ngochoang2009
member
ID 49806
02/25/2009
|
T́n hiểu về thơ nói : LỤC SÚC TRANH CÔNG"
Lục súc tranh công
» Hiện giới thiệu
Hiệu đính các truyện cổ
Các truyện nôm của ta kể ra cũng khá nhiều, nhưng nhiều chuyện nhất là những chuyện cũ, cũng có người không biết, không để ư đến, cũng có người xem Truyện Kiều rồi cho hết thảy các truyện cũ là quê mùa, không đáng xem, coi thường không buồn đọc nữa, bởi vậy những truyện ấy hầu như là bỏ rơi vậy.
Chúng tôi xem ra có nhiều truyện cổ, không phải là không có giá trị, văn không phải toàn một vẻ chất phác như người ta tưởng lầm; nhiều câu nhiều đoạn văn rất hay, ư sâu xa, nếu bỏ mất đi, th́ bao nhiêu những áng văn chương cổ một ngày một tiêu diệt mất, th́ thật đáng tiếc.
Bởi vậy chúng tôi muốn bảo tồn lấy những di sản quí hoá của tổ tiên để lại, và sưu tầm những bản truyện hoặc in, họăc chép bằng chữ nôm, lấy bản cũ nhất làm chuẩn đích, đem đối chiếu với các bản khác, so sánh từng chữ từng câu, đính chính lại rồi chú thích rành mạch, để khỏi sai lầm. Khi đă hiệu đính, chú thích xong, đem ra cùng nhau thảo luận đính chính rồi mới ấn định xuất bản. Hiện thời chúng tôi đă đính chính xong bốn truyện ngụ ngôn là:
- Truyện trê cóc,
- Truyện trinh thử,
- Lục súc tranh công, và
- Hoa điểu tranh năng.
Những truyện này do ông Phó bảng Bùi Kỷ hiệu đính và chú giải, và đem in thành từng tập riêng; như thế các nhà học quốc văn sau này sẽ có đủ tài liệu để tra khảo.
Lệ thần Trần Trọng Kim
Tiểu dẫn
Lục súc là sáu giống gia súc: trâu, chó, ngựa dê, gà, lợn. Sáu con tranh nhau kể công, cho nên gọi là tranh công. Đầu tiên, trâu tị với chó, chó căi lại, đến lượt chó tị với ngựa, rồi ngựa với dê, dê với gà, gà với lợn; không con nào chịu con nào. Nhờ có lời giảng giải của chủ nhà, sáu con lại hiểu nhau và con nào cứ yên phận làm tṛn công việc con ấy.
Cuốn văn này đặt thành lối tuồng, là biến thể của lối song thất, cộng được 570 câu, đoạn đầu 12 câu là đoạn lung, đoạn thứ nh́ đến đoạn 11, là những lời tranh luận của lục súc, đoạn cuối có bốn câu là lời tổng kết.
Tác giả chưa rơ là ai, nhưng xét những tiếng dùng trong cuốn văn: ghe (nhiều), lóng (nghe), ben (b́, ví), mè (vừng), bươi (bới) v.v... phần nhiều là tiếng miền trong, th́ tác giả có lẽ là một nhân vật trong phái cựu học ở vùng Nghệ Tĩnh trở vào. C̣n về giọng và lối văn, th́ thuộc về Lê mạt, Nguyễn sơ chi đó, v́ từ lư chải chuốt, âm vận du dương, khác với những thể văn chất phác ở thời cổ nhiều.
Tác giả là một nhà học vấn uyên bác, dùng nhiều điển cổ để tả rơ cái t́nh trạng, cảnh huống của loài gia súc, mỗi một con có một khẩu khí, một địa vị, thỉnh thoảng lại thêm vài câu trào phúng, rất tao nhă và có nhiều ư vị.
Nay thử trích ra trong mỗi đoạn mấy câu như sau này:
Trâu kể công:
Không nhớ thủa bôi chuông đường hạ.
