bản ǵ cả, cũng giống kiểu luyện thép thô sơ mà người Trung Quốc làm trong " Bước nhảy vọt lớn ", nhưng luyện rất chuyên cần nên bây giờ rất tâm đắc, xin đóng góp một ít suy nghĩ sau đây để mọi người tham khảo.
Tôi bắt đầu bằng một câu chuyện thế này : ở Mỹ có một công ty phái nhân viên của ḿnh đi Âu châu khảo sát. Sau mấy tháng người ấy trở về làm báo cáo dầy cả 200 trang cho công ty, nói rằng về phương diện kỹ thuật cũng như quản lư châu Âu đều lạc hậu kinh khủng, không thể nào b́ được với Mỹ.
Khi ban giám đốc đọc xong bản báo cáo liền ra lệnh khai trừ nhân viên này. Tổng Giám đốc nói : " Chúng tôi gửi anh đi châu Âu để tận mắt khai thác những sở trường của họ chứ không phải t́m những sở đoản của họ. Chúng tôi không cần anh phát hiện những ǵ ḿnh đă làm tốt rồi. Chúng tôi cần biết những điểm họ mạnh hơn ḿnh và thấy được những khuyết điểm của ḿnh để sửa chữa. Chúng tôi không cần nghe những lời tự ca tụng, cái đó nghe nhiều sẽ bị ru ngủ, làm cho phẩm chất sản phẩm của chúng ta xuống thấp, công ty chẳng mấy lúc mà đóng cửa ".
Câu chuyện này có thể xem là một chuyện ngụ ngôn v́ từ nó chúng ta rút ra được một bài học lớn. Cái chúng ta cần hôm nay không phải là phát hiện những thứ hay ho của ḿnh mà t́m ra những cái ngăn chặn sự tiến bộ của dân tộc Trung Quốc, cho chúng ta thấy được nguyên nhân đang cản trở sự hùng mạnh của đất nước.
Lúc năy ăn cơm trưa, có vài người bạn quan tâm đến việc học tập của con cháu chúng ta, sự tốn kém của học phí đại học. Tôi cũng thấy được rằng người Trung Quốc dù khổ sở nghèo khó thế nào đi nữa cũng đều cố gắng cho con cháu ḿnh được học hành. Đó là một điểm mạnh, một ưu điểm của dân tộc Trung Quốc, tôi không cần các bạn nhắc lại quá nhiều nữa. Cái tôi muốn nói hôm nay là những khuyết điểm của dân tộc chúng ta. V́ chỉ nói ưu điểm th́ không thể tự cứu được ḿnh, muốn tự cứu được ḿnh phải biết nói lên những khuyết điểm của ḿnh.
Điểm thứ nhất :
Trung Quốc có lịch sử 5.000 năm. Trong 5.000 năm ấy, lực lượng phong kiến chà đạp lên phẩm giá, nhân tính con người không phải ngày càng giảm thiểu mà ngày một gia tăng.
Thời Xuân Thu Chiến Quốc, vua và quan c̣n gần như cùng ngồi ngang hàng nhau, có thể nói nằm cùng gường ăn cùng mâm. Đến thời Tây Hán, thế kỷ thứ II trước Công nguyên (206 BC-AD 25), Thúc Tôn Thông đặt ra nghi lễ triều đ́nh dưới triều hoàng đế Lưu Triệt vào lúc học phái Nho gia đang nắm quyền. Nghi thức này biến đế vương thành một thứ quyền uy, không những rất trang nghiêm, cung kính mà c̣n làm cho mọi người khiếp sợ.
Khi Đại thần vào triều kiến Hoàng đế có vệ sĩ kè kè bên cạnh, bất kỳ ai có thái độ không hợp quy cách, như kiểu vô t́nh ngẩng đầu lên nh́n một cái cũng có thể bị xử phạt. Những thay đổi này làm cho vua chúa xa cách nhân dân, lúc nào cũng giữ một khoảng cách, nhưng dưới trướng Hoàng đế các Đại thần vẫn c̣n có chỗ ngồi.
Đến thế kỷ thứ X dưới triều Tống (960- 1279) th́ cái địa vị này cũng không c̣n nữa. Việc Tể tướng cùng ngồi với Hoàng đế để luận đạo đă vĩnh viễn mất. Cái cải cách rất nhỏ này nhưng ư nghĩa rất lớn. Nghĩa là giữa vua tôi, quan dân khoảng cách càng ngày càng lớn.
Đến thế kỷ XIV dưới triều Minh (1368 - 1644), cái nhân phẩm c̣n bị chà đạp đến độ không tưởng tượng được. Nhà vua đối với thần dân của ḿnh khinh thị như cừu thù. Triều Minh này lập ra cái quan niệm " vua cha ". Vua là cha, Hoàng đế là bố của tất cả mọi người trong nước. Cái quan niệm này khi được thiết lập rồi lại sinh ra các hủ tục khác không kể xiết. Trong những thứ ấy, cái đáng sợ nhất là " đ́nh trượng ". Từ Tể tướng đến tiểu quan, chỉ cần bị xem là phạm pháp đều có thể bị nọc ra giữa cung điện, giữa công đường, hoặc ngay tại một chỗ công cộng, dùng gậy đánh cho đến thịt rơi máu văi. Cái chế độ " đ́nh trượng " kết hợp với tư tưởng " vua cha " làm cho ḷng tự trọng của người Trung Quốc gần như mất hẳn, làm cho nhân cách của họ hầu như không c̣n ǵ . Cách duy nhất để giữ được ḷng tự trọng là cố gắng không kêu la khi bị đánh. Để khỏi kêu la thường những viên quan kiên cường đă chà xát mặt xuống đất mạnh đến nỗi sau đó râu rụng không c̣n sợi nào. Thời đó, phản ứng duy nhất có thể làm được là như vậy, không có cách phản kháng nào khác.
Chúng ta thường bảo rằng dân Trung Quốc là một dân tộc có sức đồng hóa phi thường, và cho đến ngày nay vẫn đúng như vậy. Chúng ta có thể thấy bao lần trong lịch sử, sau khi chiếm được Trung Quốc, những dân tộc ngoại xâm cuối cùng cũng đều bị đồng hóa. Sớm nhất là thời Bắc Ngụy (368 - 534), Hiếu Văn Đế Thác Bạt Hoành (Hoằng) sau khi chiếm được Trung Quốc lại sử dụng hệ thống chính trị của Trung Quốc để cải cách, canh tân. Triều Măn Thanh cũng thế. Hai lần bị xâm lược lớn nhất này lại là hai lần thắng lợi lớn nhất của văn hóa Trung Quốc.
Nhưng ta phải chú ư điều này : Những kẻ xâm lược cố nhiên đều hấp thụ và kế thừa văn hóa Trung Quốc, nhưng lại tiếp thu cái phần kém nhất của văn hóa Trung Quốc, nên kết cục cũng chẳng ra ǵ. Thay v́ trở nên hùng mạnh th́ cả dân tộc họ lẫn dân tộc Trung Quốc lại càng suy thoái. Ví dụ như hoàng đế Bắc Ngụy là Thác Bạt Hoành tuyên bố cấm người Tiên Bi (Ty) nói tiếng Tiên Bi, nhất loạt đều dùng tiếng Trung Quốc, ngoài ra lại đổi tên họ ḿnh thành tên họ Trung Quốc, áp dụng chế độ cung đ́nh phong kiến, chế độ gia thế, quư tộc Trung Quốc mà họ không hề có. Trước kia họ là dân du mục trên các thảo nguyên, đầu óc khoáng đạt. Tôn ty trật tự, khoảng cách giữa các giai tầng xă hội không lớn lắm. Những thứ tốt đẹp đó đều bị phá hoại cả.
Thính giả: - Xin hỏi " đ́nh trượng " là thế nào?
" Đ́nh trượng " là " đánh đít ". Người bị đánh nằm sấp, bốn hoạn quan giữ tay chân buộc chặt vào cọc, sau đó dùng bao tải trùm đầu, hai hoạn quan đè đùi sát xuống đất. Vua ra lệnh đánh 100 trượng là đánh 100. Thông thường không đánh quá 100 trượng, v́ 100 là cũng đủ chết rồi. Bọn tay sai chấp hành lệnh quan sát sắc mặt vua. Nếu vua chỉ ghét thôi mà không muốn giết, th́ đánh xong 100 trượng, kẻ bị đánh vẫn c̣n có thể sống được. Nhưng nếu ư ông con trời kia lại muốn giết, th́ chỉ cần ba bốn mươi trượng là đủ toi mạng.
Nói chung các quan viên hay người có chức phận khi bị đánh phải đút lót cho bọn hoạn quan, bọn này sẽ dùng thủ pháp đánh kêu rất to, trông rất đau, máu thịt tơi bời, nhưng lại không phạm vào gân cốt, không chết người. Bọn này đều được huấn luyện đến độ có thể dùng giấy bọc một bó rơm, đánh cho rơm bên trong nát mà tờ giấy không hề rách. Ngược lại họ có thể đánh làm sao không để lại thương tích ǵ trên da thịt mà bên trong gân cốt đều nát bấy. Chế độ đánh đ̣n này làm nhân phẩm hoàn toàn bị phá sản. Thế kỷ XIV, XV tại châu Âu đă là thời Phục Hưng nhưng tại Trung Quốc, hỡi ôi ! vẫn c̣n là thời kỳ đánh đít.
Xin quay lại vấn đề. Dân Mông Cổ là một dân tộc rất kỳ quái, sau khi đă xâm nhập vào Trung Quốc vẫn giữ một thái độ chống đối văn hóa Trung Quốc. Trong ṿng 180 năm, lúc đến thế nào th́ ra đi thế ấy, không hề bị nhiễm văn hóa Trung Quốc.
C̣n nhà Thanh, sau khi được thành lập lại thừa kế cấu trúc xă hội và hệ thống chính trị của triều Minh, thời kỳ hắc ám nhất, làm cho chính quyền mới đă có mầm mống bị đục ruỗng để cuối cùng không thể nào cứu văn được nữa.
Nhân quyền bị chế độ phong kiến, xă hội phong kiến chà đạp trong một thời gian lâu dài như vậy cơ hồ chẳng c̣n ǵ. Cái ảnh hưởng của việc này rất lớn đối với người Trung Quốc, nó làm người Trung Quốc không giữ được ḷng tự trọng nữa.
Cái tự trọng c̣n lại chẳng qua cũng chỉ là cái tinh thần tự dối ḿnh như A Q trong truyện của Lỗ Tấn. Cái tinh thần đó và cái ḷng tự trọng chân chính khác nhau một trời một vực. Ví dụ tôi đến thăm anh, thấy anh nhà cao cửa rộng, học vấn uyên bác, trong ḷng tôi kính phục, hâm mộ anh. Trên đường về đáng lẽ tôi nghĩ phải cố gắng phấn đấu, làm việc, học hành để có thể được như anh. Đằng này lúc ra khỏi nhà anh tôi lại bảo: ở nhà đẹp thế! Không biết ăn cắp hay ăn cướp ở đâu ra lắm tiền! Cầu trời cho ngày mai có đám cháy thiêu trụi cái nhà nó đi cho rồi !
Tâm lư dân tộc ta bị ức chế lâu ngày chỉ biết dùng cái tinh thần đó để tự thỏa măn.
Điểm thứ hai :
Trong suốt 5.000 năm lịch sử, Trung Quốc chỉ có ba thời đại hoàng kim. Thời đại đầu là Xuân Thu Chiến Quốc (770 - 476 trước Công nguyên) - thời này có rất nhiều trường phái tư tưởng, nhiều lối sống khác nhau cùng xuất hiện. Thời đại thứ hai phải là đời Đường (618 - 907) - từ Đường Thái tông Lư Thế Dân đến Đường Minh Hoàng Lư Long Cơ khoảng 100 năm (650 - 756). Thời kỳ thứ ba là 100 năm đầu của nhà Thanh (1644 - 1911).
Trong 5.000 năm lịch sử Trung Quốc chỉ có ba thời đại hoàng kim này. C̣n hơn 4.000 năm kia, cơ hồ mỗi năm, thậm chí mỗi ngày đều có chiến tranh.
Một học giả Tây phương đă làm thống kê chứng minh rằng từ khi nhân loại có lịch sử đến giờ, không năm nào không có chiến tranh. Hiện tượng này đối với lịch sử Trung Quốc cũng chẳng khác.
Riêng tôi cũng đă làm qua thống kê, lại c̣n viết thành một bộ sơ cảo : " Lịch biên niên những thời đại chiến loạn của sử Trung Quốc " (Trung Quốc sử đại chiến loạn biên niên lịch) cho thấy ở Trung Quốc năm nào cũng có chiến tranh. Nhưng không thể đem Trung Quốc so sánh với thế giới được. Thế giới là một đơn vị quá lớn so với Trung Quốc, nhất là vào đời nhà Minh th́ bản đồ Trung Quốc chỉ bằng thời Tần ở thế kỷ thứ II trước Tây lịch, nghĩa là bằng khoảng một nửa bản đồ hiện nay.
Thế mà trong một bản đồ nhỏ như thế, mỗi năm đều có chiến tranh ! Chỉ căn cứ trên những chiến tranh lớn được ghi chép lại, các chiến sự nhỏ không thuộc phạm vi thống kê này, th́ cũng có thể thấy rằng loạn lạc, chiến tranh ở Trung Quốc đáng sợ vô cùng.
Khi một triều vua này thay thế một triều vua khác, cái thời kỳ quá độ đầy hỗn loạn có thể kéo dài từ 30 đến 50 năm. Từ lúc đoạt chính quyền đến lúc ổn định, lại cần khoảng 20 năm nữa. Rồi tiếp đó là cái ṿng luẩn quẩn bắt đầu bằng sự thối nát của chính quyền vừa đoạt được, các lực lượng phản kháng lại trỗi dậy, rồi kéo đến những hỗn loạn lớn. Chiến tranh lại bắt đầu, rồi cái ṿng trị loạn, tranh giành, chém giết cứ tiếp diễn.
Có thể nói rằng người Trung Quốc trường kỳ, thậm chí vĩnh viễn, sinh ra và lớn lên trong tham ô, hỗn loạn, chiến tranh, giết chóc, bần cùng, cho nên chẳng bao giờ có cảm giác được an toàn, lúc nào cũng hoảng hốt, lo âu.
Chúng ta có lịch sử lâu đời, lại có đất nước mênh mông, đầu óc tất phải khoáng đạt, lớn lao, cởi mở, tự tin. Thế mà ngược lại chỉ v́ bần cùng, giết chóc, đố kỵ một cách lâu dài thành ra ḷng dạ chúng ta thành hẹp ḥi.
Chỉ cần ngày hôm nay có thể qua đi là được rồi, ngày mai thế nào không cần biết. Chiến tranh sẽ c̣n kéo dài đến mức độ nào, ai mà thấy trước được ! Chiến tranh ảnh hưởng đến thủy lợi, thủy lợi bị phá hủy rồi th́ đến hạn hán lớn, sau hạn hán là đến nạn châu chấu.
Những tai họa này, hạn hán, ngập lụt, châu chấu, rồi đất hoang ngh́n dặm. Trong lịch sử, cái câu " Người ăn thịt lẫn nhau " không biết đă xuất hiện đến mấy chục lần hay mấy trăm lần. Nếu chúng ta nghĩ rằng chúng ta là một dân tộc có văn minh cao, sao lại có thể có cái hành vi dă man ấy ? Cũng chỉ v́ những tai nạn đối với chúng ta quá nhiều, lại bị tai nạn quá lâu !
Chẳng cần nói quốc gia dân tộc ǵ cả, chỉ nói từng cá nhân, một con người nếu bần cùng quá lâu ngày, quá ư khổ sở, người ấy rồi đối với bất cứ sự việc ǵ cũng đều sinh ra cái tâm lư nghi ngờ.
Mấy hôm trước khi ra tù, một quan chức kêu tôi ra bảo : " Tôi báo cho anh một tin mừng, anh sắp được thả rồi! ". Tôi nói: " Tôi chán thịt thỏ lắm rồi! ". Anh ta bảo: " Anh không tin tôi à? Tôi nói dối anh làm ǵ? ". Tôi phải yêu cầu anh ta đem giấy đến cho tôi xem.
Bởi v́ tôi đă từng quá tin, từng bị gạt quá nhiều, mỗi lần như vậy đều thất vọng. Một người bị nạn quá lâu có quyền không tin vào những tin tức tốt. Một dân tộc cũng vậy. Bị đày đọa lâu ngày, mọi người cho rằng sang một triều đại mới có thể rồi sẽ như thế này, thế nọ. Kết quả gần như không có một lần nào là không hụt hẫng.
Có người hỏi: tại sao Trung Quốc không có kiến trúc lớn mà nước ngoài lại có? - ấy là v́ các kiến trúc Trung Quốc thường làm bằng gỗ, dễ bị mục. Tôi cho rằng đó không phải là câu trả lời đúng mà nguyên nhân là v́ cứ sau mỗi một
triều đại mới lên là chúng lại bị đem đốt đi.
Nhà Tần để lại những cung A Pḥng đẹp như thế, nhưng Hạng Vũ cho rằng đó là mồ hôi nưới mắt của dân, do chính trị bạo ngược làm ra, bèn cho một mồi lửa. Chỉ mấy hôm sau, Hạng Vũ lại cho xây một cung điện khác. Rồi qua mấy hôm nữa sẽ có một kẻ khác phê b́nh cho rằng đấy là bạo chính, là mồ hôi nước mắt nhân dân, lại thiêu rụi đi. Cứ như thế mà đi đến chỗ măi măi nghèo xơ xác, không có cách nào mở mang được đầu óc, xây dựng được ḷng tự tôn.
Lại có câu cách ngôn " Đa nạn hưng bang " (nhiều nạn th́ dựng được nước). Trước tiên chúng ta cần hiểu rằng cách ngôn thuộc về cảm tính, trong một điều kiện đặc biệt nào đó, nó là chân lư, nhưng nó không hề có tính khoa học. Nếu " nạn " mà quá nhiều th́ làm cách nào " hưng bang " được ? Đối với cách ngôn nhất định cần có nhận thức.
Lại lấy một ví dụ nói " Ai binh tất thắng " (Quân lính đau buồn th́ sẽ thắng trận), điều này có thể không có ǵ là chắc chắn. Ai binh chẳng đă từng thất bại đầy rẫy! Một đội quân dù lớn mà rốt cuộc bị tiêu diệt, lúc đó không phải thành ai binh th́ là ǵ ? Giống như khi Carthage (Các-ta-giơ ở Bắc Phi) chống lại La-Mă, đến lúc cuối cùng cơ hồ cả nước đều là quân binh, có thể nói " vừa khóc vừa đánh ", kết cục vẫn bị La-Mă tiêu diệt. " Ai binh " chưa chắc đă thắng. " Nạn " mà quá nhiều chắc ǵ đă dựng được nước ? Phải nói rằng " nạn " nhiều đúng mức, đúng thời may ra mới có thể " hưng bang " được.
C̣n Trung Quốc th́ sao ? Dường như cái " nạn " lại quá nhiều. Cũng may là cái quá nhiều đó chưa đạt đến độ tiêu diệt cả chúng ta, nhưng cũng đă đến cái chỗ đủ nhiều để làm cho chúng ta mất cả linh tính.
Điểm thứ ba :
Chúng ta phát hiện được trong lịch sử Trung Quốc một hiện tượng kỳ quái mà các nước khác không có, đó là chế độ khoa cử, hay gọi tắt là " Quan trường ".