Ơn Tề vương vô tội bảo tha,
Tưởng chừng khi sức mỏi tuổi già,
Cám Điền tử dạy con chớ bán.
Lời cổ nhân c̣n dặn,
Sao ông chủ vội quên
Chẳng nhớ câu: "Dĩ đức hành nhân".
Lại lấy chữ: "Báo ân dĩ oán"
Trâu chê chó:
Chưa rét đă phô rằng rét,
Xo ro đuôi quít vào trôn,
Vấy bếp người, tro trấu chẳng c̣n,
Ba ông táo lộn đầu, lộn óc.
Chó kể công:
Đêm năm canh, con mắt như chong,
Đứa đạo tặc nép oai khủng động.
Ngày sáu khắc, lỗ tai bằng trống,
Đứa gian tham thấy bóng cũng kinh.
Chó chê ngựa:
Dại không ra dại
Khôn chẳng ra khôn
Ngất ngơ như ốc mượn hồn,
Nuôi giống ấy làm chi cho rối.
Ngựa kể công:
Mỏi gối nưng pḥ xă tắc,
Ṃn lưng cúi đội quân vương.
Ngày ngày chầu chực sân rồng
Bữa bữa dựa kề long giá.
Ngựa chê dê:
Gẫm giống chi hữu đầu vô vĩ,
H́nh con con, bụng lớn chang bang.
Cáng náng như đứa có hạ nang,
Sớn sác tựa con chàng kẻ cướp.
Dê kể công:
Dê vốn thật thuộc về vật lễ,
Để ḥng khi về hạng tư văn,
Để dành khi tế thánh, tế thần,
Lại có thủa kỳ an, kỳ phước,
Hễ có việc lấy dê làm trước,
Dê dâng vào, người mới lạy sau.
Dê chê gà:
Ba cái rác nằm không yên chỗ,
Mấy bụi rau nào đă bén dây
Cả ngày thôi những khuấy cùng rầy,
Nuôi giống ấy làm chi vô lối.
Gà kể công:
Đă cứu nạn Mạnh thường đặng thoát,
Lại khuyên người Tống sĩ năm canh,
Hễ ai toan căi dữ, làm lành,
Gà cũng biết tỉnh mê giấc điệp.
Nhân đến chuyện Chu gia bá nghiệp,
Coi gị gà xét biết thịnh suy.
Dóng canh khuya vui dạ kẻ tiêu y,
Cất tiếng gáy toại ḷng người đăi đán.
Gà chê lợn:
Heo ăn rồi ngủ ngáy ś ś,
Giả ngây dại biết ǵ việc chủ,
Ngắm diện mạo dị h́nh, dị thú,
Xem dung nhan khác thế lạ đời.
Như nuôi chơi chẳng phải giống chơi.
Chạy rau cám như tiền nội án.
Lợn kể công:
Ḱa những việc hôn nhân giá thú,
Không heo ra tính đặng việc chi ?
Dầu cho mời năm bảy chuyến đi,
Cũng không thấy một người thấp thoáng,
Việc hoà giải heo đầu công trạng,
Thấy mặt heo nguôi dạ oán thù.
Xem đại khái như mấy câu trích ra trên đây, lời lẽ rất đúng, giọng hài hước cực hay, th́ nội dung cuốn văn có giá trị là chừng nào. Tác giả có ư nói về việc đời, bất cứ lớn hay nhỏ, mỗi người có một chức vụ, làm trọn được, tức là giúp cho đời, và không nên ganh tị lẫn nhau. Tuy đó là lư tự nhiên ai ai cũng hiểu, song sự xao nhăng chức vụ của ḿnh lại thường là cái thông bệnh của loài người, tác giả muốn lấy cuốn văn này làm một bài châm biếm thiết thực và đích đáng, thật là một văn gia rất quan tâm đến thế đạo nhân t́nh vậy.