Nhật Bản hấp thụ văn hóa Trung Quốc một cách toàn diện. Không cái ǵ Trung Quốc có mà họ không từng tiếp nhận, từ cái nhỏ như manh chiếu (Tatami), đôi guốc (Geta), đến cái lớn như chế độ, tổ chức chính trị, v.v.., nhưng chỉ có một điểm mà họ không tiếp nhận, mà điểm này đă giúp họ trở thành một nước hùng cường rất nhanh chóng trong thời Minh Trị Duy Tân, đó là chế độ khoa cử.
Chế độ khoa cử Trung Quốc cũng có những tác dụng tốt, nhưng lại đẻ ra " vấn đề quan trường ". Quan trường là một cái mạng nhện kỳ quái, nh́n th́ không thấy, sờ không đụng, nhưng lúc bị rơi vào rồi mới biết. Ta không thể dùng chữ Bureaucrats tiếng Anh để dịch chữ " quan liêu " trong tiếng Trung Quốc được, bởi chữ này không lột tả hết được cái đặc trưng của nó. Quan liêu chẳng trung thành với quốc gia, lănh tụ ǵ cả, chỉ tận tâm tận lực với kẻ cất nhắc nó lên làm quan. Các triều đại Trung Quốc có thể thay đổi, song quan trường vẫn thế.
Người Măn Thanh sở dĩ thống trị được người Tây Tạng, người Mông Cổ, người Hán v́ biết nhắm vào nhược điểm của các dân tộc này.
Đối với người Tây Tạng họ dùng đạo Lạt-ma, mời những tăng lữ lạt-ma đến Bắc Kinh và đối xử với họ cực kỳ cung kính.
Đối với người Mông Cổ th́ họ dùng thủ đoạn hôn nhân, gả những công chúa cho những hoàng tử Mông Cổ, con cái lai sinh ra thành ra con cháu của ḿnh, đem chúng nuôi dưỡng ở cung đ́nh nhà Thanh. Các vương tử đó một khi lớn lên không thể nào phản lại chú bác cô d́ của chúng.
Trong khi đó công chúa Măn Châu không bao giờ lấy người Hán. Người Măn Châu trị người Hán bằng phương pháp khoa cử. Họ biết người Trung Quốc có cái khuyết điểm là thích làm quan. Nếu tôi cho anh cái hy vọng được làm quan th́ anh có thể ngoan ngoăn đem giao ngay hết cả ư thức dân tộc lẫn phẩm giá con người.
Sở dĩ " Quan trường " có cái bộ mặt của các xă hội thần bí v́ nó mang những tiêu chuẩn cư xử và những quan niệm về giá trị rất đặc thù.
Nó không trung thành với vua, vua thay th́ nó vẫn làm quan. Nó cũng không sợ mất nước, nước mất, chỉ cần nó vẫn được làm quan th́ nó vẫn làm. Cái xă hội ăn chơi, phù hoa là nơi các quan ra oai, tự nhiên h́nh thành một hệ thống tương hỗ bao che giữa các quan với nhau - một quan hệ vô cùng phức tạp.
Quyển sách " Quan trường hiện h́nh kư " là một quyển sách phân tích cái cấu trúc của chế độ quan trường Trung Quốc dưới cặp mắt nghiên cứu những vấn đề xă hội. Bởi v́ từ khi quan trường được thiết lập, những quan hệ giữa người với người tại Trung Quốc càng trở nên tinh xảo. Các vị ở Mỹ lâu năm có thấy rằng cái quan hệ giữa con người ở Mỹ so với Trung Quốc th́ quá đơn thuần không ?
ở Trung Quốc có một câu nói: " Làm việc th́ dễ, làm người th́ khó! ". Làm người là thế nào nhỉ ? Tức là làm sao cho cái quan hệ giữa con người với nhau được tốt đẹp.
Có một vở Kinh kịch (kịch Bắc Kinh) nhan đề " Thẩm đầu thích thang " (khám đầu t́m kẻ giết ông Thang) trong đó có một quan ṭa, một vị bồi thẩm và một góa phụ nhan sắc xinh đẹp mà chồng vừa bị mưu sát. Trong phiên ṭa người đàn bà góa ôm một đầu người đứng khóc. Nhiệm vụ của ṭa là phải xác minh xem đấy là đầu của ai. Nếu đúng là đầu của chồng bà ta th́ vụ án xem như có thể kết thúc. Nhưng nếu là đầu của một người khác th́ vụ án này c̣n liên quan đến rất nhiều người, và có thể sẽ c̣n nhiều người khác sẽ chết. Ông bồi thẩm có ư thích người đàn bà góa trẻ đẹp này, và bà này cũng ra ám hiệu cho ông ta biết là bà ta sẽ ưng thuận tái giá với ông ấy, nên ông này một mực rằng đấy là đầu của chồng bà ta. Nhưng sau khi xem chừng vụ án có vẻ xong xuôi, bà góa bèn tỏ ư không muốn lấy ông bồi thẩm nữa. Ông này cũng lập tức quay phắt ra nhất quyết bảo cái đầu ấy lại không phải là của chồng bà ta nữa. Vở kịch này tiêu biểu cho cái phản phúc trong quan hệ quan trường của người Trung Quốc chúng ta. Đầu thật, đầu giả cho đến phút cuối cùng cũng không ai có thể biết như thế nào.
Tôi nghĩ rằng trong chúng ta nhiều người đă về làm việc ở Trung Quốc hoặc sẽ về làm việc trong tương lai, tôi tin chắc khó khăn các vị gặp phải thường không dính dáng đến bản thân công việc, mà dính đến những người cùng làm việc với các vị.
Nói ví dụ anh làm việc ở một ḷ nguyên tử. Anh có biết ǵ về nguyên tử hay không, đó là một vấn đề thuộc công việc. Nhưng sẽ rầy rà to nếu một hôm anh cần một đinh ốc cho ḷ phản ứng mà người quản lư ốc vít lại nghỉ việc. Anh ta bị ốm, đương nhiên xin nghỉ, anh không thể cấm người ta ốm được. Nhưng sự thật anh ta lại không hề cảm cúm ǵ cả, chỉ nghỉ để đi đánh mạc chược? Tại sao?
Bởi v́ quan hệ giữa anh và người ấy không được tốt đẹp. Cái ḷ nguyên tử của anh có hoạt động được hay không, thậm chí có bị nổ tung đi nữa, cái việc ấy người đó cũng cóc cần. Nếu anh bảo nước nhà bị thiệt hại th́ cũng kệ, tôi cứ việc quan tôi làm.
Đó là cái đầu óc quan trường tích lũy từ mấy ngh́n năm, một chứng bệnh vẫn c̣n duy tŕ đến cuộc Bắc Phạt của quân Cách mạng Quốc dân năm 1928.
Về mặt quân sự, trong khi quân đội đánh dẹp các sứ quân ở miền Bắc, th́ về mặt chính trị cái chất độc của quan trường lại tràn xuống miền Nam. Trước kia giữa những đồng chí cách mạng t́nh cảm rất trong sáng, nhưng khi đă bị cuốn hút vào giới quan trường bỗng trở thành phức tạp ghê gớm, phức tạp đến độ một người lành mạnh không thể nào chịu nổi.
Cái quan hệ giữa con người với nhau trở thành một loại keo dính đến độ hễ dán vào rồi là không thể nào gỡ ra được nữa. Có ai trong các vị thấy điều đó khi về nước không?
Lấy một ví dụ khi anh về nước, bạn bè mời anh đi ăn cơm, anh dám cả gan từ chối th́ t́nh bạn sẽ từ đó bị sổ toẹt ngay. Đó là đặc tính của quan trường, nó làm cho quan hệ con người trở nên khúc mắc ghê gớm. Tại sao lại như thế ? Tại sao anh ta phải xử sự như vậy ? Bởi v́ làm như thế th́ cái địa vị của anh ta mới càng thêm vững chắc.
Tôi có một người bạn về Đài Loan được một người chưa hề quen mời ăn cơm. Sau khi ăn xong, người này mới nhờ anh đem dùm về Mỹ một món đồ. Người này làm ra vẻ nhờ vả rất tự nhiên, như thể bạn bè vẫn thường giúp đỡ nhau chứ không phải đánh đổi một bữa cơm để lấy chuyện đưa đồ.
Cái hiện tượng quan trường là như vậy, giống kiểu anh làm ḷ nguyên tử, cái ḷ phản ứng hạt nhân này rất nguy hiểm không phải ai cũng mó vào được. Nhưng người nọ lại cho rằng đă là bạn bè với nhau cho anh ta sờ đến một cái th́ đă sao.
Thường thường một người trước khi làm quan và sau khi được làm quan là hai loại người khác nhau. Thật ra nói như vậy không lô-gíc. Chỉ có thể nói rằng hễ cái " quan tính " của một người càng hưng thịnh th́ cái nhân tính của người đó càng biến mất đi. Không c̣n nhân tính nữa, chỉ c̣n cái quan tính lúc làm quan. Cho đến một ngày tất phải về hưu, lúc đó cái nhân tính may ra mới hồi phục.
Sự tồn tại của quan trường làm cho cách làm việc tại Trung Quốc trở thành rất đặc biệt, khiến cho quỹ đạo của sự phát triển văn hóa đi lệch hướng.
Điểm thứ tư :
Tôi cho rằng Khổng Khâu (Khổng Tử) là một nhân vật vĩ đại, tri thức uyên bác, lại có một tấm ḷng nhân hậu và những cống hiến lớn đối với xă hội. Cái Nho giáo do Khổng Khâu cùng những học phái Nho gia sau này lập ra đều đă ảnh hưởng đến người Trung Quốc một cách sâu rộng, và c̣n ảnh hưởng ngay cả đến chúng ta ngày nay. Nhưng tinh thần nhà Nho là một tinh thần bảo thủ, nói một cách nghiêm túc hơn th́ nhà Nho không những rất bảo thủ mà c̣n phản tiến bộ.
Chữ " Nho " này vào thời Xuân Thu Chiến Quốc chỉ được dùng theo nghĩa sử dụng trong nghi lễ cúng tế. Một nhà Nho là một người hiểu biết cái tŕnh tự cúng tế. Gặp lúc quốc gia cần các nghi lễ mới cần loại người này đóng góp ư kiến. Bản chất loại người này vốn nệ cổ. Thời đó chưa có lễ nhạc mới, phải dùng lễ nhạc thời cổ. Để có miếng cơm nhà Nho phải giữ ǵn sao cho nghề nghiệp của họ được ổn định nên sinh ra thói nệ cổ. Nếu chúng ta không dùng từ nệ cổ, sùng bái những cái cũ, v́ cho rằng nó có nghĩa xấu th́ cũng phải bảo là họ rất bảo thủ.
Cái tinh thần bảo thủ này ở Trung Quốc đă trở thành một ư thức bền bỉ, làm cho xă hội mất hết sức sáng tạo, mất tập quán tự t́m hiểu, tự phê phán.
Bạn bè lúc nói chuyện về nước Mỹ (xin lỗi, tôi cứ múa búa trước cửa Lỗ Ban, tôi muốn nói chơi thôi, xin quư vị cứ nghe chơi chứ đừng tin thật! ), có người nói về việc đàn áp chủng tộc, nào tàn sát dân da đỏ, ngược đăi da đen, kỳ thị da vàng. Tôi đă từng đi tham quan đảo Angel (En-giơn), đă được nh́n thấy chữ và những ḍng thơ người Trung Quốc để lại nói lên những sầu thảm và đau khổ của đời họ.
Những khuyết điểm này của nước Mỹ có thật không ? Dĩ nhiên là có thật, thậm chí c̣n hơn sự tưởng tượng của chúng ta nữa. Nhưng chúng ta phải lưu ư thêm một vấn đề khác, đó là đối với các khuyết điểm kia họ có khả năng sửa đổi không? Tự họ có ư thức được vấn đề không ? T́nh h́nh hiện nay so với trước có khá hơn không ? Nếu không th́ tiền đồ của nước này chắc chắn cũng không sáng sủa ǵ. Nếu có th́ chúng ta phải thấy rằng đấy là một quốc gia vĩ đại, có một sức sống dồi dào.
Trước kia nước Mỹ có " cây treo cổ người ", bây giờ không c̣n nữa. Xưa kia nước Mỹ đối với tù nhân có dùng " nhà lao nước ". Bây giờ khi bắt bớ người, họ phải đọc điều thứ 9 của Hiến pháp cho người ấy. Nước Mỹ đă có những điều sai lạc, nhưng lại có năng lực sửa sai.
Nhưng dân tộc Trung Quốc chúng ta lại hoàn toàn không có năng lực này. T́nh trạng nệ cổ lâu dài, không cầu tiến, bảo thủ, đă làm cho cái năng lực này tiêu tan.
Nh́n lại lịch sử chúng ta sẽ thấy Thương Ưởng - một nhà tư tưởng đời Tần - đă dùng luật pháp biến đổi nước Tần như thế nào. Trước đó dân chúng sinh hoạt trong gia đ́nh, bố mẹ, con cái, anh chị em, lớn nhỏ đều nằm chung trên một giường gạch lớn ( cái kháng, một loại giường xây bằng gạch hoặc đất, ở dưới có bếp lửa vừa để nấu ăn vừa sưởi ấm vào mùa đông).
Thương Ưởng dạy họ cách sống văn minh bằng cách bắt bố mẹ, con cái không được ngủ chung pḥng, anh trai, em gái cũng vậy. Điều này cho thấy vào thời đó chúng ta là một quốc gia man rợ và lạc hậu đến dường nào.
Thương Ưởng chẳng phải đă phát minh ra bom nguyên tử, cũng không phải đă cải cách về mặt vật chất, nhưng đă dùng pháp chế để tạo ra một chế độ mới, một xă hội mới, giáo dục con người về mặt văn hóa. Và cải cách đó của ông cơ bản đă thành công.
Thương Ưởng là người của thế kỷ thứ IV trước Tây lịch. Hơn 2.000 năm sau đó chưa có ai đột phá thêm một lần nữa, làm được những cải cách cơ bản như vậy. Cứ mỗi lần có người muốn đột phá, cuối cùng đều thân bại danh liệt, cửa nhà tan nát, tính mạng không c̣n. Chính số phận Thương Ưởng rồi cuối cùng cũng bị ngũ mă phân thây. Nho gia học phái thường thường vẫn lấy cái kết cục bi thảm của Thương Ưởng để răn đe những kẻ muốn cải cách và uy hiếp sự tiến bộ của người Trung Quốc.
Trong lịch sử Trung Quốc c̣n có một nhà cải cách lớn nữa là Vương An Thạch, một người mà đạo đức, học lực cùng sức làm việc đều không có chỗ nào có thể chê được. Nhưng những cải cách của ông toàn gặp trắc trở lớn. Trương Cư Chính cũng vậy, ông cũng gặp một kết cục thê thảm như Thương Ưởng, lúc vừa mất th́ nhà bị niêm phong, con bị bỏ đói cho chết. Rồi đến cuộc cải cách năm Mậu Tuất (1898) của Khang Hữu Vi cũng chẳng khác ǵ, tất cả đều thất bại !
Nho gia học phái có một cách nói : " Nếu không có lợi mười phần th́ không cần cải cách ! " (Lợi bất thập, bất biến pháp). Đại ư muốn nói rằng nếu lợi ích không đạt 100 % th́ không nên cải cách. Cái quan niệm này là một nguyên nhân lớn nhất làm cho dân tộc Trung Quốc chúng ta không thể tiến bộ, không thể hùng mạnh được. V́ bất cứ một cải cách nào cũng không thể đem lại mười phần mười lợi ích cả. Chỉ cần đạt lợi ích lấy năm phần rưỡi của mười phần cũng là lớn lắm rồi.
Tối hôm qua có vài vị nói chuyện về vấn đề phiên âm tiếng Hán, có người đề cập đến khuyết điểm này, có người nói đến khuyết điểm khác, nhưng trên đời này thử hỏi có cái cải cách nào mà không có khuyết điểm ? Cái th́ có vấn đề về mặt t́nh cảm, cái th́ về mặt lư luận. Nếu anh muốn 100 % không có vấn đề th́ trên đời này làm ǵ có được cái chuyện quái dị đó.
V́ tinh thần nhà Nho vốn bảo thủ nên có lần một vị hoàng đế triều Tống hỏi Tư Mă Quang: " Có nhất định cần cải cách không? Ví như cứ giữ được luật pháp của Tiêu Hà từ triều Tây Hán mà không thay đổi ǵ có được không? " Tư Mă Quang đáp: " Đương nhiên là được, bởi v́ có quá nhiều kẻ ngông cuồng, bọn hiếu sự cứ muốn sửa đổi lăng nhăng chỉ tổ tạo dịp may cho đạo tặc hoành hành. Nếu không muốn thay đổi ǵ th́ những phong tục tốt đẹp từ thời Nghiêu Thuấn cũng có thể giữ đến ngày nay ".
Tư Mă Quang là một kiện tướng trong giới quan trường thời bấy giờ. Cái loại sâu mọt hại nước, hại dân này là một trở lực cực lớn cho sự tiến bộ của Trung Quốc.
Lúc vừa lên Tể tướng, việc đầu tiên Tư Mă Quang làm là xóa sạch toàn bộ những luật pháp mới của Vương An Thạch, gồm cả đạo luật rơ ràng mười phần hiệu quả về cách tuyển người (Mộ dịch pháp). Tô Đông Pha và con của Phạm Trọng Yêm là Phạm Thuần Nhân đều đứng ra phản đối. Tư Mă Quang liền trở mặt ngay với họ.
Điều này cho thấy ở thời đại Bạn Cước Thạch bọn quan trường chẳng kể thị phi, chẳng nghĩ đến lợi ích nhân dân, chẳng trung thành ǵ với nguyên thủ quốc gia, mà chỉ trung thành với lợi ích bản thân.
Tư Mă Quang thật ra cũng chẳng phải là một nhà chính trị ǵ cả, bất quá chỉ là một tên quan trường dơ bẩn thế thôi.
Điểm thứ năm :
Vấn đề cuối cùng tôi muốn nói là cái tác hại của nạn dân số quá đông. Cứ sau các cuộc nội chiến, thay đổi triều đại là dân số nổ bùng. Thế rồi cái ṿng luẩn quẩn bi thảm lại bắt đầu : chiến tranh, tàn sát, tử vong.
Có người bảo cái đất Mỹ sướng quá, mức sống cao thế ! Không biết các vị có chú ư một điều là dân số Mỹ chỉ có 260 triệu người. Giả sử dân số Mỹ tăng lên một tỷ người hoặc tất cả dân Trung Quốc lại dọn sang Mỹ ở th́ t́nh h́nh sẽ ra sao ?
Vấn đề dân số là một vấn đề nguy ngập. Nếu Trung Quốc muốn trở nên giàu mạnh tất phải liều mạng giảm dân số.
Có câu nói " Nhiều người th́ làm băng băng, ít người th́ ăn bánh ḿ hấp " (một loại bánh rẻ nhất). Thời xưa th́ có thể như thế thật nhưng thời nay th́ không. Người nhiều quá chỉ tổ thất nghiệp. Một trăm người làm chẳng bằng một cái điện năo (máy vi tính).
Câu " ít người th́ ăn bánh ḿ hấp " là một chân lư đă lỗi thời. Thu nhập gia đ́nh nuôi hai, ba đứa con th́ c̣n đủ để duy tŕ một mức sống tương đối khá. Nhưng nếu chẳng may không để ư mà có 200 đứa, th́ lấy ǵ mà nuôi chúng nó ? Tiền ăn, ở, tiền học, tiền quần áo,... lấy đâu ra ?
Trung Quốc người quá đông, nghèo khổ quá lớn, quan trường quá mạnh, cạnh tranh quá khắc nghiệt, những lư do này sinh ra nơi người Trung Quốc cái hiện tượng bẩn, loạn , ồn, xâu xé lẫn nhau. Người Trung Quốc có câu " Khí thế hung hăng " (lai thế hung hung) để nói việc chúng ta không biết đối xử với nhau một cách có lễ độ.
Lúc tôi ở Los Angeles (Los Angeles) có người hỏi tôi cảm tưởng về nước Mỹ. Tôi bảo nước Mỹ là một nước trọng lễ nghĩa. Lại hỏi thế Trung Quốc có phải là một nước trọng lễ nghĩa không ? Tôi cho là Trung Quốc là một nước tuyệt đối không trọng lễ nghĩa. Người Trung Quốc thật thô lỗ, hầu như lúc nào cũng chuẩn bị sẵn một đ̣n để đánh phủ đầu đối phương.
Các vị chắc chắn có thể thấy người Trung Quốc rất ít cười. Phải chăng v́ quá nhiều hoạn nạn, đau khổ, sầu năo quá lâu làm cho họ không thể cười nổi nữa ? Cho nên tôi mới thấy dân Mỹ thật là rất vui sướng, ít nhất đó là nước Mỹ mà tôi gặp, tôi tiếp xúc. Một nước rất hạnh phúc, lương thiện, hay giúp đỡ người khác. So sánh với người Mỹ th́ người Trung Quốc lúc nào cũng lo âu, ḷng đầy những ư tưởng hận thù, chỉ sợ người khác làm cho ḿnh thiệt hại. Trong cuộc sống lúc nào cũng lo ngay ngáy, đôi mắt để tự vệ lúc nào cũng sẵn sàng long lên ṣng sọc.
Có người nói ở Mỹ người ta kỳ thị chủng tộc. Dĩ nhiên là có, nhưng sự thật là không phải chỉ riêng ở Mỹ. ở nước nào mà không có kỳ thị chủng tộc ? Nhưng ít nhất nước Mỹ cũng c̣n bao dung chúng ta, không những bao dung con người mà c̣n dung túng cả những cái bất lịch sự, dơ bẩn, hỗn loạn, ồn ào và sự xâu xé lẫn nhau của chúng ta nữa.
Đấy là những điều tôi đă " khảo sát " được khi đến Mỹ. Tôi rất tâm đắc và nói ra thành thực không dấu diếm. C̣n những ưu điểm của chúng ta, không cần nhắc lại làm ǵ, v́ có nói đi nói lại nó vẫn c̣n đó, không nói nó cũng chẳng đi đâu mất. Tôi chỉ nhắc đến khuyết điểm để chúng ta có thể tự phản tỉnh. Những khuyết điểm này vô cùng nghiêm trọng. Cái hũ tương văn hóa của chúng ta chứa đựng biết bao vấn đề phức tạp. Phải làm sao bây giờ ?
Tôi xin có vài ư kiến sau đây :
Những vấn đề này - nếu là vấn đề - th́ đối với chúng ta cái phản ứng đầu tiên như một con người là phải tự ḿnh t́m ṭi, suy nghĩ. Từ mấy ngh́n năm nay, toàn những người khác - thánh nhân, các quan lớn hoặc những loại người như thế - đă thay chúng ta suy nghĩ. Tự ḿnh, chúng ta thấy không cần suy nghĩ hoặc không dám suy nghĩ xem nên làm thế nào mới đúng. Người Trung Quốc tựa hồ cứ như kẻ có nhu cầu luyện tập cho ḿnh thành người ngốc đi.
Sau khi báo chí Đài Bắc đăng tin con trai tỷ phú Rockefeller (Rốc-cơ-phê-lơ) đi thám hiểm New Guinea (Tân Ghi-ne) bị thổ dân ăn thịt, tức th́ có nhiều người bảo : " Có phúc mà không biết hưởng, ḿnh mà như nó th́ đi Ghi-nê làm khỉ ǵ ! "
Khi ở Phoenix (Phê-nic) tôi trú chân lại nhà một gia đ́nh Mỹ khoảng năm, sáu ngày. Con gái chủ nhà tên là Margaret (Ma-ga-rét), 16 tuổi đă đi Honduras (Ôn-đu-rát) để dậy cho người bản xứ hiểu được cách giữ ǵn đôi mắt. Tŕnh độ vệ sinh ở nước này c̣n tệ hơn ở Trung Quốc nữa, nghĩa là một nơi rất bẩn. Thế mà đúng lúc tôi ở đó th́ cô ta về nhà, kể chuyện cho mẹ nghe, mặt mày hớn hở bảo rằng sang năm cô sẽ lại đi nữa, v́ cô thấy cần giúp đỡ những người nghèo và lạc hậu ở nơi đó. Mẹ cô không những đồng ư mà c̣n khích lệ cô.
Người Trung Quốc chúng ta có lẽ sẽ nghĩ rằng nếu là ḿnh chắc chẳng cần đi đến cái nơi khỉ ho c̣ gáy đó làm ǵ. Nhưng người mẹ ở nước Mỹ kia lại ca ngợi con gái ḿnh, cho rằng con gái ḿnh có ư thức, có ḷng tốt, biết tỏ ra có thể xả thân v́ người khác, và v́ vậy rất lấy làm hănh diện. Thật ra đối với tôi bà ta cũng chẳng có nhu cầu khoe khoang cái ḷng tốt của cô con gái làm ǵ. Mà tôi cũng không thể cho cô ta làm quan hay tiền bạc ǵ cả. Dưới mắt của bà ta chẳng qua tôi cũng chỉ là thành viên của một dân tộc lạc hậu mà thôi. Cái động cơ trong thâm tâm người mẹ ấy chỉ là ḷng chân thành.
Trong những hoàn cảnh tương tự người Trung Quốc lúc nào cũng sẽ quá thông minh. Bởi tôi nghĩ rằng trên thế giới này không dân tộc nào, kể cả dân tộc Do Thái, có thể thông minh như kiểu người Trung Quốc được. Nếu một đối một, người Trung Quốc tất phải thắng. Nhưng nếu từ hai trở đi, người Trung Quốc không thể nào không thua, bởi tựa hồ như thiên tính của người Trung Quốc là không đoàn kết được với nhau. ư nghĩa của đoàn kết là mỗi người đều phải hy sinh một phần quyền và lợi của ḿnh. Ví dụ, có hai vật h́nh tṛn muốn dính sát lại với nhau th́ phải gọt ra thành hai h́nh vuông bé hơn một tư. Nhưng chả ai muốn ḿnh bị gọt cả, chỉ muốn người khác bị gọt thôi, kết cục làm sao đoàn kết được ?
Người Trung Quốc thông minh đến mức nào ? Đến độ khi bị đem đến ḷ sát sinh, c̣n cố c̣ kè về giá cả của ḿnh, nếu kiếm thêm được vài đồng th́ chết rất hả hê.
Cái kiểu thông minh quá cỡ này nhất định sẽ thành kiểu ích kỷ quá cỡ. ở Trung Quốc người nào mà không suy nghĩ một cách ích kỷ, cư xử một cách ích kỷ đều bị chế diễu là ngu ngốc.
Người Trung Quốc không khoan dung, hễ ai có tâm địa tốt, rộng lượng với người khác, tán dương người khác đều bị chửi là đồ ngốc. Có người tát anh mà anh lại phản kháng, có người phạm pháp mà anh lại can ngăn th́ anh đúng là ngốc. Hễ cứ làm một việc mạo hiểm để sau đó không thể làm quan, hoặc không thể phát tài, là mọi người đương nhiên cho anh là thằng ngốc.
Tôi cho rằng để cứu dân tộc ḿnh, mỗi người Trung Quốc cần có ít nhiều cái ngốc đó, nếu không rồi cũng sẽ dần ṃn suy đồi như dân da đỏ.
Tục ngữ có câu : " Người không ích kỷ th́ trời tru đất diệt " (nhân bất tự tư, thiên tru địa diệt), nghĩa là ai mà không ích kỷ th́ bị người khác xem là không có cách ǵ cứu chữa được. Chúng ta không thể nào tự ḿnh bắt đầu, không cần dựa vào chính phủ hoặc người khác mà vào chính bản thân ḿnh để làm một vài điều mà mọi người cho là ngốc nghếch chăng ?
Để kết luận, tôi cho rằng chúng ta đừng nên làm cho cái quan hệ con người trở thành phức tạp. Phải bắt đầu bằng sự rèn luyện bản thân ḿnh, con cái ḿnh. Ví dụ trẻ con ở Mỹ được mẹ chúng dạy cách thu dọn, lau chùi bàn ăn, vứt rác vào thùng sau khi ăn xong. Những thứ giáo dục đó phải bắt đầu từ bản thân, bắt đầu từ tấm bé. Sự huấn luyện này phải bắt đầu như một khởi điểm cũng như một lịch tŕnh.
Người Trung Quốc có rất nhiều đức tính, nhưng đáng tiếc chúng chỉ ở trên sách vở. Bây giờ chúng ta mong rằng chúng sẽ xuất hiện trên hành động. Hăy thử xem chúng ta có làm nổi hay không ?
Tôi xin dứt lời v́ đă lạm dụng quá nhiều th́ giờ của quư vị, xin thứ lỗi và xin chỉ giáo.
?@
Phần thảo luận
Thính giả : Ông vừa nói đến chế độ phong kiến dày xéo nhân quyền, cụ thể trong thời nhà Minh. Thực ra t́nh h́nh phương Tây th́ có khác ǵ ? Tôi nghĩ văn hóa hóa Tây phương cũng trải qua những thử thách của thời đại quân chủ chuyên chế như vậy, nhưng tại sao họ lại có thể đẻ ra được quan niệm nhân quyền và chủ nghĩa tự do mà Trung Quốc cho đến ngày nay vẫn không làm được ?
Bá Dương : Rất tiếc tôi không thể trả lời vấn đề này. Cứ cho rằng chúng ta không thể hiểu được v́ sao người phương Tây lại ăn bằng dao nĩa mà người Trung Quốc lại ăn bằng đũa. Văn hóa phát triển dần từng bước, hai nền văn hóa này từ thuở xa xưa không có ǵ dính dáng với nhau, không có khả năng ảnh hưởng lẫn nhau, mỗi cái phát triển theo mô h́nh riêng của nó. Sinh hoạt của từng cá nhân và vận mệnh của mỗi dân tộc thường bị những yếu tố rất lớn hoặc đôi khi rất nhỏ làm chuyển đổi phương hướng. Nhưng chúng ta lại không hiểu cái nhân tố lớn, nhỏ ấy là cái ǵ và ở đâu.
Thính giả : Những điều ông vừa nói làm chúng tôi cảm thấy buồn về cái thời trẻ tuổi lạc quan của chúng tôi. Tôi thuộc vào thế hệ những người lớn lên sau chiến tranh, và từ trước đến giờ tôi vẫn cho rằng thế hệ chúng tôi từ cách suy nghĩ cho đến nếp sống xă hội đều nhất nhất không giống thế hệ đàn anh.
Nói ví dụ, hiện giờ tôi không làm quan chức ǵ, nhưng biết đâu có một ngày nào đó tôi lại chẳng có một chức vị, để rồi chỉ có quan tính mà mất nhân tính. Nhưng dù có rơi vào trường hợp đó, tôi tin rằng cái quan tính của tôi so sánh với quá khứ vẫn ít hơn một tư, mà nhân tính nhiều hơn một tư. Tuy nhiên hôm nay ông nói vậy, tôi lại thấy không giống cách nghĩ của tôi.
Bá Dương : Tôi nghĩ tôi chỉ nói lên sự thực lịch sử. Nhưng v́ thời đại và hoàn cảnh vẫn đổi thay, giáo dục tiến triển, có thể ngày nay rồi sẽ không như thế nữa. Vả lại tôi tin tưởng vào sự thành tâm của anh và tin rằng anh sẽ làm được chuyện ấy.
Thính giả : Tôi vẫn thấy cách giải thích của ông khác tôi.
Bá Dương : Tôi cần nhấn mạnh thêm rằng cái chuyên chế chính trị ở Trung Quốc với cái chuyên chế chính trị của Tây phương về nồng độ và kích thước hoàn toàn không giống nhau.
Tôi học sử phương Tây không nhiều, nhưng nếu đem so sánh th́ chuyên chế Trung Quốc rất cực đoan.
ở cung đ́nh phương Tây chỉ quỳ một gối, trừ phi đối với thượng đế th́ mới quỳ hai gối. ở Trung Quốc không những phải quỳ cả hai gối mà c̣n phải khấu đầu, thậm chí đập đầu xuống đất cho kêu thành tiếng (Khải hưởng đầu).
Cuối đời nhà Thanh có câu : " Đập đầu nhiều, nói ít " (Đa khải đầu, thiểu thuyết thoại). Cái khái niệm nội tại cùng tŕnh độ của chuyên chế Trung Quốc e rằng Tây phương không thể so sánh nổi.
Tôi được thấy một bức tranh sơn dầu vẽ Louis XIV (Lu-is XIV) của Pháp. Ông này ngồi giữa, các đại thần và hoàng hậu ngồi chung quanh. Cái cảnh này không thể nào có ở Trung Quốc được, các đại thần ở Trung Quốc nhất định phải nơm nớp lo sợ, lấm la lấm lét quỳ mọp chung quanh.
Thính giả : Xin ông cho biết ư kiến về chữ giản thể (chữ Hán đơn giản hóa, dùng ở lục địa, so với chữ cũ nhiều nét vẫn dùng ở Đài Loan).
Bá Dương : Tôi tán thành chữ giản thể, lại càng tán thành việc phải phiên âm tiếng Trung Quốc. Tối hôm qua nhiều bạn tụ tập nói chuyện về vấn đề này, đại khái không ai nhất trí. Cái tâm lư bị bế tắc của những người phản đối chữ phiên âm cần phải được giải tỏa.
Lấy ví dụ, lúc gọi điện tôi hỏi anh họ ǵ? - Tôi họ Lưu! Chữ Lưu này viết thế nào có lẽ trên điện thoại khó mà giải thích cho rơ ràng được. Nếu tôi bảo anh đi tra từ điển, dĩ nhiên không phải tra được ngay, tra đến lần thứ hai, thứ ba vẫn không thấy chắc phải nổi điên lên.
Ngày xưa chúng ta trách cứ cổ văn không có dấu chấm câu, không biết ngắt câu thế nào và hiểu làm sao. Có ai đọc qua " Sử đời Nguyên " chưa ? Tên Mông Cổ như mớ ḅng bong, dài ḷng tḥng không biết là mấy người. Ngày nay tuy đă có dấu chấm câu, nhưng những khuyết điểm lớn của cái loại chữ vuông này lại càng lộ rơ.
Vấn đề đầu tiên là tách chữ. V́ tiếng Trung Quốc có nhiều từ ghép, dù biết hết các chữ đơn ở trong câu cũng chưa chắc đă hiểu.
Sau đó là không thể phiên âm. Loại chữ vuông này thông thường chữ nào đọc riêng chữ đó, không thể dính liền âm tiết lại với nhau, nên phải phí rất nhiều sức lực để tập trung mới hiểu được ư từ những âm tiết rời rạc đó. Ví dụ tôi nói " Tôi từ Mă-lai-xi-a đến " (Ngă ṭng mă lai tây á lai), ở đây chữ Malaisia phải liên âm và cách âm với chữ lai sau đó. Nếu không " Mă lai " (ngựa đến), " Tây á lai " (Tây á đến), và nếu có em bé nào lại lấy tên là Tây á th́ câu nói này lại thành vấn đề lớn.
Ngày nay máy chữ, điện năo (máy tính điện tử) đánh nhanh biết bao, tôi chỉ sợ rằng cái thứ chữ vuông này không thể nào bắt kịp bước tiến. Tôi chỉ mơ ước có được một cái máy đánh chữ tiếng Trung Quốc để khỏi phải ngày ngày làm cái loại động vật ḅ lên trang giấy.
Nhưng phiên âm tiếng Trung Quốc không phải dễ, chủ yếu v́ cái trở ngại tâm lư nơi chúng ta, v́ chúng ta cho rằng dùng ABCD là dùng mẫu tự tiếng Anh, chữ phiên ra là tiếng Anh. Kỳ thực không phải như vậy. Chúng ta phải hiểu là chữ ABCD này là mẫu tự Trung văn. Chữ phiên ra là chữ Hoa, không đến nỗi có cảm giác nhục nhă v́ bị đồng hóa. Đúng vậy, nó là tiếng Trung Quốc, tiếng Hoa chứ không phải tiếng Anh, tiếng Đức. Nếu dùng ABCD mà lại thành tiếng Anh th́ người Đức, người Pháp có thể tức chết được.
Văn tự hoàn toàn là công cụ, giống như cái xe, anh mua nó th́ nó là của anh, ai mua nó th́ nó là của người đó. Kỳ thực nếu chúng ta dùng văn tự phiên âm ngay hôm nay, người chết đói đầu tiên sẽ là tôi v́ tôi đang dùng cái loại chữ vuông này để kiếm cơm. Nhưng tôi cảm thấy sinh mệnh của riêng ḿnh rất ngắn ngủi, những lư do chính trị cũng rất ngắn ngủi, chỉ có văn hóa dân tộc là quan trọng, rất quan trọng. Nhất là các vị tại Mỹ, các vị có thể thấy con cháu đời thứ hai nói được tiếng Trung Quốc mà không viết được. Khó như thế th́ làm sao mà dậy chúng ?
Cứ như chữ Quốc ( ) [ nước ] viết thế nào ? Muốn biết nó chỉ có cách học thuộc ḷng, không có phương pháp nào khác. Ngay cả lúc trẻ con gào lên : " Tôi ghét tiếng Trung Quốc! " mà chúng ta vẫn c̣n chưa thức tỉnh sao? Chúng ta không thể làm cho những khó khăn trên đường tiến bước của Trung Quốc tăng thêm, không thể tự xích tay, cùm chân được.
Tại sao lại phải sống cho quá khứ, cho tổ tiên thay v́ sống cho con cháu ḿnh? Nếu chỉ v́ phiên âm mà rồi không đọc được sách cổ nữa th́ cũng chả sao. Hiện giờ chưa phiên âm mà anh đọc cũng đă chẳng hiểu rồi c̣n ǵ !
Việc quá khứ, việc tổ tiên, chúng ta có thể nhờ một số người để chuyên đi quét dọn miếu đường. Chúng ta phải v́ con cháu, v́ thế hệ sau này, v́ tương lai của nước nhà và dân tộc. Một ngày nào đó, nếu tiếng Trung Quốc bỗng nhiên trở thành tiếng quốc tế, chắc chắn nó không thể phổ cập được trừ phi dùng phiên âm.
Hôm nay tôi nhai đi nhai lại những khuyết điểm của Trung Quốc chắc có người nghe bị mất tinh thần. Nhưng tôi thấy rằng cần như vậy, v́ nếu cứ lải nhải khoe khoang những ưu điểm, đức hạnh, sự thông minh của ḿnh, rồi sẽ chẳng c̣n ai tôn trọng ḿnh nữa, v́ chính ḿnh đă không tôn trọng ḿnh ǵ cả.
Các bạn nên biết, những hoạn nạn của người Trung Quốc, không phải là chỉ của riêng người Trung Quốc mà c̣n là của cả thế giới. Một chiếc thuyền nhỏ ch́m th́ không sao, một chiếc tầu lớn bị ch́m có thể cuốn theo vào ṿng xoáy nước của nó những chiếc thuyền nhỏ xung quanh.