Bùi Ưu Thiên
Alert webmaster - Báo webmaster bài viết vi phạm nội quy
|
|
ngochoang2009
member
REF: 427160
02/25/2009
|
Lục súc tranh công
» Hiện giới thiệu
Hiệu đính các truyện cổ
Các truyện nôm của ta kể ra cũng khá nhiều, nhưng nhiều chuyện nhất là những chuyện cũ, cũng có người không biết, không để ư đến, cũng có người xem Truyện Kiều rồi cho hết thảy các truyện cũ là quê mùa, không đáng xem, coi thường không buồn đọc nữa, bởi vậy những truyện ấy hầu như là bỏ rơi vậy.
Chúng tôi xem ra có nhiều truyện cổ, không phải là không có giá trị, văn không phải toàn một vẻ chất phác như người ta tưởng lầm; nhiều câu nhiều đoạn văn rất hay, ư sâu xa, nếu bỏ mất đi, th́ bao nhiêu những áng văn chương cổ một ngày một tiêu diệt mất, th́ thật đáng tiếc.
Bởi vậy chúng tôi muốn bảo tồn lấy những di sản quí hoá của tổ tiên để lại, và sưu tầm những bản truyện hoặc in, họăc chép bằng chữ nôm, lấy bản cũ nhất làm chuẩn đích, đem đối chiếu với các bản khác, so sánh từng chữ từng câu, đính chính lại rồi chú thích rành mạch, để khỏi sai lầm. Khi đă hiệu đính, chú thích xong, đem ra cùng nhau thảo luận đính chính rồi mới ấn định xuất bản. Hiện thời chúng tôi đă đính chính xong bốn truyện ngụ ngôn là:
- Truyện trê cóc,
- Truyện trinh thử,
- Lục súc tranh công, và
- Hoa điểu tranh năng.
Những truyện này do ông Phó bảng Bùi Kỷ hiệu đính và chú giải, và đem in thành từng tập riêng; như thế các nhà học quốc văn sau này sẽ có đủ tài liệu để tra khảo.
Lệ thần Trần Trọng Kim
Tiểu dẫn
Lục súc là sáu giống gia súc: trâu, chó, ngựa dê, gà, lợn. Sáu con tranh nhau kể công, cho nên gọi là tranh công. Đầu tiên, trâu tị với chó, chó căi lại, đến lượt chó tị với ngựa, rồi ngựa với dê, dê với gà, gà với lợn; không con nào chịu con nào. Nhờ có lời giảng giải của chủ nhà, sáu con lại hiểu nhau và con nào cứ yên phận làm tṛn công việc con ấy.
Cuốn văn này đặt thành lối tuồng, là biến thể của lối song thất, cộng được 570 câu, đoạn đầu 12 câu là đoạn lung, đoạn thứ nh́ đến đoạn 11, là những lời tranh luận của lục súc, đoạn cuối có bốn câu là lời tổng kết.
Tác giả chưa rơ là ai, nhưng xét những tiếng dùng trong cuốn văn: ghe (nhiều), lóng (nghe), ben (b́, ví), mè (vừng), bươi (bới) v.v... phần nhiều là tiếng miền trong, th́ tác giả có lẽ là một nhân vật trong phái cựu học ở vùng Nghệ Tĩnh trở vào. C̣n về giọng và lối văn, th́ thuộc về Lê mạt, Nguyễn sơ chi đó, v́ từ lư chải chuốt, âm vận du dương, khác với những thể văn chất phác ở thời cổ nhiều.
Tác giả là một nhà học vấn uyên bác, dùng nhiều điển cổ để tả rơ cái t́nh trạng, cảnh huống của loài gia súc, mỗi một con có một khẩu khí, một địa vị, thỉnh thoảng lại thêm vài câu trào phúng, rất tao nhă và có nhiều ư vị.
Nay thử trích ra trong mỗi đoạn mấy câu như sau này:
Trâu kể công:
Không nhớ thủa bôi chuông đường hạ.
Ơn Tề vương vô tội bảo tha,
Tưởng chừng khi sức mỏi tuổi già,
Cám Điền tử dạy con chớ bán.
Lời cổ nhân c̣n dặn,
Sao ông chủ vội quên
Chẳng nhớ câu: "Dĩ đức hành nhân".