Tại sao Nhật Bản lại đến xâm lược chúng ta ?
Chính v́ sự yếu đuối của chúng ta đă dụ dỗ họ ra tay. Chúng ta phải tự cứu lấy ḿnh. Điều đầu tiên để tự cứu là phải biết được những khuyết điểm của ḿnh. Nếu không tự biết những khuyết điểm của ḿnh th́ chẳng khác ǵ suốt ngày chỉ nghĩ đến những chuyện đắc ư, chỉ sợ rồi cũng như Giả Bảo Ngọc (một nhân vật trong Hồng Lâu Mộng) suốt ngày luẩn quẩn với những ư tưởng dâm dật.
Thính giả : Tôi thường nghe được hai câu này - " Dĩ bất biến ứng vạn biến " (Lấy sự không thay đổi để ứng phó với mọi thay đổi), và câu " Báo thiện bất báo ưu " (Đáp lại bằng điều thiện, không đáp lại bằng sự lo buồn).
Bá Dương : Đối với câu " Dĩ bất biến ứng vạn biến " th́ tôi không dám có ư kiến ǵ, c̣n câu " Báo thiện bất báo ưu " tôi cho rằng đấy chỉ là một đặc trưng của giới quan trường.
Thính giả (người Mỹ) : Hôm nay h́nh như ông chỉ nói về khuyết điểm của người Trung Quốc, tôi muốn xin ông cũng nói về những cái xấu của người Mỹ. Qua những sách ông đọc, những việc ông nh́n, ông thấy được những điều ǵ nước Mỹ cần phải học hỏi ở năm ngh́n năm lịch sử Trung Quốc ?
Bá Dương : Về những điều xấu của nước Mỹ, chính người Mỹ đă nói lên nhiều rồi, đó là chỗ tôi rất khâm phục. V́ nước Mỹ có cái khả năng tự cân đối, tự phản tỉnh và tự điều chỉnh. Tự ḿnh có chỗ sai trái đều dám tự nói ra, tự ḿnh có thể tiếp thu, đánh giá. Đấy là những điểm mà người Trung Quốc chúng tôi không có được. Dĩ nhiên nước Mỹ không phải mười phần toàn mỹ, v́ trên thế giới này chưa có ǵ như vậy, mà nước Mỹ nếu như vậy chỉ sợ rồi nó sẽ xơ cứng mất.
Thính giả : Lúc ở đại học tôi có đọc qua vài tác phẩm của ông, tôi rất thích cái ng̣i bút châm chọc, cay chua, mỉa mai những điều không hợp lư trong xă hội. Hôm nay, được nghe ông nói về những khuyết điểm của người Trung Quốc, tôi rất cảm động mà cũng rất khổ tâm, chán nản, buồn rầu. Nhưng tôi cho rằng cũng giống như một con bệnh, nếu đă biết ḿnh bị bệnh tất phải t́m cách cứu chữa, thuốc thang. Tôi không biết trong các tác phẩm của ông có những ǵ mách bảo chúng tôi làm chuyện đó ? Ngoài ra tôi muốn ông nói một tư về t́nh h́nh trên văn đàn Đài Loan, giới thiệu cho chúng tôi những tác giả và những tác phẩm hay.
Bá Dương : Tôi xin nói về vấn đề thứ hai trước. Trần ánh Chân, Vương Tháp, Tam Mao, Ai Quỳnh Quỳnh, Trần Minh Bàn, Dương Thanh toàn là những nhà văn hạng nhất. Tôi không đọc được nhiều v́ ngồi tù mắt bị yếu đi, đọc chữ bé quá không được, mà sách báo Đài Loan chữ quá bé. Vấn đề này có lẽ phải xin nhà tôi đáp hộ.
Nói đến khuyết điểm, đến bệnh t́nh của người Trung Quốc, tôi biết các bạn rất buồn và tôi cũng rất buồn. Bởi v́ trước kia tôi toàn nghe nói đến những vinh quang của Trung Quốc, như kiểu Chu Nguyên Chương là một vị anh hùng dân tộc. Sau này tôi mới khám phá ra rằng không phải vậy. Trong lúc những người khác chiến đấu với quân Mông Cổ, th́ y ở tại hậu phương mở rộng địa bàn của ḿnh, đánh triệt hậu những người khác để chiếm đất, cuối cùng cướp chính quyền, hoàn toàn tính toán cho ư đồ riêng tư, chờ cho mọi người khác đánh xong quân Mông Cổ rồi y tọa hưởng kỳ thành.
Phát hiện được chuyện này tôi rất lấy làm chán nản. Tôi nghĩ nếu muốn phục hưng dân tộc phải bắt đầu bằng việc thừa nhận các khuyết điểm, những sai trái của ḿnh. Nếu không thừa nhận th́ làm sao cải cách được ? Không cải cách th́ làm sao tiến được ? Thời trước ḿnh đă không thừa nhận v́ không biết phân biệt phải trái, dù có thấy khuyết điểm cũng không dám nói. Nếu có kiểm thảo th́ chỉ toàn thấy những điều hay. Cho nên chúng ta toàn bị người ta bắt nạt, lúc th́ người này, lúc người nọ.
Mỗi người Trung Quốc phải tự xét ḿnh trước khi oán thán, kêu ca, trách cứ người khác. Tại Đài Bắc có cặp vợ chồng căi nhau t́m tôi phân bua. Người chồng hùng hổ bảo : - " Vợ tôi không yêu tôi ". Tôi nói rằng nếu muốn người khác yêu anh, điều kiện đầu tiên là tự anh phải là người khả ái. Nếu tự ḿnh không khả ái làm sao người khác có thể yêu ḿnh. Nếu ḿnh muốn người khác tôn trọng, th́ trước hết phải có cái điều kiện để được tôn trọng. Cái điều kiện này không thể cứ chửi bới hoặc hô khẩu hiệu là có được. Ví thử nơi này là nơi không thể tùy tiện khạc nhổ mà anh cứ khạc nhổ ; tiểu tiện phải vào nhà xí, anh lại cứ ở trên đại lộ mà làm, th́ hỏi rằng làm sao người ta tôn trọng anh được ? V́ vậy, để được tôn trọng chúng ta phải có những điều kiện tiên quyết, phải biết chúng ta khác người ở điểm nào, phải biết cái dở của ta, cái hay của người.
Nếu anh bảo người Mỹ tốt, người ta sẽ bảo anh là sùng bái Tây phương. Sùng bái th́ đă sao ? Hệ tư tưởng của chúng ta ngày nay, về kinh tế, học thuật, dân chủ, chính trị, nhân quyền có cái nào là do cha ông chúng ta tryền lại không ? Chế độ xă hội, h́nh thái ư thức, phương thức sinh hoạt đều do từ nước ngoài đến, có cái nào là truyền thống không ? Những sinh hoạt vật chất của chúng ta như xe ô-tô, máy bay, kính mắt, cách cắt tóc, cạo râu, nhà ở,v.v... đều chẳng phải do người Trung Quốc phát minh ra. Cho nên tôi thấy không phải là vấn đề sùng bái mà là vấn đề học tập. Hiện nay ở Đài Bắc người ta thích ăn gà ta, mà tôi cũng rất thích, không ai thích ăn gà tây, không ngon thành ra không ai ăn cả. Tóm lại cái ǵ hay th́ người ta thích.
Cái tinh thần người Trung Quốc không hiểu thế nào mà hễ cứ tôn sùng Tây phương là họ nghĩ tất yếu phải nịnh bợ nước ngoài. Không hiểu v́ sao lại đưa đến cái kết luận đó ? Sùng bái ở đây chẳng qua là học những ưu điểm của họ. Ví dụ có một ngày nào đó người Mỹ đều hút thuốc phiện tự sát, chẳng nhẽ chúng ta cũng lại bắt chước họ sao ? Chúng ta phải có cái tiền đề là làm sao cho người ta tôn trọng ḿnh, phải có khả năng tự t́m hiểu ḿnh. Đó là điều kiện tối cần để dân tộc ḿnh có thể tồn tại và phát triển.
Trách tới trách lui rồi chung quy cũng chỉ đi trách người khác th́ không thể nào cứu được dân tộc. Dân da đỏ nói măi là người da trắng giết hại họ, họ thù hận đến xương tủy, nhưng thù họ th́ làm được ǵ ? Phải tự ḿnh mạnh lên mới được. Không tự ngoi lên được, trong tương lai có thể c̣n bị giết nhiều hơn nữa. Không nên trách cứ oán thán ai cả, mà phải thấy được cái sai, khuyết điểm của ḿnh th́ mới có khả năng khá lên được.
Thính giả : Trong quyển " Những con trùng dậy sớm " ông lên án những tiểu thuyết huyền ảo, khuyên mọi người không nên xem tiểu thuyết kiếm hiệp. Trên nguyên tắc tôi hoàn toàn đồng ư với ông. Nhưng Nghê-Khuông lại bảo : " ở trên đời nếu không đọc tạp văn của Bá Dương đă là một sự mất mát lớn, nếu không xem được chuyện kiếm hiệp của Kim Dung lại là một sự mất mát lớn khác nữa ". Không hiểu ông nghĩ ǵ về câu nói này ? Vấn đề thứ hai là nghe nói lúc ở Lục Đảo ông đọc rất nhiều sách về tướng số. Tôi cho rằng môn tướng số là một bộ phận của văn hóa Trung Quốc rất thần bí, ông nghĩ sao ?
Bá Dương : Khi tôi viết quyển sách đó tôi chưa đọc tác phẩm của Kim Dung, bởi v́ thời đó tiểu thuyết của Kim Dung chưa xâm nhập vào Đài Loan (từ Hồng Kông). Sau khi đọc Kim Dung rồi th́ không thể đọc các loại truyện kiếm hiệp khác. Tôi đọc qua Vương Độ Lư, Bất Tiêu Sinh và rất nhiều kiếm hiệp khác. Nhưng sau khi đọc Kim Dung rồi, thấy chẳng ai sánh kịp. Cái tŕnh độ văn tự, cảnh ư của Kim Dung đều cực giỏi, thêm nữa tiểu thuyết kiếm hiệp của ông ta lưu hành ở nước ngoài nên ư nghĩa lại càng lớn. Nó làm mọi người say mê, giúp phổ cập hóa tiếng Trung Quốc. Ông ta viết quả là hay, bút pháp thật tài t́nh, đúng là không tiền khoáng hậu, tôi rất khâm phục.
Lúc ngồi tù tôi cũng đă đọc nhiều sách tướng số. V́ 12 năm vừa qua, thời cuộc đổi thay, có khả năng tôi không kiếm được cách sinh nhai, định ra ngồi lề đường bốc quẻ. Tôi đọc được hơn một năm. Sau đó có người bảo tôi là một chính trị phạm không được phép làm thầy bói, cho nên tôi cũng bỏ luôn. Nói đến vận mệnh th́ tôi tin là có. Các bạn trẻ thường không tin số mệnh, tôi thời trẻ cũng thế. Tăng Quốc Phiên có một lần nói với Lưu Thứ Thanh rằng : " Đừng tin sách, tin số mệnh ". Lưu Thứ Thanh bảo : " Lời nói đúng, truyền vạn thế ". Đời người có những thứ ḿnh không thể khống chế, nếu không dùng số mệnh để giải thích th́ dùng cái ǵ để giải thích được ? Những hiện tượng không thể điều khiển được, chúng ta gọi là vận mệnh, anh gọi là " bất vận mệnh " cũng được, miễn là đặt cho nó một cái tên. Tối hôm qua, phi cơ của Đài Bắc Viễn Đông Hàng Không bị nổ. Trước đó tôi có hay dùng phi cơ từ Đài Bắc đi Cao Hùng để khám mắt, nhưng b́nh thường vẫn chỉ ngồi viết bài tại ṭa soạn " Đài Loan thời báo ", c̣n chủ báo là Ngô Cơ Phúc và Tổng biên tập Tô Đăng Cơ rất hay đi đi về về giữa Cao Hùng và Đài Bắc bằng phi cơ, nên hiện nay tôi rất lo cho họ. Đấy chỉ là một dẫn chứng. Anh có thể cho phi cơ bay được, nhưng không thể làm cho phi cơ tránh được những chuyện xảy ra ngoài ư muốn.
Thính giả : Hôm nay là lần đầu tôi được gặp ông tại nước ngoài sau những năm ông bị tù đày. Tôi có một chuyện nhỏ muốn hỏi là sau bao năm khổ ải ấy bây giờ đứng trước mọi người đây, cái tâm t́nh của ông như thế nào, ông có ǵ để nói về những gian truân ấy ?
Bá Dương : Tôi cho rằng riêng tôi chẳng có ǵ thay đổi cả. Trong nhà lao cái ǵ phải khóc th́ tôi đă khóc, lúc phải cười th́ tôi cũng đă cười. Có người bảo ở trong tù th́ mặt ủ mày ê, đó là chưa thật ở tù. Nếu 10 năm mà lúc nào cũng sầu năo th́ sống thế nào được ? Lúc được vui th́ cứ vui, đó là cách nh́n của tôi. Nhất là đời người mà gặp hoạn nạn như tôi, thậm chí nghiêm trọng tưởng có thể bị tử h́nh, sau bị xử 12 năm tù.
Mười hai năm là một khoảng thời gian rất dài chả lúc nào thích ứng được. Gia đ́nh lại xảy ra biến cố, nào vợ xa chồng, chồng xa vợ, dù hẹn biển thề non lúc này đều hoàn toàn thay đổi.
Ngoài ra lại c̣n tác động đến t́nh bè bạn, đột nhiên rất nhiều bạn đâm ra sợ tôi. Có những bạn, b́nh thường có thể phó thác tài sản tính mạng được, bây giờ bỗng dưng thay đổi hẳn. Có những người chẳng thân thiết ǵ lại nhờ vả được. Cho nên tôi quan niệm rằng không thể khái quát hóa vấn đề này được, nó tùy theo mỗi trường hợp riêng.
Tôi ngồi tù được hai tháng th́ vợ tôi bỏ tôi, chưa được hai năm sau th́ chính thức ly hôn. Tôi kư giấy ly hôn gửi cho vợ tôi, cô ta hỏi c̣n đồ đạc của anh th́ sao ? Tôi hỏi đồ đạc nào? Đồ đạc trong nhà vốn tất cả là của tôi. Tôi bảo cho cô ấy toàn quyền định đoạt, những cái ǵ thuộc về tôi th́ cứ vứt hết ra đường, v́ ở Đài Loan tôi không có người thân, chẳng có chỗ nào để cất giữ.
Tôi nghĩ đấy là một trường hợp cá biệt, chẳng phải người đàn bà nào cũng như vậy. Đàn ông cũng thế, cũng có người thay ḷng đổi dạ, nhưng không phải tất cả đàn ông trong thiên hạ này đều như vậy.
Bạn bè th́ cũng chẳng khác mấy, có bạn lại sợ tôi mượn tiền, có người th́ dậu đổ b́m leo, chờ người ngă xuống giếng để ném đá theo, có người chẳng đoái hoài đến ḿnh nữa, có người lại lên án kịch liệt, chỉ muốn tôi bị xử bắn đi cho rồi.
Cái này cũng chỉ là vài trường hợp cá biệt và cũng chỉ có dăm ba người nào đó như vậy thôi. Vẫn c̣n những người khác sẵn sàng giúp đỡ ḿnh. Sự thật là như vậy.
Tôi hoàn toàn không cảm thấy bị mất mát, có mất chăng, đó là những kẻ không phải là bè bạn.
Phần Ii - Các Bài Viết
Phô bầy bệnh già nua, lẩm cẩm. Cái Triết học bắt đầu bằng kính và sợ. Chỉ trừ tôi ra. Tại sao không có thể mưu lợi được?. Giữ ḿnh là thượng sách. Loài động vật không biết cười. Nước có lễ nghĩa. Ba câu nói. Cả nước xếp hàng. Rút cuộc là cái nước ǵ ? (Đám cưới, đám ma, quán ăn). Chẳng kể thị phi, chỉ nói đến chính đạo. Phố Tầu, một động quỷ nuốt tươi người Trung Quốc . Nói chuyện về người Trung Quốc xấu xí . Kiêu ngạo hăo. Noi gương Tây phương nhưng không làm nô lệ. Kỳ thị chủng tộc. Lấy hổ thẹn làm vinh dự
hết: Đời Sống, Văn Học Và Lịch Sử, xem tiếp: Cái Triết học bắt đầu bằng KÍNH và Đời Sống, Văn Học Và Lịch Sử

Diễn văn đọc tại Phân khoa Sử, Đại học Stanford, San Francisco, ngày 22-08-1981.
Cái chủ đề tôi được giao phó hôm nay đối với tôi quá lớn, tôi cảm thấy hầu như không đảm đương nổi và sợ không đủ tư cách để đề cập đến một chủ đề lớn như thế. Tôi chỉ t́nh nguyện cố gắng đóng góp cảm tưởng riêng tư về những ǵ mà 5.000 năm lịch sử Trung Quốc gợi ư cho tôi.
Trước khi bắt đầu, tôi xin nói đến một cảm tưởng khác về người da đỏ châu Mỹ (chủ nhân nước Mỹ, cư dân nguyên thủy và chân chính của châu Mỹ).
Tôi đă được đi tham quan những vùng đất hoang phế của dân da đỏ ở Mỹ. Tôi cũng đă đến thăm những khu biệt lập dành riêng cho người da đỏ và gặp một số người da đỏ. Thời gian tuy rất ngắn, không nói được nhiều chuyện, nhưng ấn tượng đối với tôi rất sâu sắc. Tôi khám phá ra rằng các sản phẩm thủ công của người da đỏ ngày nay so với các sản phẩm của người da đỏ sáu trăm năm trước, không nói về h́nh thức và hoa văn, chỉ nói về những thủ pháp đan dệt và chất liệu sử dụng th́ không có ǵ thay đổi. Chỉ từ cái sự kiện nhỏ đó, tôi suy nghĩ và tự hỏi rồi không biết số mệnh của dân tộc này sẽ đi về đâu ?
Chúng ta không thể tưởng tượng được một dân tộc lớn với lịch sử lâu đời như thế lại có thể đang thoi thóp, ngắc ngoải trong các khu biệt lập tại Mỹ hiện nay. Cảnh ngộ của chính những người da đỏ này sau khi bị lừa gạt, tàn sát và sỉ nhục, so với cái lịch sử bi thương của người Trung Quốc chúng ta th́ nên nghĩ thế nào cho phải?
Riêng tôi có một ư nghĩ và nó làm cho tôi rất chán nản. Đó là vấn đề trước mắt của người da đỏ chẳng phải vấn đề đạo đức hoặc kinh tế ǵ cả nhưng đơn thuần là một đe dọa diệt chủng. Tôi không phải là một nhà tiên tri hoặc tướng số, tôi chỉ dùng sự suy đoán riêng tư và căn cứ trên những điều bạn bè cho tôi biết. Chúng ta có thể đoán rằng 100, 500, 1.000 năm sau, có thể sớm hơn hoặc chậm hơn, một ngày nào đó người da đỏ có thể hoàn toàn bị diệt chủng. Bởi v́ họ không tiếp thu được văn minh hiện đại.
Đương nhiên trước mắt, họ vẫn có những khu vực riêng họ không xâm phạm người khác, người ngoài cũng không xâm phạm họ. Nhưng những khu này lại là đất của nước Mỹ, có thể nói là do những người da trắng ban phát cho. Dĩ nhiên, trên vấn đề lư luận hoặc t́nh cảm chúng ta có thể nói không phải là ban phát cho, mà do họ tự tranh đấu mới có được một ít đất cũ vốn của họ. Nhưng nếu cái t́nh cảm của ta không dính dáng ǵ đến văn học, thơ ca nhưng đơn thuần về lư tính th́ chúng ta sẽ thấy rằng vài vùng đất riêng này là do ân huệ của nước Mỹ da trắng. Cho nên, nếu có một ngày nào đó, nước Mỹ đông dân hơn cần lấy lại những khu vực này th́ cái kết cục của người da đỏ sẽ vô cùng thê thảm.
Phải chăng chúng ta cần phải có cách nh́n như thế này : Sự hủy diệt của một dân tộc là một điều vô cùng lớn lao, nhưng không phải không có thể xảy ra ?
Những lúc tôi nh́n thấy những khu hoang phế của dân da đỏ, và cái sự tŕ trệ về văn hóa của chúng ta là trong ḷng tôi như dao cắt; không thể nào không nghĩ rằng một ngày nào đó dân tộc Trung Quốc cũng chẳng khác ǵ dân tộc da đỏ.
Có một người bạn bảo tôi : " Không thể thế được, dân tộc Trung Quốc có một lịch sử lâu đời, dân lại đông như thế ". Tôi nghĩ đấy chẳng qua chỉ là một cách an ủi về mặt tinh thần. V́ đem 5.000 năm lịch sử ra để bảo chứng cho sự bất diệt của một dân tộc th́ không hiểu căn cứ trên cơ sở nào ? Vũ trụ mênh mông, 5.000 năm chỉ là một khoảnh khắc, nhân loại sẽ c̣n tồn tại đến cả 5.000 ức năm nữa là ít. So với 5.000 ức năm th́ 5.000 năm có là bao ! C̣n nói về dân số nhiều ít, đó là một điều chẳng quyết định ǵ trong vấn đề hưng vong của một dân tộc. Thời đầu, lúc người châu Âu đổ bộ lên châu Mỹ, dân số người da đỏ c̣n rất lớn, lớn hơn nhiều so với người da trắng.
Cái ư nghĩ hồ đồ này làm tôi rất buồn và thấy rằng người Trung Quốc chúng ta đang gặp rất nhiều vấn đề. Một vấn đề nổi bật thật khó hiểu là tại sao đến bây giờ người Trung Quốc không thể hùng mạnh ? Trong khi chúng ta thật ra có đủ các điều kiện để trở nên hùng mạnh. Thế th́ nhất định các điều kiện cản trở sự hùng mạnh của ta phải vượt xa các điều kiện giúp chúng ta hùng mạnh.
Tôi xin nói trước tôi nghiên cứu lịch sử không có bài bản ǵ cả, cũng giống kiểu luyện thép thô sơ mà người Trung Quốc làm trong " Bước nhảy vọt lớn ", nhưng luyện rất chuyên cần nên bây giờ rất tâm đắc, xin đóng góp một ít suy nghĩ sau đây để mọi người tham khảo.
Tôi bắt đầu bằng một câu chuyện thế này : ở Mỹ có một công ty phái nhân viên của ḿnh đi Âu châu khảo sát. Sau mấy tháng người ấy trở về làm báo cáo dầy cả 200 trang cho công ty, nói rằng về phương diện kỹ thuật cũng như quản lư châu Âu đều lạc hậu kinh khủng, không thể nào b́ được với Mỹ.
Khi ban giám đốc đọc xong bản báo cáo liền ra lệnh khai trừ nhân viên này. Tổng Giám đốc nói : " Chúng tôi gửi anh đi châu Âu để tận mắt khai thác những sở trường của họ chứ không phải t́m những sở đoản của họ. Chúng tôi không cần anh phát hiện những ǵ ḿnh đă làm tốt rồi. Chúng tôi cần biết những điểm họ mạnh hơn ḿnh và thấy được những khuyết điểm của ḿnh để sửa chữa. Chúng tôi không cần nghe những lời tự ca tụng, cái đó nghe nhiều sẽ bị ru ngủ, làm cho phẩm chất sản phẩm của chúng ta xuống thấp, công ty chẳng mấy lúc mà đóng cửa ".
Câu chuyện này có thể xem là một chuyện ngụ ngôn v́ từ nó chúng ta rút ra được một bài học lớn. Cái chúng ta cần hôm nay không phải là phát hiện những thứ hay ho của ḿnh mà t́m ra những cái ngăn chặn sự tiến bộ của dân tộc Trung Quốc, cho chúng ta thấy được nguyên nhân đang cản trở sự hùng mạnh của đất nước.
Lúc năy ăn cơm trưa, có vài người bạn quan tâm đến việc học tập của con cháu chúng ta, sự tốn kém của học phí đại học. Tôi cũng thấy được rằng người Trung Quốc dù khổ sở nghèo khó thế nào đi nữa cũng đều cố gắng cho con cháu ḿnh được học hành. Đó là một điểm mạnh, một ưu điểm của dân tộc Trung Quốc, tôi không cần các bạn nhắc lại quá nhiều nữa. Cái tôi muốn nói hôm nay là những khuyết điểm của dân tộc chúng ta. V́ chỉ nói ưu điểm th́ không thể tự cứu được ḿnh, muốn tự cứu được ḿnh phải biết nói lên những khuyết điểm của ḿnh.
Điểm thứ nhất :
Trung Quốc có lịch sử 5.000 năm. Trong 5.000 năm ấy, lực lượng phong kiến chà đạp lên phẩm giá, nhân tính con người không phải ngày càng giảm thiểu mà ngày một gia tăng.
Thời Xuân Thu Chiến Quốc, vua và quan c̣n gần như cùng ngồi ngang hàng nhau, có thể nói nằm cùng gường ăn cùng mâm. Đến thời Tây Hán, thế kỷ thứ II trước Công nguyên (206 BC-AD 25), Thúc Tôn Thông đặt ra nghi lễ triều đ́nh dưới triều hoàng đế Lưu Triệt vào lúc học phái Nho gia đang nắm quyền. Nghi thức này biến đế vương thành một thứ quyền uy, không những rất trang nghiêm, cung kính mà c̣n làm cho mọi người khiếp sợ.
Khi Đại thần vào triều kiến Hoàng đế có vệ sĩ kè kè bên cạnh, bất kỳ ai có thái độ không hợp quy cách, như kiểu vô t́nh ngẩng đầu lên nh́n một cái cũng có thể bị xử phạt. Những thay đổi này làm cho vua chúa xa cách nhân dân, lúc nào cũng giữ một khoảng cách, nhưng dưới trướng Hoàng đế các Đại thần vẫn c̣n có chỗ ngồi.
Đến thế kỷ thứ X dưới triều Tống (960- 1279) th́ cái địa vị này cũng không c̣n nữa. Việc Tể tướng cùng ngồi với Hoàng đế để luận đạo đă vĩnh viễn mất. Cái cải cách rất nhỏ này nhưng ư nghĩa rất lớn. Nghĩa là giữa vua tôi, quan dân khoảng cách càng ngày càng lớn.
Đến thế kỷ XIV dưới triều Minh (1368 - 1644), cái nhân phẩm c̣n bị chà đạp đến độ không tưởng tượng được. Nhà vua đối với thần dân của ḿnh khinh thị như cừu thù. Triều Minh này lập ra cái quan niệm " vua cha ". Vua là cha, Hoàng đế là bố của tất cả mọi người trong nước. Cái quan niệm này khi được thiết lập rồi lại sinh ra các hủ tục khác không kể xiết. Trong những thứ ấy, cái đáng sợ nhất là " đ́nh trượng ". Từ Tể tướng đến tiểu quan, chỉ cần bị xem là phạm pháp đều có thể bị nọc ra giữa cung điện, giữa công đường, hoặc ngay tại một chỗ công cộng, dùng gậy đánh cho đến thịt rơi máu văi. Cái chế độ " đ́nh trượng " kết hợp với tư tưởng " vua cha " làm cho ḷng tự trọng của người Trung Quốc gần như mất hẳn, làm cho nhân cách của họ hầu như không c̣n ǵ . Cách duy nhất để giữ được ḷng tự trọng là cố gắng không kêu la khi bị đánh. Để khỏi kêu la thường những viên quan kiên cường đă chà xát mặt xuống đất mạnh đến nỗi sau đó râu rụng không c̣n sợi nào. Thời đó, phản ứng duy nhất có thể làm được là như vậy, không có cách phản kháng nào khác.
Chúng ta thường bảo rằng dân Trung Quốc là một dân tộc có sức đồng hóa phi thường, và cho đến ngày nay vẫn đúng như vậy. Chúng ta có thể thấy bao lần trong lịch sử, sau khi chiếm được Trung Quốc, những dân tộc ngoại xâm cuối cùng cũng đều bị đồng hóa. Sớm nhất là thời Bắc Ngụy (368 - 534), Hiếu Văn Đế Thác Bạt Hoành (Hoằng) sau khi chiếm được Trung Quốc lại sử dụng hệ thống chính trị của Trung Quốc để cải cách, canh tân. Triều Măn Thanh cũng thế. Hai lần bị xâm lược lớn nhất này lại là hai lần thắng lợi lớn nhất của văn hóa Trung Quốc.
Nhưng ta phải chú ư điều này : Những kẻ xâm lược cố nhiên đều hấp thụ và kế thừa văn hóa Trung Quốc, nhưng lại tiếp thu cái phần kém nhất của văn hóa Trung Quốc, nên kết cục cũng chẳng ra ǵ. Thay v́ trở nên hùng mạnh th́ cả dân tộc họ lẫn dân tộc Trung Quốc lại càng suy thoái. Ví dụ như hoàng đế Bắc Ngụy là Thác Bạt Hoành tuyên bố cấm người Tiên Bi (Ty) nói tiếng Tiên Bi, nhất loạt đều dùng tiếng Trung Quốc, ngoài ra lại đổi tên họ ḿnh thành tên họ Trung Quốc, áp dụng chế độ cung đ́nh phong kiến, chế độ gia thế, quư tộc Trung Quốc mà họ không hề có. Trước kia họ là dân du mục trên các thảo nguyên, đầu óc khoáng đạt. Tôn ty trật tự, khoảng cách giữa các giai tầng xă hội không lớn lắm. Những thứ tốt đẹp đó đều bị phá hoại cả.
Thính giả: - Xin hỏi " đ́nh trượng " là thế nào?
" Đ́nh trượng " là " đánh đít ". Người bị đánh nằm sấp, bốn hoạn quan giữ tay chân buộc chặt vào cọc, sau đó dùng bao tải trùm đầu, hai hoạn quan đè đùi sát xuống đất. Vua ra lệnh đánh 100 trượng là đánh 100. Thông thường không đánh quá 100 trượng, v́ 100 là cũng đủ chết rồi. Bọn tay sai chấp hành lệnh quan sát sắc mặt vua. Nếu vua chỉ ghét thôi mà không muốn giết, th́ đánh xong 100 trượng, kẻ bị đánh vẫn c̣n có thể sống được. Nhưng nếu ư ông con trời kia lại muốn giết, th́ chỉ cần ba bốn mươi trượng là đủ toi mạng.
Nói chung các quan viên hay người có chức phận khi bị đánh phải đút lót cho bọn hoạn quan, bọn này sẽ dùng thủ pháp đánh kêu rất to, trông rất đau, máu thịt tơi bời, nhưng lại không phạm vào gân cốt, không chết người. Bọn này đều được huấn luyện đến độ có thể dùng giấy bọc một bó rơm, đánh cho rơm bên trong nát mà tờ giấy không hề rách. Ngược lại họ có thể đánh làm sao không để lại thương tích ǵ trên da thịt mà bên trong gân cốt đều nát bấy. Chế độ đánh đ̣n này làm nhân phẩm hoàn toàn bị phá sản. Thế kỷ XIV, XV tại châu Âu đă là thời Phục Hưng nhưng tại Trung Quốc, hỡi ôi ! vẫn c̣n là thời kỳ đánh đít.
Xin quay lại vấn đề. Dân Mông Cổ là một dân tộc rất kỳ quái, sau khi đă xâm nhập vào Trung Quốc vẫn giữ một thái độ chống đối văn hóa Trung Quốc. Trong ṿng 180 năm, lúc đến thế nào th́ ra đi thế ấy, không hề bị nhiễm văn hóa Trung Quốc.
C̣n nhà Thanh, sau khi được thành lập lại thừa kế cấu trúc xă hội và hệ thống chính trị của triều Minh, thời kỳ hắc ám nhất, làm cho chính quyền mới đă có mầm mống bị đục ruỗng để cuối cùng không thể nào cứu văn được nữa.
Nhân quyền bị chế độ phong kiến, xă hội phong kiến chà đạp trong một thời gian lâu dài như vậy cơ hồ chẳng c̣n ǵ. Cái ảnh hưởng của việc này rất lớn đối với người Trung Quốc, nó làm người Trung Quốc không giữ được ḷng tự trọng nữa.
Cái tự trọng c̣n lại chẳng qua cũng chỉ là cái tinh thần tự dối ḿnh như A Q trong truyện của Lỗ Tấn. Cái tinh thần đó và cái ḷng tự trọng chân chính khác nhau một trời một vực. Ví dụ tôi đến thăm anh, thấy anh nhà cao cửa rộng, học vấn uyên bác, trong ḷng tôi kính phục, hâm mộ anh. Trên đường về đáng lẽ tôi nghĩ phải cố gắng phấn đấu, làm việc, học hành để có thể được như anh. Đằng này lúc ra khỏi nhà anh tôi lại bảo: ở nhà đẹp thế! Không biết ăn cắp hay ăn cướp ở đâu ra lắm tiền! Cầu trời cho ngày mai có đám cháy thiêu trụi cái nhà nó đi cho rồi !
Tâm lư dân tộc ta bị ức chế lâu ngày chỉ biết dùng cái tinh thần đó để tự thỏa măn.
Điểm thứ hai :
Trong suốt 5.000 năm lịch sử, Trung Quốc chỉ có ba thời đại hoàng kim. Thời đại đầu là Xuân Thu Chiến Quốc (770 - 476 trước Công nguyên) - thời này có rất nhiều trường phái tư tưởng, nhiều lối sống khác nhau cùng xuất hiện. Thời đại thứ hai phải là đời Đường (618 - 907) - từ Đường Thái tông Lư Thế Dân đến Đường Minh Hoàng Lư Long Cơ khoảng 100 năm (650 - 756). Thời kỳ thứ ba là 100 năm đầu của nhà Thanh (1644 - 1911).
Trong 5.000 năm lịch sử Trung Quốc chỉ có ba thời đại hoàng kim này. C̣n hơn 4.000 năm kia, cơ hồ mỗi năm, thậm chí mỗi ngày đều có chiến tranh.
Một học giả Tây phương đă làm thống kê chứng minh rằng từ khi nhân loại có lịch sử đến giờ, không năm nào không có chiến tranh. Hiện tượng này đối với lịch sử Trung Quốc cũng chẳng khác.
Riêng tôi cũng đă làm qua thống kê, lại c̣n viết thành một bộ sơ cảo : " Lịch biên niên những thời đại chiến loạn của sử Trung Quốc " (Trung Quốc sử đại chiến loạn biên niên lịch) cho thấy ở Trung Quốc năm nào cũng có chiến tranh. Nhưng không thể đem Trung Quốc so sánh với thế giới được. Thế giới là một đơn vị quá lớn so với Trung Quốc, nhất là vào đời nhà Minh th́ bản đồ Trung Quốc chỉ bằng thời Tần ở thế kỷ thứ II trước Tây lịch, nghĩa là bằng khoảng một nửa bản đồ hiện nay.
Thế mà trong một bản đồ nhỏ như thế, mỗi năm đều có chiến tranh ! Chỉ căn cứ trên những chiến tranh lớn được ghi chép lại, các chiến sự nhỏ không thuộc phạm vi thống kê này, th́ cũng có thể thấy rằng loạn lạc, chiến tranh ở Trung Quốc đáng sợ vô cùng.
Khi một triều vua này thay thế một triều vua khác, cái thời kỳ quá độ đầy hỗn loạn có thể kéo dài từ 30 đến 50 năm. Từ lúc đoạt chính quyền đến lúc ổn định, lại cần khoảng 20 năm nữa. Rồi tiếp đó là cái ṿng luẩn quẩn bắt đầu bằng sự thối nát của chính quyền vừa đoạt được, các lực lượng phản kháng lại trỗi dậy, rồi kéo đến những hỗn loạn lớn. Chiến tranh lại bắt đầu, rồi cái ṿng trị loạn, tranh giành, chém giết cứ tiếp diễn.
Có thể nói rằng người Trung Quốc trường kỳ, thậm chí vĩnh viễn, sinh ra và lớn lên trong tham ô, hỗn loạn, chiến tranh, giết chóc, bần cùng, cho nên chẳng bao giờ có cảm giác được an toàn, lúc nào cũng hoảng hốt, lo âu.
Chúng ta có lịch sử lâu đời, lại có đất nước mênh mông, đầu óc tất phải khoáng đạt, lớn lao, cởi mở, tự tin. Thế mà ngược lại chỉ v́ bần cùng, giết chóc, đố kỵ một cách lâu dài thành ra ḷng dạ chúng ta thành hẹp ḥi.
Chỉ cần ngày hôm nay có thể qua đi là được rồi, ngày mai thế nào không cần biết. Chiến tranh sẽ c̣n kéo dài đến mức độ nào, ai mà thấy trước được ! Chiến tranh ảnh hưởng đến thủy lợi, thủy lợi bị phá hủy rồi th́ đến hạn hán lớn, sau hạn hán là đến nạn châu chấu.
Những tai họa này, hạn hán, ngập lụt, châu chấu, rồi đất hoang ngh́n dặm. Trong lịch sử, cái câu " Người ăn thịt lẫn nhau " không biết đă xuất hiện đến mấy chục lần hay mấy trăm lần. Nếu chúng ta nghĩ rằng chúng ta là một dân tộc có văn minh cao, sao lại có thể có cái hành vi dă man ấy ? Cũng chỉ v́ những tai nạn đối với chúng ta quá nhiều, lại bị tai nạn quá lâu !
Chẳng cần nói quốc gia dân tộc ǵ cả, chỉ nói từng cá nhân, một con người nếu bần cùng quá lâu ngày, quá ư khổ sở, người ấy rồi đối với bất cứ sự việc ǵ cũng đều sinh ra cái tâm lư nghi ngờ.
Mấy hôm trước khi ra tù, một quan chức kêu tôi ra bảo : " Tôi báo cho anh một tin mừng, anh sắp được thả rồi! ". Tôi nói: " Tôi chán thịt thỏ lắm rồi! ". Anh ta bảo: " Anh không tin tôi à? Tôi nói dối anh làm ǵ? ". Tôi phải yêu cầu anh ta đem giấy đến cho tôi xem.
Bởi v́ tôi đă từng quá tin, từng bị gạt quá nhiều, mỗi lần như vậy đều thất vọng. Một người bị nạn quá lâu có quyền không tin vào những tin tức tốt. Một dân tộc cũng vậy. Bị đày đọa lâu ngày, mọi người cho rằng sang một triều đại mới có thể rồi sẽ như thế này, thế nọ. Kết quả gần như không có một lần nào là không hụt hẫng.
Có người hỏi: tại sao Trung Quốc không có kiến trúc lớn mà nước ngoài lại có? - ấy là v́ các kiến trúc Trung Quốc thường làm bằng gỗ, dễ bị mục. Tôi cho rằng đó không phải là câu trả lời đúng mà nguyên nhân là v́ cứ sau mỗi một
triều đại mới lên là chúng lại bị đem đốt đi.