Lại lấy chữ: "Báo ân dĩ oán"
Trâu chê chó:
Chưa rét đă phô rằng rét,
Xo ro đuôi quít vào trôn,
Vấy bếp người, tro trấu chẳng c̣n,
Ba ông táo lộn đầu, lộn óc.
Chó kể công:
Đêm năm canh, con mắt như chong,
Đứa đạo tặc nép oai khủng động.
Ngày sáu khắc, lỗ tai bằng trống,
Đứa gian tham thấy bóng cũng kinh.
Chó chê ngựa:
Dại không ra dại
Khôn chẳng ra khôn
Ngất ngơ như ốc mượn hồn,
Nuôi giống ấy làm chi cho rối.
Ngựa kể công:
Mỏi gối nưng pḥ xă tắc,
Ṃn lưng cúi đội quân vương.
Ngày ngày chầu chực sân rồng
Bữa bữa dựa kề long giá.
Ngựa chê dê:
Gẫm giống chi hữu đầu vô vĩ,
H́nh con con, bụng lớn chang bang.
Cáng náng như đứa có hạ nang,
Sớn sác tựa con chàng kẻ cướp.
Dê kể công:
Dê vốn thật thuộc về vật lễ,
Để ḥng khi về hạng tư văn,
Để dành khi tế thánh, tế thần,
Lại có thủa kỳ an, kỳ phước,
Hễ có việc lấy dê làm trước,
Dê dâng vào, người mới lạy sau.
Dê chê gà:
Ba cái rác nằm không yên chỗ,
Mấy bụi rau nào đă bén dây
Cả ngày thôi những khuấy cùng rầy,
Nuôi giống ấy làm chi vô lối.
Gà kể công:
Đă cứu nạn Mạnh thường đặng thoát,
Lại khuyên người Tống sĩ năm canh,
Hễ ai toan căi dữ, làm lành,
Gà cũng biết tỉnh mê giấc điệp.
Nhân đến chuyện Chu gia bá nghiệp,
Coi gị gà xét biết thịnh suy.
Dóng canh khuya vui dạ kẻ tiêu y,
Cất tiếng gáy toại ḷng người đăi đán.
Gà chê lợn:
Heo ăn rồi ngủ ngáy ś ś,
Giả ngây dại biết ǵ việc chủ,
Ngắm diện mạo dị h́nh, dị thú,
Xem dung nhan khác thế lạ đời.
Như nuôi chơi chẳng phải giống chơi.
Chạy rau cám như tiền nội án.
Lợn kể công:
Ḱa những việc hôn nhân giá thú,
Không heo ra tính đặng việc chi ?
Dầu cho mời năm bảy chuyến đi,
Cũng không thấy một người thấp thoáng,
Việc hoà giải heo đầu công trạng,
Thấy mặt heo nguôi dạ oán thù.
Xem đại khái như mấy câu trích ra trên đây, lời lẽ rất đúng, giọng hài hước cực hay, th́ nội dung cuốn văn có giá trị là chừng nào. Tác giả có ư nói về việc đời, bất cứ lớn hay nhỏ, mỗi người có một chức vụ, làm trọn được, tức là giúp cho đời, và không nên ganh tị lẫn nhau. Tuy đó là lư tự nhiên ai ai cũng hiểu, song sự xao nhăng chức vụ của ḿnh lại thường là cái thông bệnh của loài người, tác giả muốn lấy cuốn văn này làm một bài châm biếm thiết thực và đích đáng, thật là một văn gia rất quan tâm đến thế đạo nhân t́nh vậy.