Nhà Tần để lại những cung A Pḥng đẹp như thế, nhưng Hạng Vũ cho rằng đó là mồ hôi nưới mắt của dân, do chính trị bạo ngược làm ra, bèn cho một mồi lửa. Chỉ mấy hôm sau, Hạng Vũ lại cho xây một cung điện khác. Rồi qua mấy hôm nữa sẽ có một kẻ khác phê b́nh cho rằng đấy là bạo chính, là mồ hôi nước mắt nhân dân, lại thiêu rụi đi. Cứ như thế mà đi đến chỗ măi măi nghèo xơ xác, không có cách nào mở mang được đầu óc, xây dựng được ḷng tự tôn.
Lại có câu cách ngôn " Đa nạn hưng bang " (nhiều nạn th́ dựng được nước). Trước tiên chúng ta cần hiểu rằng cách ngôn thuộc về cảm tính, trong một điều kiện đặc biệt nào đó, nó là chân lư, nhưng nó không hề có tính khoa học. Nếu " nạn " mà quá nhiều th́ làm cách nào " hưng bang " được ? Đối với cách ngôn nhất định cần có nhận thức.
Lại lấy một ví dụ nói " Ai binh tất thắng " (Quân lính đau buồn th́ sẽ thắng trận), điều này có thể không có ǵ là chắc chắn. Ai binh chẳng đă từng thất bại đầy rẫy! Một đội quân dù lớn mà rốt cuộc bị tiêu diệt, lúc đó không phải thành ai binh th́ là ǵ ? Giống như khi Carthage (Các-ta-giơ ở Bắc Phi) chống lại La-Mă, đến lúc cuối cùng cơ hồ cả nước đều là quân binh, có thể nói " vừa khóc vừa đánh ", kết cục vẫn bị La-Mă tiêu diệt. " Ai binh " chưa chắc đă thắng. " Nạn " mà quá nhiều chắc ǵ đă dựng được nước ? Phải nói rằng " nạn " nhiều đúng mức, đúng thời may ra mới có thể " hưng bang " được.
C̣n Trung Quốc th́ sao ? Dường như cái " nạn " lại quá nhiều. Cũng may là cái quá nhiều đó chưa đạt đến độ tiêu diệt cả chúng ta, nhưng cũng đă đến cái chỗ đủ nhiều để làm cho chúng ta mất cả linh tính.
Điểm thứ ba :
Chúng ta phát hiện được trong lịch sử Trung Quốc một hiện tượng kỳ quái mà các nước khác không có, đó là chế độ khoa cử, hay gọi tắt là " Quan trường ".
Nhật Bản hấp thụ văn hóa Trung Quốc một cách toàn diện. Không cái ǵ Trung Quốc có mà họ không từng tiếp nhận, từ cái nhỏ như manh chiếu (Tatami), đôi guốc (Geta), đến cái lớn như chế độ, tổ chức chính trị, v.v.., nhưng chỉ có một điểm mà họ không tiếp nhận, mà điểm này đă giúp họ trở thành một nước hùng cường rất nhanh chóng trong thời Minh Trị Duy Tân, đó là chế độ khoa cử.
Chế độ khoa cử Trung Quốc cũng có những tác dụng tốt, nhưng lại đẻ ra " vấn đề quan trường ". Quan trường là một cái mạng nhện kỳ quái, nh́n th́ không thấy, sờ không đụng, nhưng lúc bị rơi vào rồi mới biết. Ta không thể dùng chữ Bureaucrats tiếng Anh để dịch chữ " quan liêu " trong tiếng Trung Quốc được, bởi chữ này không lột tả hết được cái đặc trưng của nó. Quan liêu chẳng trung thành với quốc gia, lănh tụ ǵ cả, chỉ tận tâm tận lực với kẻ cất nhắc nó lên làm quan. Các triều đại Trung Quốc có thể thay đổi, song quan trường vẫn thế.
Người Măn Thanh sở dĩ thống trị được người Tây Tạng, người Mông Cổ, người Hán v́ biết nhắm vào nhược điểm của các dân tộc này.
Đối với người Tây Tạng họ dùng đạo Lạt-ma, mời những tăng lữ lạt-ma đến Bắc Kinh và đối xử với họ cực kỳ cung kính.
Đối với người Mông Cổ th́ họ dùng thủ đoạn hôn nhân, gả những công chúa cho những hoàng tử Mông Cổ, con cái lai sinh ra thành ra con cháu của ḿnh, đem chúng nuôi dưỡng ở cung đ́nh nhà Thanh. Các vương tử đó một khi lớn lên không thể nào phản lại chú bác cô d́ của chúng.
Trong khi đó công chúa Măn Châu không bao giờ lấy người Hán. Người Măn Châu trị người Hán bằng phương pháp khoa cử. Họ biết người Trung Quốc có cái khuyết điểm là thích làm quan. Nếu tôi cho anh cái hy vọng được làm quan th́ anh có thể ngoan ngoăn đem giao ngay hết cả ư thức dân tộc lẫn phẩm giá con người.
Sở dĩ " Quan trường " có cái bộ mặt của các xă hội thần bí v́ nó mang những tiêu chuẩn cư xử và những quan niệm về giá trị rất đặc thù.
Nó không trung thành với vua, vua thay th́ nó vẫn làm quan. Nó cũng không sợ mất nước, nước mất, chỉ cần nó vẫn được làm quan th́ nó vẫn làm. Cái xă hội ăn chơi, phù hoa là nơi các quan ra oai, tự nhiên h́nh thành một hệ thống tương hỗ bao che giữa các quan với nhau - một quan hệ vô cùng phức tạp.
Quyển sách " Quan trường hiện h́nh kư " là một quyển sách phân tích cái cấu trúc của chế độ quan trường Trung Quốc dưới cặp mắt nghiên cứu những vấn đề xă hội. Bởi v́ từ khi quan trường được thiết lập, những quan hệ giữa người với người tại Trung Quốc càng trở nên tinh xảo. Các vị ở Mỹ lâu năm có thấy rằng cái quan hệ giữa con người ở Mỹ so với Trung Quốc th́ quá đơn thuần không ?
ở Trung Quốc có một câu nói: " Làm việc th́ dễ, làm người th́ khó! ". Làm người là thế nào nhỉ ? Tức là làm sao cho cái quan hệ giữa con người với nhau được tốt đẹp.
Có một vở Kinh kịch (kịch Bắc Kinh) nhan đề " Thẩm đầu thích thang " (khám đầu t́m kẻ giết ông Thang) trong đó có một quan ṭa, một vị bồi thẩm và một góa phụ nhan sắc xinh đẹp mà chồng vừa bị mưu sát. Trong phiên ṭa người đàn bà góa ôm một đầu người đứng khóc. Nhiệm vụ của ṭa là phải xác minh xem đấy là đầu của ai. Nếu đúng là đầu của chồng bà ta th́ vụ án xem như có thể kết thúc. Nhưng nếu là đầu của một người khác th́ vụ án này c̣n liên quan đến rất nhiều người, và có thể sẽ c̣n nhiều người khác sẽ chết. Ông bồi thẩm có ư thích người đàn bà góa trẻ đẹp này, và bà này cũng ra ám hiệu cho ông ta biết là bà ta sẽ ưng thuận tái giá với ông ấy, nên ông này một mực rằng đấy là đầu của chồng bà ta. Nhưng sau khi xem chừng vụ án có vẻ xong xuôi, bà góa bèn tỏ ư không muốn lấy ông bồi thẩm nữa. Ông này cũng lập tức quay phắt ra nhất quyết bảo cái đầu ấy lại không phải là của chồng bà ta nữa. Vở kịch này tiêu biểu cho cái phản phúc trong quan hệ quan trường của người Trung Quốc chúng ta. Đầu thật, đầu giả cho đến phút cuối cùng cũng không ai có thể biết như thế nào.
Tôi nghĩ rằng trong chúng ta nhiều người đă về làm việc ở Trung Quốc hoặc sẽ về làm việc trong tương lai, tôi tin chắc khó khăn các vị gặp phải thường không dính dáng đến bản thân công việc, mà dính đến những người cùng làm việc với các vị.
Nói ví dụ anh làm việc ở một ḷ nguyên tử. Anh có biết ǵ về nguyên tử hay không, đó là một vấn đề thuộc công việc. Nhưng sẽ rầy rà to nếu một hôm anh cần một đinh ốc cho ḷ phản ứng mà người quản lư ốc vít lại nghỉ việc. Anh ta bị ốm, đương nhiên xin nghỉ, anh không thể cấm người ta ốm được. Nhưng sự thật anh ta lại không hề cảm cúm ǵ cả, chỉ nghỉ để đi đánh mạc chược? Tại sao?
Bởi v́ quan hệ giữa anh và người ấy không được tốt đẹp. Cái ḷ nguyên tử của anh có hoạt động được hay không, thậm chí có bị nổ tung đi nữa, cái việc ấy người đó cũng cóc cần. Nếu anh bảo nước nhà bị thiệt hại th́ cũng kệ, tôi cứ việc quan tôi làm.
Đó là cái đầu óc quan trường tích lũy từ mấy ngh́n năm, một chứng bệnh vẫn c̣n duy tŕ đến cuộc Bắc Phạt của quân Cách mạng Quốc dân năm 1928.
Về mặt quân sự, trong khi quân đội đánh dẹp các sứ quân ở miền Bắc, th́ về mặt chính trị cái chất độc của quan trường lại tràn xuống miền Nam. Trước kia giữa những đồng chí cách mạng t́nh cảm rất trong sáng, nhưng khi đă bị cuốn hút vào giới quan trường bỗng trở thành phức tạp ghê gớm, phức tạp đến độ một người lành mạnh không thể nào chịu nổi.
Cái quan hệ giữa con người với nhau trở thành một loại keo dính đến độ hễ dán vào rồi là không thể nào gỡ ra được nữa. Có ai trong các vị thấy điều đó khi về nước không?
Lấy một ví dụ khi anh về nước, bạn bè mời anh đi ăn cơm, anh dám cả gan từ chối th́ t́nh bạn sẽ từ đó bị sổ toẹt ngay. Đó là đặc tính của quan trường, nó làm cho quan hệ con người trở nên khúc mắc ghê gớm. Tại sao lại như thế ? Tại sao anh ta phải xử sự như vậy ? Bởi v́ làm như thế th́ cái địa vị của anh ta mới càng thêm vững chắc.
Tôi có một người bạn về Đài Loan được một người chưa hề quen mời ăn cơm. Sau khi ăn xong, người này mới nhờ anh đem dùm về Mỹ một món đồ. Người này làm ra vẻ nhờ vả rất tự nhiên, như thể bạn bè vẫn thường giúp đỡ nhau chứ không phải đánh đổi một bữa cơm để lấy chuyện đưa đồ.
Cái hiện tượng quan trường là như vậy, giống kiểu anh làm ḷ nguyên tử, cái ḷ phản ứng hạt nhân này rất nguy hiểm không phải ai cũng mó vào được. Nhưng người nọ lại cho rằng đă là bạn bè với nhau cho anh ta sờ đến một cái th́ đă sao.
Thường thường một người trước khi làm quan và sau khi được làm quan là hai loại người khác nhau. Thật ra nói như vậy không lô-gíc. Chỉ có thể nói rằng hễ cái " quan tính " của một người càng hưng thịnh th́ cái nhân tính của người đó càng biến mất đi. Không c̣n nhân tính nữa, chỉ c̣n cái quan tính lúc làm quan. Cho đến một ngày tất phải về hưu, lúc đó cái nhân tính may ra mới hồi phục.
Sự tồn tại của quan trường làm cho cách làm việc tại Trung Quốc trở thành rất đặc biệt, khiến cho quỹ đạo của sự phát triển văn hóa đi lệch hướng.
Điểm thứ tư :
Tôi cho rằng Khổng Khâu (Khổng Tử) là một nhân vật vĩ đại, tri thức uyên bác, lại có một tấm ḷng nhân hậu và những cống hiến lớn đối với xă hội. Cái Nho giáo do Khổng Khâu cùng những học phái Nho gia sau này lập ra đều đă ảnh hưởng đến người Trung Quốc một cách sâu rộng, và c̣n ảnh hưởng ngay cả đến chúng ta ngày nay. Nhưng tinh thần nhà Nho là một tinh thần bảo thủ, nói một cách nghiêm túc hơn th́ nhà Nho không những rất bảo thủ mà c̣n phản tiến bộ.
Chữ " Nho " này vào thời Xuân Thu Chiến Quốc chỉ được dùng theo nghĩa sử dụng trong nghi lễ cúng tế. Một nhà Nho là một người hiểu biết cái tŕnh tự cúng tế. Gặp lúc quốc gia cần các nghi lễ mới cần loại người này đóng góp ư kiến. Bản chất loại người này vốn nệ cổ. Thời đó chưa có lễ nhạc mới, phải dùng lễ nhạc thời cổ. Để có miếng cơm nhà Nho phải giữ ǵn sao cho nghề nghiệp của họ được ổn định nên sinh ra thói nệ cổ. Nếu chúng ta không dùng từ nệ cổ, sùng bái những cái cũ, v́ cho rằng nó có nghĩa xấu th́ cũng phải bảo là họ rất bảo thủ.
Cái tinh thần bảo thủ này ở Trung Quốc đă trở thành một ư thức bền bỉ, làm cho xă hội mất hết sức sáng tạo, mất tập quán tự t́m hiểu, tự phê phán.
Bạn bè lúc nói chuyện về nước Mỹ (xin lỗi, tôi cứ múa búa trước cửa Lỗ Ban, tôi muốn nói chơi thôi, xin quư vị cứ nghe chơi chứ đừng tin thật! ), có người nói về việc đàn áp chủng tộc, nào tàn sát dân da đỏ, ngược đăi da đen, kỳ thị da vàng. Tôi đă từng đi tham quan đảo Angel (En-giơn), đă được nh́n thấy chữ và những ḍng thơ người Trung Quốc để lại nói lên những sầu thảm và đau khổ của đời họ.
Những khuyết điểm này của nước Mỹ có thật không ? Dĩ nhiên là có thật, thậm chí c̣n hơn sự tưởng tượng của chúng ta nữa. Nhưng chúng ta phải lưu ư thêm một vấn đề khác, đó là đối với các khuyết điểm kia họ có khả năng sửa đổi không? Tự họ có ư thức được vấn đề không ? T́nh h́nh hiện nay so với trước có khá hơn không ? Nếu không th́ tiền đồ của nước này chắc chắn cũng không sáng sủa ǵ. Nếu có th́ chúng ta phải thấy rằng đấy là một quốc gia vĩ đại, có một sức sống dồi dào.
Trước kia nước Mỹ có " cây treo cổ người ", bây giờ không c̣n nữa. Xưa kia nước Mỹ đối với tù nhân có dùng " nhà lao nước ". Bây giờ khi bắt bớ người, họ phải đọc điều thứ 9 của Hiến pháp cho người ấy. Nước Mỹ đă có những điều sai lạc, nhưng lại có năng lực sửa sai.
Nhưng dân tộc Trung Quốc chúng ta lại hoàn toàn không có năng lực này. T́nh trạng nệ cổ lâu dài, không cầu tiến, bảo thủ, đă làm cho cái năng lực này tiêu tan.
Nh́n lại lịch sử chúng ta sẽ thấy Thương Ưởng - một nhà tư tưởng đời Tần - đă dùng luật pháp biến đổi nước Tần như thế nào. Trước đó dân chúng sinh hoạt trong gia đ́nh, bố mẹ, con cái, anh chị em, lớn nhỏ đều nằm chung trên một giường gạch lớn ( cái kháng, một loại giường xây bằng gạch hoặc đất, ở dưới có bếp lửa vừa để nấu ăn vừa sưởi ấm vào mùa đông).
Thương Ưởng dạy họ cách sống văn minh bằng cách bắt bố mẹ, con cái không được ngủ chung pḥng, anh trai, em gái cũng vậy. Điều này cho thấy vào thời đó chúng ta là một quốc gia man rợ và lạc hậu đến dường nào.
Thương Ưởng chẳng phải đă phát minh ra bom nguyên tử, cũng không phải đă cải cách về mặt vật chất, nhưng đă dùng pháp chế để tạo ra một chế độ mới, một xă hội mới, giáo dục con người về mặt văn hóa. Và cải cách đó của ông cơ bản đă thành công.
Thương Ưởng là người của thế kỷ thứ IV trước Tây lịch. Hơn 2.000 năm sau đó chưa có ai đột phá thêm một lần nữa, làm được những cải cách cơ bản như vậy. Cứ mỗi lần có người muốn đột phá, cuối cùng đều thân bại danh liệt, cửa nhà tan nát, tính mạng không c̣n. Chính số phận Thương Ưởng rồi cuối cùng cũng bị ngũ mă phân thây. Nho gia học phái thường thường vẫn lấy cái kết cục bi thảm của Thương Ưởng để răn đe những kẻ muốn cải cách và uy hiếp sự tiến bộ của người Trung Quốc.
Trong lịch sử Trung Quốc c̣n có một nhà cải cách lớn nữa là Vương An Thạch, một người mà đạo đức, học lực cùng sức làm việc đều không có chỗ nào có thể chê được. Nhưng những cải cách của ông toàn gặp trắc trở lớn. Trương Cư Chính cũng vậy, ông cũng gặp một kết cục thê thảm như Thương Ưởng, lúc vừa mất th́ nhà bị niêm phong, con bị bỏ đói cho chết. Rồi đến cuộc cải cách năm Mậu Tuất (1898) của Khang Hữu Vi cũng chẳng khác ǵ, tất cả đều thất bại !
Nho gia học phái có một cách nói : " Nếu không có lợi mười phần th́ không cần cải cách ! " (Lợi bất thập, bất biến pháp). Đại ư muốn nói rằng nếu lợi ích không đạt 100 % th́ không nên cải cách. Cái quan niệm này là một nguyên nhân lớn nhất làm cho dân tộc Trung Quốc chúng ta không thể tiến bộ, không thể hùng mạnh được. V́ bất cứ một cải cách nào cũng không thể đem lại mười phần mười lợi ích cả. Chỉ cần đạt lợi ích lấy năm phần rưỡi của mười phần cũng là lớn lắm rồi.
Tối hôm qua có vài vị nói chuyện về vấn đề phiên âm tiếng Hán, có người đề cập đến khuyết điểm này, có người nói đến khuyết điểm khác, nhưng trên đời này thử hỏi có cái cải cách nào mà không có khuyết điểm ? Cái th́ có vấn đề về mặt t́nh cảm, cái th́ về mặt lư luận. Nếu anh muốn 100 % không có vấn đề th́ trên đời này làm ǵ có được cái chuyện quái dị đó.
V́ tinh thần nhà Nho vốn bảo thủ nên có lần một vị hoàng đế triều Tống hỏi Tư Mă Quang: " Có nhất định cần cải cách không? Ví như cứ giữ được luật pháp của Tiêu Hà từ triều Tây Hán mà không thay đổi ǵ có được không? " Tư Mă Quang đáp: " Đương nhiên là được, bởi v́ có quá nhiều kẻ ngông cuồng, bọn hiếu sự cứ muốn sửa đổi lăng nhăng chỉ tổ tạo dịp may cho đạo tặc hoành hành. Nếu không muốn thay đổi ǵ th́ những phong tục tốt đẹp từ thời Nghiêu Thuấn cũng có thể giữ đến ngày nay ".
Tư Mă Quang là một kiện tướng trong giới quan trường thời bấy giờ. Cái loại sâu mọt hại nước, hại dân này là một trở lực cực lớn cho sự tiến bộ của Trung Quốc.
Lúc vừa lên Tể tướng, việc đầu tiên Tư Mă Quang làm là xóa sạch toàn bộ những luật pháp mới của Vương An Thạch, gồm cả đạo luật rơ ràng mười phần hiệu quả về cách tuyển người (Mộ dịch pháp). Tô Đông Pha và con của Phạm Trọng Yêm là Phạm Thuần Nhân đều đứng ra phản đối. Tư Mă Quang liền trở mặt ngay với họ.
Điều này cho thấy ở thời đại Bạn Cước Thạch bọn quan trường chẳng kể thị phi, chẳng nghĩ đến lợi ích nhân dân, chẳng trung thành ǵ với nguyên thủ quốc gia, mà chỉ trung thành với lợi ích bản thân.
Tư Mă Quang thật ra cũng chẳng phải là một nhà chính trị ǵ cả, bất quá chỉ là một tên quan trường dơ bẩn thế thôi.
Điểm thứ năm :
Vấn đề cuối cùng tôi muốn nói là cái tác hại của nạn dân số quá đông. Cứ sau các cuộc nội chiến, thay đổi triều đại là dân số nổ bùng. Thế rồi cái ṿng luẩn quẩn bi thảm lại bắt đầu : chiến tranh, tàn sát, tử vong.
Có người bảo cái đất Mỹ sướng quá, mức sống cao thế ! Không biết các vị có chú ư một điều là dân số Mỹ chỉ có 260 triệu người. Giả sử dân số Mỹ tăng lên một tỷ người hoặc tất cả dân Trung Quốc lại dọn sang Mỹ ở th́ t́nh h́nh sẽ ra sao ?
Vấn đề dân số là một vấn đề nguy ngập. Nếu Trung Quốc muốn trở nên giàu mạnh tất phải liều mạng giảm dân số.
Có câu nói " Nhiều người th́ làm băng băng, ít người th́ ăn bánh ḿ hấp " (một loại bánh rẻ nhất). Thời xưa th́ có thể như thế thật nhưng thời nay th́ không. Người nhiều quá chỉ tổ thất nghiệp. Một trăm người làm chẳng bằng một cái điện năo (máy vi tính).
Câu " ít người th́ ăn bánh ḿ hấp " là một chân lư đă lỗi thời. Thu nhập gia đ́nh nuôi hai, ba đứa con th́ c̣n đủ để duy tŕ một mức sống tương đối khá. Nhưng nếu chẳng may không để ư mà có 200 đứa, th́ lấy ǵ mà nuôi chúng nó ? Tiền ăn, ở, tiền học, tiền quần áo,... lấy đâu ra ?
Trung Quốc người quá đông, nghèo khổ quá lớn, quan trường quá mạnh, cạnh tranh quá khắc nghiệt, những lư do này sinh ra nơi người Trung Quốc cái hiện tượng bẩn, loạn , ồn, xâu xé lẫn nhau. Người Trung Quốc có câu " Khí thế hung hăng " (lai thế hung hung) để nói việc chúng ta không biết đối xử với nhau một cách có lễ độ.
Lúc tôi ở Los Angeles (Los Angeles) có người hỏi tôi cảm tưởng về nước Mỹ. Tôi bảo nước Mỹ là một nước trọng lễ nghĩa. Lại hỏi thế Trung Quốc có phải là một nước trọng lễ nghĩa không ? Tôi cho là Trung Quốc là một nước tuyệt đối không trọng lễ nghĩa. Người Trung Quốc thật thô lỗ, hầu như lúc nào cũng chuẩn bị sẵn một đ̣n để đánh phủ đầu đối phương.
Các vị chắc chắn có thể thấy người Trung Quốc rất ít cười. Phải chăng v́ quá nhiều hoạn nạn, đau khổ, sầu năo quá lâu làm cho họ không thể cười nổi nữa ? Cho nên tôi mới thấy dân Mỹ thật là rất vui sướng, ít nhất đó là nước Mỹ mà tôi gặp, tôi tiếp xúc. Một nước rất hạnh phúc, lương thiện, hay giúp đỡ người khác. So sánh với người Mỹ th́ người Trung Quốc lúc nào cũng lo âu, ḷng đầy những ư tưởng hận thù, chỉ sợ người khác làm cho ḿnh thiệt hại. Trong cuộc sống lúc nào cũng lo ngay ngáy, đôi mắt để tự vệ lúc nào cũng sẵn sàng long lên ṣng sọc.
Có người nói ở Mỹ người ta kỳ thị chủng tộc. Dĩ nhiên là có, nhưng sự thật là không phải chỉ riêng ở Mỹ. ở nước nào mà không có kỳ thị chủng tộc ? Nhưng ít nhất nước Mỹ cũng c̣n bao dung chúng ta, không những bao dung con người mà c̣n dung túng cả những cái bất lịch sự, dơ bẩn, hỗn loạn, ồn ào và sự xâu xé lẫn nhau của chúng ta nữa.
Đấy là những điều tôi đă " khảo sát " được khi đến Mỹ. Tôi rất tâm đắc và nói ra thành thực không dấu diếm. C̣n những ưu điểm của chúng ta, không cần nhắc lại làm ǵ, v́ có nói đi nói lại nó vẫn c̣n đó, không nói nó cũng chẳng đi đâu mất. Tôi chỉ nhắc đến khuyết điểm để chúng ta có thể tự phản tỉnh. Những khuyết điểm này vô cùng nghiêm trọng. Cái hũ tương văn hóa của chúng ta chứa đựng biết bao vấn đề phức tạp. Phải làm sao bây giờ ?
Tôi xin có vài ư kiến sau đây :
Những vấn đề này - nếu là vấn đề - th́ đối với chúng ta cái phản ứng đầu tiên như một con người là phải tự ḿnh t́m ṭi, suy nghĩ. Từ mấy ngh́n năm nay, toàn những người khác - thánh nhân, các quan lớn hoặc những loại người như thế - đă thay chúng ta suy nghĩ. Tự ḿnh, chúng ta thấy không cần suy nghĩ hoặc không dám suy nghĩ xem nên làm thế nào mới đúng. Người Trung Quốc tựa hồ cứ như kẻ có nhu cầu luyện tập cho ḿnh thành người ngốc đi.
Sau khi báo chí Đài Bắc đăng tin con trai tỷ phú Rockefeller (Rốc-cơ-phê-lơ) đi thám hiểm New Guinea (Tân Ghi-ne) bị thổ dân ăn thịt, tức th́ có nhiều người bảo : " Có phúc mà không biết hưởng, ḿnh mà như nó th́ đi Ghi-nê làm khỉ ǵ ! "
Khi ở Phoenix (Phê-nic) tôi trú chân lại nhà một gia đ́nh Mỹ khoảng năm, sáu ngày. Con gái chủ nhà tên là Margaret (Ma-ga-rét), 16 tuổi đă đi Honduras (Ôn-đu-rát) để dậy cho người bản xứ hiểu được cách giữ ǵn đôi mắt. Tŕnh độ vệ sinh ở nước này c̣n tệ hơn ở Trung Quốc nữa, nghĩa là một nơi rất bẩn. Thế mà đúng lúc tôi ở đó th́ cô ta về nhà, kể chuyện cho mẹ nghe, mặt mày hớn hở bảo rằng sang năm cô sẽ lại đi nữa, v́ cô thấy cần giúp đỡ những người nghèo và lạc hậu ở nơi đó. Mẹ cô không những đồng ư mà c̣n khích lệ cô.
Người Trung Quốc chúng ta có lẽ sẽ nghĩ rằng nếu là ḿnh chắc chẳng cần đi đến cái nơi khỉ ho c̣ gáy đó làm ǵ. Nhưng người mẹ ở nước Mỹ kia lại ca ngợi con gái ḿnh, cho rằng con gái ḿnh có ư thức, có ḷng tốt, biết tỏ ra có thể xả thân v́ người khác, và v́ vậy rất lấy làm hănh diện. Thật ra đối với tôi bà ta cũng chẳng có nhu cầu khoe khoang cái ḷng tốt của cô con gái làm ǵ. Mà tôi cũng không thể cho cô ta làm quan hay tiền bạc ǵ cả. Dưới mắt của bà ta chẳng qua tôi cũng chỉ là thành viên của một dân tộc lạc hậu mà thôi. Cái động cơ trong thâm tâm người mẹ ấy chỉ là ḷng chân thành.
Trong những hoàn cảnh tương tự người Trung Quốc lúc nào cũng sẽ quá thông minh. Bởi tôi nghĩ rằng trên thế giới này không dân tộc nào, kể cả dân tộc Do Thái, có thể thông minh như kiểu người Trung Quốc được. Nếu một đối một, người Trung Quốc tất phải thắng. Nhưng nếu từ hai trở đi, người Trung Quốc không thể nào không thua, bởi tựa hồ như thiên tính của người Trung Quốc là không đoàn kết được với nhau. ư nghĩa của đoàn kết là mỗi người đều phải hy sinh một phần quyền và lợi của ḿnh. Ví dụ, có hai vật h́nh tṛn muốn dính sát lại với nhau th́ phải gọt ra thành hai h́nh vuông bé hơn một tư. Nhưng chả ai muốn ḿnh bị gọt cả, chỉ muốn người khác bị gọt thôi, kết cục làm sao đoàn kết được ?
Người Trung Quốc thông minh đến mức nào ? Đến độ khi bị đem đến ḷ sát sinh, c̣n cố c̣ kè về giá cả của ḿnh, nếu kiếm thêm được vài đồng th́ chết rất hả hê.
Cái kiểu thông minh quá cỡ này nhất định sẽ thành kiểu ích kỷ quá cỡ. ở Trung Quốc người nào mà không suy nghĩ một cách ích kỷ, cư xử một cách ích kỷ đều bị chế diễu là ngu ngốc.
Người Trung Quốc không khoan dung, hễ ai có tâm địa tốt, rộng lượng với người khác, tán dương người khác đều bị chửi là đồ ngốc. Có người tát anh mà anh lại phản kháng, có người phạm pháp mà anh lại can ngăn th́ anh đúng là ngốc. Hễ cứ làm một việc mạo hiểm để sau đó không thể làm quan, hoặc không thể phát tài, là mọi người đương nhiên cho anh là thằng ngốc.
Tôi cho rằng để cứu dân tộc ḿnh, mỗi người Trung Quốc cần có ít nhiều cái ngốc đó, nếu không rồi cũng sẽ dần ṃn suy đồi như dân da đỏ.
Tục ngữ có câu : " Người không ích kỷ th́ trời tru đất diệt " (nhân bất tự tư, thiên tru địa diệt), nghĩa là ai mà không ích kỷ th́ bị người khác xem là không có cách ǵ cứu chữa được. Chúng ta không thể nào tự ḿnh bắt đầu, không cần dựa vào chính phủ hoặc người khác mà vào chính bản thân ḿnh để làm một vài điều mà mọi người cho là ngốc nghếch chăng ?
Để kết luận, tôi cho rằng chúng ta đừng nên làm cho cái quan hệ con người trở thành phức tạp. Phải bắt đầu bằng sự rèn luyện bản thân ḿnh, con cái ḿnh. Ví dụ trẻ con ở Mỹ được mẹ chúng dạy cách thu dọn, lau chùi bàn ăn, vứt rác vào thùng sau khi ăn xong. Những thứ giáo dục đó phải bắt đầu từ bản thân, bắt đầu từ tấm bé. Sự huấn luyện này phải bắt đầu như một khởi điểm cũng như một lịch tŕnh.
Người Trung Quốc có rất nhiều đức tính, nhưng đáng tiếc chúng chỉ ở trên sách vở. Bây giờ chúng ta mong rằng chúng sẽ xuất hiện trên hành động. Hăy thử xem chúng ta có làm nổi hay không ?
Tôi xin dứt lời v́ đă lạm dụng quá nhiều th́ giờ của quư vị, xin thứ lỗi và xin chỉ giáo.
?@
Phần thảo luận
Thính giả : Ông vừa nói đến chế độ phong kiến dày xéo nhân quyền, cụ thể trong thời nhà Minh. Thực ra t́nh h́nh phương Tây th́ có khác ǵ ? Tôi nghĩ văn hóa hóa Tây phương cũng trải qua những thử thách của thời đại quân chủ chuyên chế như vậy, nhưng tại sao họ lại có thể đẻ ra được quan niệm nhân quyền và chủ nghĩa tự do mà Trung Quốc cho đến ngày nay vẫn không làm được ?
Bá Dương : Rất tiếc tôi không thể trả lời vấn đề này. Cứ cho rằng chúng ta không thể hiểu được v́ sao người phương Tây lại ăn bằng dao nĩa mà người Trung Quốc lại ăn bằng đũa. Văn hóa phát triển dần từng bước, hai nền văn hóa này từ thuở xa xưa không có ǵ dính dáng với nhau, không có khả năng ảnh hưởng lẫn nhau, mỗi cái phát triển theo mô h́nh riêng của nó. Sinh hoạt của từng cá nhân và vận mệnh của mỗi dân tộc thường bị những yếu tố rất lớn hoặc đôi khi rất nhỏ làm chuyển đổi phương hướng. Nhưng chúng ta lại không hiểu cái nhân tố lớn, nhỏ ấy là cái ǵ và ở đâu.
Thính giả : Những điều ông vừa nói làm chúng tôi cảm thấy buồn về cái thời trẻ tuổi lạc quan của chúng tôi. Tôi thuộc vào thế hệ những người lớn lên sau chiến tranh, và từ trước đến giờ tôi vẫn cho rằng thế hệ chúng tôi từ cách suy nghĩ cho đến nếp sống xă hội đều nhất nhất không giống thế hệ đàn anh.
Nói ví dụ, hiện giờ tôi không làm quan chức ǵ, nhưng biết đâu có một ngày nào đó tôi lại chẳng có một chức vị, để rồi chỉ có quan tính mà mất nhân tính. Nhưng dù có rơi vào trường hợp đó, tôi tin rằng cái quan tính của tôi so sánh với quá khứ vẫn ít hơn một tư, mà nhân tính nhiều hơn một tư. Tuy nhiên hôm nay ông nói vậy, tôi lại thấy không giống cách nghĩ của tôi.
Bá Dương : Tôi nghĩ tôi chỉ nói lên sự thực lịch sử. Nhưng v́ thời đại và hoàn cảnh vẫn đổi thay, giáo dục tiến triển, có thể ngày nay rồi sẽ không như thế nữa. Vả lại tôi tin tưởng vào sự thành tâm của anh và tin rằng anh sẽ làm được chuyện ấy.
Thính giả : Tôi vẫn thấy cách giải thích của ông khác tôi.
Bá Dương : Tôi cần nhấn mạnh thêm rằng cái chuyên chế chính trị ở Trung Quốc với cái chuyên chế chính trị của Tây phương về nồng độ và kích thước hoàn toàn không giống nhau.
Tôi học sử phương Tây không nhiều, nhưng nếu đem so sánh th́ chuyên chế Trung Quốc rất cực đoan.
ở cung đ́nh phương Tây chỉ quỳ một gối, trừ phi đối với thượng đế th́ mới quỳ hai gối. ở Trung Quốc không những phải quỳ cả hai gối mà c̣n phải khấu đầu, thậm chí đập đầu xuống đất cho kêu thành tiếng (Khải hưởng đầu).
Cuối đời nhà Thanh có câu : " Đập đầu nhiều, nói ít " (Đa khải đầu, thiểu thuyết thoại). Cái khái niệm nội tại cùng tŕnh độ của chuyên chế Trung Quốc e rằng Tây phương không thể so sánh nổi.
Tôi được thấy một bức tranh sơn dầu vẽ Louis XIV (Lu-is XIV) của Pháp. Ông này ngồi giữa, các đại thần và hoàng hậu ngồi chung quanh. Cái cảnh này không thể nào có ở Trung Quốc được, các đại thần ở Trung Quốc nhất định phải nơm nớp lo sợ, lấm la lấm lét quỳ mọp chung quanh.
Thính giả : Xin ông cho biết ư kiến về chữ giản thể (chữ Hán đơn giản hóa, dùng ở lục địa, so với chữ cũ nhiều nét vẫn dùng ở Đài Loan).
Bá Dương : Tôi tán thành chữ giản thể, lại càng tán thành việc phải phiên âm tiếng Trung Quốc. Tối hôm qua nhiều bạn tụ tập nói chuyện về vấn đề này, đại khái không ai nhất trí. Cái tâm lư bị bế tắc của những người phản đối chữ phiên âm cần phải được giải tỏa.
Lấy ví dụ, lúc gọi điện tôi hỏi anh họ ǵ? - Tôi họ Lưu! Chữ Lưu này viết thế nào có lẽ trên điện thoại khó mà giải thích cho rơ ràng được. Nếu tôi bảo anh đi tra từ điển, dĩ nhiên không phải tra được ngay, tra đến lần thứ hai, thứ ba vẫn không thấy chắc phải nổi điên lên.
Ngày xưa chúng ta trách cứ cổ văn không có dấu chấm câu, không biết ngắt câu thế nào và hiểu làm sao. Có ai đọc qua " Sử đời Nguyên " chưa ? Tên Mông Cổ như mớ ḅng bong, dài ḷng tḥng không biết là mấy người. Ngày nay tuy đă có dấu chấm câu, nhưng những khuyết điểm lớn của cái loại chữ vuông này lại càng lộ rơ.
Vấn đề đầu tiên là tách chữ. V́ tiếng Trung Quốc có nhiều từ ghép, dù biết hết các chữ đơn ở trong câu cũng chưa chắc đă hiểu.
Sau đó là không thể phiên âm. Loại chữ vuông này thông thường chữ nào đọc riêng chữ đó, không thể dính liền âm tiết lại với nhau, nên phải phí rất nhiều sức lực để tập trung mới hiểu được ư từ những âm tiết rời rạc đó. Ví dụ tôi nói " Tôi từ Mă-lai-xi-a đến " (Ngă ṭng mă lai tây á lai), ở đây chữ Malaisia phải liên âm và cách âm với chữ lai sau đó. Nếu không " Mă lai " (ngựa đến), " Tây á lai " (Tây á đến), và nếu có em bé nào lại lấy tên là Tây á th́ câu nói này lại thành vấn đề lớn.
Ngày nay máy chữ, điện năo (máy tính điện tử) đánh nhanh biết bao, tôi chỉ sợ rằng cái thứ chữ vuông này không thể nào bắt kịp bước tiến. Tôi chỉ mơ ước có được một cái máy đánh chữ tiếng Trung Quốc để khỏi phải ngày ngày làm cái loại động vật ḅ lên trang giấy.
Nhưng phiên âm tiếng Trung Quốc không phải dễ, chủ yếu v́ cái trở ngại tâm lư nơi chúng ta, v́ chúng ta cho rằng dùng ABCD là dùng mẫu tự tiếng Anh, chữ phiên ra là tiếng Anh. Kỳ thực không phải như vậy. Chúng ta phải hiểu là chữ ABCD này là mẫu tự Trung văn. Chữ phiên ra là chữ Hoa, không đến nỗi có cảm giác nhục nhă v́ bị đồng hóa. Đúng vậy, nó là tiếng Trung Quốc, tiếng Hoa chứ không phải tiếng Anh, tiếng Đức. Nếu dùng ABCD mà lại thành tiếng Anh th́ người Đức, người Pháp có thể tức chết được.