Bùi Ưu Thiên lobj=document.getElementById("ShowHide1_lnk"); cobj=document.getElementById("ShowHide1_cnt"); if (lobj!=null && cobj!=null && (typeof ShowHideInit!="undefined")) ShowHideInit(lobj,cobj,"» Hiện giới thiệu","- Ẩn giới thiệu",false);
1. 01. Tựa 5. 05. Mă 9. 09. Kê
2. 02. Ngưu 6. 06. 10. 10. Thỉ
3. 03. Khuyển 7. 07. Dương 11. 11. Kết
4. 04. 8. 08.
|
|
ngochoang2009
member
REF: 427165
02/25/2009
|
01. Tựa (Khuyết danh Việt Nam, Việt Nam)
Thể thơ: Cổ phong (cổ thể), thời kỳ: Cổ đại
Trời hoá sinh muôn vật,
Đất dong dưỡng mọi loài.
Giống nào là giống chẳng có tài,
Người đâu dễ không nhờ vật.
Long chức quản bổ thiên, dục nhật,
Lân quyền tư giúp thánh, pḥ thần.
Quy thông hay thành bại, kiết hung,
Phụng lảu biết thạnh suy, bĩ thái.
Trong trời đất ba ngàn thế giái,
Đều xưng rằng tứ vật chí linh.
Nhẫn đến loài lục súc hi sinh,
Trời cho xuống hộ người dương thế.
Nuôi dưỡng.
Bổ thiên: giúp trời; dục nhật: tắm cho mặt trời. Rồng làm mưa trong khi hạn hán, cho nên gọi là giúp trời. Sau cơn mưa trời lại sáng, cho nên gọi là tắm cho mặt trời tỏ.
Đời có thái b́nh, kỳ lân mới hiện ra, cho nên gọi nó là một loài thú giúp các bậc thánh thần trong đời thị trị.
Rùa dùng để bói cho biết sự nên, sự hỏng, sự xấu, sự tốt.
Lảu: biết rơ. Chim phụng hoàng gặp đời thịnh ra, gặp thời suy th́ ẩn đi.
Như "giới". Kinh Phật chia vũ trụ làm tiểu thế giái, đại thế giái, cộng cả lại gọi là tam thiên thế giái.
Nh́n, xem.
02. Ngưu
Trâu mỏi nhọc, trâu liền năn nỉ:
"Một ḿnh trâu ghe nỗi gian nan,
Lóng canh gà vừa mới gáy tan,
Chủ đă gọi thằng chăn vội vă.
Dạy rằng: đuổi trâu ra thảo dă,
Cho nó ăn ba miếng đỡ ḷng.
Chưa bao lâu thoắt đă rạng đông;
Vừa đến buổi cày bừa bua việc.
Trước cổ đă mang hai cái niệt
Sau đuôi thêm kéo một cái cày;
Miệng đă dàm, mũi lại ḍng dây,
Trên lưng ruồi bâu, dưới chân đỉa cắn.
Trâu mệt đà thở dài, thở vắn,
Người c̣n hầm hét, mắng ngược mắng xuôi.
Liệu vừa đứng bóng mới thôi,
Đói ḥa mệt, bước khôn dời bước.
Ai thong thả, trâu nào ben đặng ?
Trâu nhọc nhằn, ai dễ thế cho?
Cày ruộng sâu, ruộng cạn cho no,
Lại vườn đậu, vườn mè khiến chở
Làm không kịp thở,
Ăn không kịp nhai.
Tắm mưa, trải gió chi nài!
Đạp tuyết, giày sương bao sá!
Có trâu, sẵn tằm tơ, lúa má,
Không trâu, không hoa quả, đậu mè,
Lúa gặt cất lên đà có trâu xe,
Lúa chất trữ, lại để dành trâu đạp.
Từ tháng giêng cho đến tháng chạp,
Kể xuân, hè, nhẫn đến thu, đông,
Việc cày bừa, nông vụ vừa xong,
Lại xe gỗ, dầm công liên khói ,
Bất luận xe rào, xe củi.
Nhẫn đến loài phân bổi , tranh che
Hễ bao nhiêu nhất thiết của chi,
Th́ đă phú mặc trâu chuyên chở.
Bao quản núi non hiểm trở ?
Chi nài khe suối dầm dề ?
Cong lưng chịu việc nặng nề,
Cay đắng những lời dức lác!
Ăn th́ những rơm khô, cỏ rác,
Ở quản chi ràn lấm, tráp nè.