Văn tự hoàn toàn là công cụ, giống như cái xe, anh mua nó th́ nó là của anh, ai mua nó th́ nó là của người đó. Kỳ thực nếu chúng ta dùng văn tự phiên âm ngay hôm nay, người chết đói đầu tiên sẽ là tôi v́ tôi đang dùng cái loại chữ vuông này để kiếm cơm. Nhưng tôi cảm thấy sinh mệnh của riêng ḿnh rất ngắn ngủi, những lư do chính trị cũng rất ngắn ngủi, chỉ có văn hóa dân tộc là quan trọng, rất quan trọng. Nhất là các vị tại Mỹ, các vị có thể thấy con cháu đời thứ hai nói được tiếng Trung Quốc mà không viết được. Khó như thế th́ làm sao mà dậy chúng ?
Cứ như chữ Quốc ( ) [ nước ] viết thế nào ? Muốn biết nó chỉ có cách học thuộc ḷng, không có phương pháp nào khác. Ngay cả lúc trẻ con gào lên : " Tôi ghét tiếng Trung Quốc! " mà chúng ta vẫn c̣n chưa thức tỉnh sao? Chúng ta không thể làm cho những khó khăn trên đường tiến bước của Trung Quốc tăng thêm, không thể tự xích tay, cùm chân được.
Tại sao lại phải sống cho quá khứ, cho tổ tiên thay v́ sống cho con cháu ḿnh? Nếu chỉ v́ phiên âm mà rồi không đọc được sách cổ nữa th́ cũng chả sao. Hiện giờ chưa phiên âm mà anh đọc cũng đă chẳng hiểu rồi c̣n ǵ !
Việc quá khứ, việc tổ tiên, chúng ta có thể nhờ một số người để chuyên đi quét dọn miếu đường. Chúng ta phải v́ con cháu, v́ thế hệ sau này, v́ tương lai của nước nhà và dân tộc. Một ngày nào đó, nếu tiếng Trung Quốc bỗng nhiên trở thành tiếng quốc tế, chắc chắn nó không thể phổ cập được trừ phi dùng phiên âm.
Hôm nay tôi nhai đi nhai lại những khuyết điểm của Trung Quốc chắc có người nghe bị mất tinh thần. Nhưng tôi thấy rằng cần như vậy, v́ nếu cứ lải nhải khoe khoang những ưu điểm, đức hạnh, sự thông minh của ḿnh, rồi sẽ chẳng c̣n ai tôn trọng ḿnh nữa, v́ chính ḿnh đă không tôn trọng ḿnh ǵ cả.
Các bạn nên biết, những hoạn nạn của người Trung Quốc, không phải là chỉ của riêng người Trung Quốc mà c̣n là của cả thế giới. Một chiếc thuyền nhỏ ch́m th́ không sao, một chiếc tầu lớn bị ch́m có thể cuốn theo vào ṿng xoáy nước của nó những chiếc thuyền nhỏ xung quanh.
Tại sao Nhật Bản lại đến xâm lược chúng ta ?
Chính v́ sự yếu đuối của chúng ta đă dụ dỗ họ ra tay. Chúng ta phải tự cứu lấy ḿnh. Điều đầu tiên để tự cứu là phải biết được những khuyết điểm của ḿnh. Nếu không tự biết những khuyết điểm của ḿnh th́ chẳng khác ǵ suốt ngày chỉ nghĩ đến những chuyện đắc ư, chỉ sợ rồi cũng như Giả Bảo Ngọc (một nhân vật trong Hồng Lâu Mộng) suốt ngày luẩn quẩn với những ư tưởng dâm dật.
Thính giả : Tôi thường nghe được hai câu này - " Dĩ bất biến ứng vạn biến " (Lấy sự không thay đổi để ứng phó với mọi thay đổi), và câu " Báo thiện bất báo ưu " (Đáp lại bằng điều thiện, không đáp lại bằng sự lo buồn).
Bá Dương : Đối với câu " Dĩ bất biến ứng vạn biến " th́ tôi không dám có ư kiến ǵ, c̣n câu " Báo thiện bất báo ưu " tôi cho rằng đấy chỉ là một đặc trưng của giới quan trường.
Thính giả (người Mỹ) : Hôm nay h́nh như ông chỉ nói về khuyết điểm của người Trung Quốc, tôi muốn xin ông cũng nói về những cái xấu của người Mỹ. Qua những sách ông đọc, những việc ông nh́n, ông thấy được những điều ǵ nước Mỹ cần phải học hỏi ở năm ngh́n năm lịch sử Trung Quốc ?
Bá Dương : Về những điều xấu của nước Mỹ, chính người Mỹ đă nói lên nhiều rồi, đó là chỗ tôi rất khâm phục. V́ nước Mỹ có cái khả năng tự cân đối, tự phản tỉnh và tự điều chỉnh. Tự ḿnh có chỗ sai trái đều dám tự nói ra, tự ḿnh có thể tiếp thu, đánh giá. Đấy là những điểm mà người Trung Quốc chúng tôi không có được. Dĩ nhiên nước Mỹ không phải mười phần toàn mỹ, v́ trên thế giới này chưa có ǵ như vậy, mà nước Mỹ nếu như vậy chỉ sợ rồi nó sẽ xơ cứng mất.
Thính giả : Lúc ở đại học tôi có đọc qua vài tác phẩm của ông, tôi rất thích cái ng̣i bút châm chọc, cay chua, mỉa mai những điều không hợp lư trong xă hội. Hôm nay, được nghe ông nói về những khuyết điểm của người Trung Quốc, tôi rất cảm động mà cũng rất khổ tâm, chán nản, buồn rầu. Nhưng tôi cho rằng cũng giống như một con bệnh, nếu đă biết ḿnh bị bệnh tất phải t́m cách cứu chữa, thuốc thang. Tôi không biết trong các tác phẩm của ông có những ǵ mách bảo chúng tôi làm chuyện đó ? Ngoài ra tôi muốn ông nói một tư về t́nh h́nh trên văn đàn Đài Loan, giới thiệu cho chúng tôi những tác giả và những tác phẩm hay.
Bá Dương : Tôi xin nói về vấn đề thứ hai trước. Trần ánh Chân, Vương Tháp, Tam Mao, Ai Quỳnh Quỳnh, Trần Minh Bàn, Dương Thanh toàn là những nhà văn hạng nhất. Tôi không đọc được nhiều v́ ngồi tù mắt bị yếu đi, đọc chữ bé quá không được, mà sách báo Đài Loan chữ quá bé. Vấn đề này có lẽ phải xin nhà tôi đáp hộ.
Nói đến khuyết điểm, đến bệnh t́nh của người Trung Quốc, tôi biết các bạn rất buồn và tôi cũng rất buồn. Bởi v́ trước kia tôi toàn nghe nói đến những vinh quang của Trung Quốc, như kiểu Chu Nguyên Chương là một vị anh hùng dân tộc. Sau này tôi mới khám phá ra rằng không phải vậy. Trong lúc những người khác chiến đấu với quân Mông Cổ, th́ y ở tại hậu phương mở rộng địa bàn của ḿnh, đánh triệt hậu những người khác để chiếm đất, cuối cùng cướp chính quyền, hoàn toàn tính toán cho ư đồ riêng tư, chờ cho mọi người khác đánh xong quân Mông Cổ rồi y tọa hưởng kỳ thành.
Phát hiện được chuyện này tôi rất lấy làm chán nản. Tôi nghĩ nếu muốn phục hưng dân tộc phải bắt đầu bằng việc thừa nhận các khuyết điểm, những sai trái của ḿnh. Nếu không thừa nhận th́ làm sao cải cách được ? Không cải cách th́ làm sao tiến được ? Thời trước ḿnh đă không thừa nhận v́ không biết phân biệt phải trái, dù có thấy khuyết điểm cũng không dám nói. Nếu có kiểm thảo th́ chỉ toàn thấy những điều hay. Cho nên chúng ta toàn bị người ta bắt nạt, lúc th́ người này, lúc người nọ.
Mỗi người Trung Quốc phải tự xét ḿnh trước khi oán thán, kêu ca, trách cứ người khác. Tại Đài Bắc có cặp vợ chồng căi nhau t́m tôi phân bua. Người chồng hùng hổ bảo : - " Vợ tôi không yêu tôi ". Tôi nói rằng nếu muốn người khác yêu anh, điều kiện đầu tiên là tự anh phải là người khả ái. Nếu tự ḿnh không khả ái làm sao người khác có thể yêu ḿnh. Nếu ḿnh muốn người khác tôn trọng, th́ trước hết phải có cái điều kiện để được tôn trọng. Cái điều kiện này không thể cứ chửi bới hoặc hô khẩu hiệu là có được. Ví thử nơi này là nơi không thể tùy tiện khạc nhổ mà anh cứ khạc nhổ ; tiểu tiện phải vào nhà xí, anh lại cứ ở trên đại lộ mà làm, th́ hỏi rằng làm sao người ta tôn trọng anh được ? V́ vậy, để được tôn trọng chúng ta phải có những điều kiện tiên quyết, phải biết chúng ta khác người ở điểm nào, phải biết cái dở của ta, cái hay của người.
Nếu anh bảo người Mỹ tốt, người ta sẽ bảo anh là sùng bái Tây phương. Sùng bái th́ đă sao ? Hệ tư tưởng của chúng ta ngày nay, về kinh tế, học thuật, dân chủ, chính trị, nhân quyền có cái nào là do cha ông chúng ta tryền lại không ? Chế độ xă hội, h́nh thái ư thức, phương thức sinh hoạt đều do từ nước ngoài đến, có cái nào là truyền thống không ? Những sinh hoạt vật chất của chúng ta như xe ô-tô, máy bay, kính mắt, cách cắt tóc, cạo râu, nhà ở,v.v... đều chẳng phải do người Trung Quốc phát minh ra. Cho nên tôi thấy không phải là vấn đề sùng bái mà là vấn đề học tập. Hiện nay ở Đài Bắc người ta thích ăn gà ta, mà tôi cũng rất thích, không ai thích ăn gà tây, không ngon thành ra không ai ăn cả. Tóm lại cái ǵ hay th́ người ta thích.
Cái tinh thần người Trung Quốc không hiểu thế nào mà hễ cứ tôn sùng Tây phương là họ nghĩ tất yếu phải nịnh bợ nước ngoài. Không hiểu v́ sao lại đưa đến cái kết luận đó ? Sùng bái ở đây chẳng qua là học những ưu điểm của họ. Ví dụ có một ngày nào đó người Mỹ đều hút thuốc phiện tự sát, chẳng nhẽ chúng ta cũng lại bắt chước họ sao ? Chúng ta phải có cái tiền đề là làm sao cho người ta tôn trọng ḿnh, phải có khả năng tự t́m hiểu ḿnh. Đó là điều kiện tối cần để dân tộc ḿnh có thể tồn tại và phát triển.
Trách tới trách lui rồi chung quy cũng chỉ đi trách người khác th́ không thể nào cứu được dân tộc. Dân da đỏ nói măi là người da trắng giết hại họ, họ thù hận đến xương tủy, nhưng thù họ th́ làm được ǵ ? Phải tự ḿnh mạnh lên mới được. Không tự ngoi lên được, trong tương lai có thể c̣n bị giết nhiều hơn nữa. Không nên trách cứ oán thán ai cả, mà phải thấy được cái sai, khuyết điểm của ḿnh th́ mới có khả năng khá lên được.
Thính giả : Trong quyển " Những con trùng dậy sớm " ông lên án những tiểu thuyết huyền ảo, khuyên mọi người không nên xem tiểu thuyết kiếm hiệp. Trên nguyên tắc tôi hoàn toàn đồng ư với ông. Nhưng Nghê-Khuông lại bảo : " ở trên đời nếu không đọc tạp văn của Bá Dương đă là một sự mất mát lớn, nếu không xem được chuyện kiếm hiệp của Kim Dung lại là một sự mất mát lớn khác nữa ". Không hiểu ông nghĩ ǵ về câu nói này ? Vấn đề thứ hai là nghe nói lúc ở Lục Đảo ông đọc rất nhiều sách về tướng số. Tôi cho rằng môn tướng số là một bộ phận của văn hóa Trung Quốc rất thần bí, ông nghĩ sao ?
Bá Dương : Khi tôi viết quyển sách đó tôi chưa đọc tác phẩm của Kim Dung, bởi v́ thời đó tiểu thuyết của Kim Dung chưa xâm nhập vào Đài Loan (từ Hồng Kông). Sau khi đọc Kim Dung rồi th́ không thể đọc các loại truyện kiếm hiệp khác. Tôi đọc qua Vương Độ Lư, Bất Tiêu Sinh và rất nhiều kiếm hiệp khác. Nhưng sau khi đọc Kim Dung rồi, thấy chẳng ai sánh kịp. Cái tŕnh độ văn tự, cảnh ư của Kim Dung đều cực giỏi, thêm nữa tiểu thuyết kiếm hiệp của ông ta lưu hành ở nước ngoài nên ư nghĩa lại càng lớn. Nó làm mọi người say mê, giúp phổ cập hóa tiếng Trung Quốc. Ông ta viết quả là hay, bút pháp thật tài t́nh, đúng là không tiền khoáng hậu, tôi rất khâm phục.
Lúc ngồi tù tôi cũng đă đọc nhiều sách tướng số. V́ 12 năm vừa qua, thời cuộc đổi thay, có khả năng tôi không kiếm được cách sinh nhai, định ra ngồi lề đường bốc quẻ. Tôi đọc được hơn một năm. Sau đó có người bảo tôi là một chính trị phạm không được phép làm thầy bói, cho nên tôi cũng bỏ luôn. Nói đến vận mệnh th́ tôi tin là có. Các bạn trẻ thường không tin số mệnh, tôi thời trẻ cũng thế. Tăng Quốc Phiên có một lần nói với Lưu Thứ Thanh rằng : " Đừng tin sách, tin số mệnh ". Lưu Thứ Thanh bảo : " Lời nói đúng, truyền vạn thế ". Đời người có những thứ ḿnh không thể khống chế, nếu không dùng số mệnh để giải thích th́ dùng cái ǵ để giải thích được ? Những hiện tượng không thể điều khiển được, chúng ta gọi là vận mệnh, anh gọi là " bất vận mệnh " cũng được, miễn là đặt cho nó một cái tên. Tối hôm qua, phi cơ của Đài Bắc Viễn Đông Hàng Không bị nổ. Trước đó tôi có hay dùng phi cơ từ Đài Bắc đi Cao Hùng để khám mắt, nhưng b́nh thường vẫn chỉ ngồi viết bài tại ṭa soạn " Đài Loan thời báo ", c̣n chủ báo là Ngô Cơ Phúc và Tổng biên tập Tô Đăng Cơ rất hay đi đi về về giữa Cao Hùng và Đài Bắc bằng phi cơ, nên hiện nay tôi rất lo cho họ. Đấy chỉ là một dẫn chứng. Anh có thể cho phi cơ bay được, nhưng không thể làm cho phi cơ tránh được những chuyện xảy ra ngoài ư muốn.
Thính giả : Hôm nay là lần đầu tôi được gặp ông tại nước ngoài sau những năm ông bị tù đày. Tôi có một chuyện nhỏ muốn hỏi là sau bao năm khổ ải ấy bây giờ đứng trước mọi người đây, cái tâm t́nh của ông như thế nào, ông có ǵ để nói về những gian truân ấy ?
Bá Dương : Tôi cho rằng riêng tôi chẳng có ǵ thay đổi cả. Trong nhà lao cái ǵ phải khóc th́ tôi đă khóc, lúc phải cười th́ tôi cũng đă cười. Có người bảo ở trong tù th́ mặt ủ mày ê, đó là chưa thật ở tù. Nếu 10 năm mà lúc nào cũng sầu năo th́ sống thế nào được ? Lúc được vui th́ cứ vui, đó là cách nh́n của tôi. Nhất là đời người mà gặp hoạn nạn như tôi, thậm chí nghiêm trọng tưởng có thể bị tử h́nh, sau bị xử 12 năm tù.
Mười hai năm là một khoảng thời gian rất dài chả lúc nào thích ứng được. Gia đ́nh lại xảy ra biến cố, nào vợ xa chồng, chồng xa vợ, dù hẹn biển thề non lúc này đều hoàn toàn thay đổi.
Ngoài ra lại c̣n tác động đến t́nh bè bạn, đột nhiên rất nhiều bạn đâm ra sợ tôi. Có những bạn, b́nh thường có thể phó thác tài sản tính mạng được, bây giờ bỗng dưng thay đổi hẳn. Có những người chẳng thân thiết ǵ lại nhờ vả được. Cho nên tôi quan niệm rằng không thể khái quát hóa vấn đề này được, nó tùy theo mỗi trường hợp riêng.
Tôi ngồi tù được hai tháng th́ vợ tôi bỏ tôi, chưa được hai năm sau th́ chính thức ly hôn. Tôi kư giấy ly hôn gửi cho vợ tôi, cô ta hỏi c̣n đồ đạc của anh th́ sao ? Tôi hỏi đồ đạc nào? Đồ đạc trong nhà vốn tất cả là của tôi. Tôi bảo cho cô ấy toàn quyền định đoạt, những cái ǵ thuộc về tôi th́ cứ vứt hết ra đường, v́ ở Đài Loan tôi không có người thân, chẳng có chỗ nào để cất giữ.
Tôi nghĩ đấy là một trường hợp cá biệt, chẳng phải người đàn bà nào cũng như vậy. Đàn ông cũng thế, cũng có người thay ḷng đổi dạ, nhưng không phải tất cả đàn ông trong thiên hạ này đều như vậy.
Bạn bè th́ cũng chẳng khác mấy, có bạn lại sợ tôi mượn tiền, có người th́ dậu đổ b́m leo, chờ người ngă xuống giếng để ném đá theo, có người chẳng đoái hoài đến ḿnh nữa, có người lại lên án kịch liệt, chỉ muốn tôi bị xử bắn đi cho rồi.
Cái này cũng chỉ là vài trường hợp cá biệt và cũng chỉ có dăm ba người nào đó như vậy thôi. Vẫn c̣n những người khác sẵn sàng giúp đỡ ḿnh. Sự thật là như vậy.
Tôi hoàn toàn không cảm thấy bị mất mát, có mất chăng, đó là những kẻ không phải là bè bạn.
Phần Ii - Các Bài Viết
Phô bầy bệnh già nua, lẩm cẩm . Cái Triết học bắt đầu bằng kính và sợ. Chỉ trừ tôi ra. Tại sao không có thể mưu lợi được?. Giữ ḿnh là thượng sách. Loài động vật không biết cười. Nước có lễ nghĩa. Ba câu nói. Cả nước xếp hàng. Rút cuộc là cái nước ǵ ? (Đám cưới, đám ma, quán ăn). Chẳng kể thị phi, chỉ nói đến chính đạo. Phố Tầu, một động quỷ nuốt tươi người Trung Quốc . Nói chuyện về người Trung Quốc xấu xí . Kiêu ngạo hăo . Noi gương Tây phương nhưng không làm nô lệ . Kỳ thị chủng tộc . Lấy hổ thẹn làm vinh dự .


( Sưu Tầm )
_BatHua_



Alert webmaster - Báo webmaster bài viết vi phạm nội quy
 

  góp ư kiến

 
   

  Kí hiệu: : trang cá nhân :chủ để đă đăng  : gởi thư  : thay đổi bài  :ư kiến

 
 

 


Nhà | Ghi danh Thành Viên | Thơ | H́nh ảnh | Danh Sách | T́m | Diễn đàn | Liên lạc | Điều lệ | Music | Link | Advertise

Copyright © 2024 Vietnam Single & Tim ban bon phuong All rights reserved.
Hoc Tieng Anh - Submit Website Today - Ecard Thiep - Hot Deal Network