Trâu dựng nên nông nọ, nỗi kia;
Trâu làm đặng căn trên, bồ dưới.
Nghĩ suy lại công trâu cho phải,
Lẽ cho trâu thao lụa mặc dày.
Không chi th́ quần vải, dải gai,
Không chi th́ khố lưỡi cày cũng khá>
Ăn cho phải những cơm với cá,
Không nữa th́ rau cháo cũng nên
Đến mai sau già cả sức hèn,
Cũng bảo dưỡng bổ công lao lư.
Khi mạng một chẳng đơm, chẳng tế;
Lẽ "sinh cử, tử táng", mới ưng.
Thủa sống đà không dạ yêu đương,
Khi thác lại đoạn t́nh siêu độ.
Bảo nhau sắm con dao, cái rổ,
Khiến nhau vơ mớ củi, nắm nè.
Rằng: Trâu này cốt Phật xưa kia,
Phát đ́nh liệu cho hồn thăng thiên giái.
C̣n h́nh tích giống chi để lại,
Người người đều bàn bạc với nhau:
Kẻ th́ rằng: Tôi lănh cái đầu,
Người lại nói: Phần tôi cái nọng.
Kẻ giành ḷng bóng ép gối mà kê,
C̣n sừng đem về ép thoi làm lược.
Kẻ th́ chuốc hoa tai, làm bầu liều.
Làm tù và mà thổi cũng kêu,
Tiện con cờ mà đánh cũng tốt.
Kẻ th́ làm cái mơ, cáo hộp,
Người lại tỉa cán quạt, cán dao.
C̣n gị chia nhau,
Làm nham, làm thấu.
Trâu gẫm lại là loài cầm thú,
Phận sau chịu vậy, dám nài!
Trâu thác đă công nghiệp phủi rồi,
Trâu sống lại kiện nài với chủ:
Không nhớ thủa bôi chuông đường hạ
Ơn Tề vương vô tội kiến tha
Tưởng chưng khi sức mọn tuổi già,
Cám Điền tửdạy con chớ bán.
Lời cổ nhân c̣n dặn,
Sao ông chủ vội quên ?
Chẳng nhớ câu "Dĩ đức hành nhân".
Lại lấy chữ "Báo ân dĩ oán!"
Nói chi nữa cho dài chuyện văn ?
Thưa chủ xin nói thép một lời:
Nhưng loài muông, vô tướng, vô tài,
Nuôi giống ấy làm chi cho nhọc ?
Ăn cho lớn, dưỡng vai, dưỡng vóc,
Giỡn với nhau vạch cửa, vạch sân,
Một ngày ba bữa chực ăn,
Thấy đến việc lén ḿnh lét lét.
Chưa rét đă phô rằng rét,
Xo ro đuôi quít vào trôn,
Vấy bếp người, tro trấu chẳng c̣n,
Ba ông táo lộn đầu, lộn óc,
Chưa sốt đà nằm dài thở dốc.
Le lưỡi ra phỏng ước dư gang.
Lại thấy người lơ đĩnh lơ hoang
Tài ăn vụng thôi th́ hơn chúng.
Nhưng muông biết cày nương, bừa ruộng,
Th́ muông kể biết mấy công ơn ?
Muông, người cho ăn cháo, ăn cơm,
Trâu, người bắt nhai rơm, nhai cỏ.
Khi muông thác tống chung, an thổ,
Có gạo tiền cấp táng toàn thân,
Trách một ḷng chủ ở bất công,
Hậu ư bạc, bạc đem làm hậu".
03. Khuyển
Muông nghe nói, giận đau phế phổ,
Liền chạy ra sủa mắng vang tai:
"Trời đă sinh các hữu kỳ tài,
Lớn việc nặng, bé th́ việc nhẹ.
Bởi v́ đó lớn vai, lớn vế,
Th́ chuyên lo nông bổn cày bừa,
Vốn như đây ốm yếu chân tay,
Cũng hết sức gia trung xem xét.
Trách sao khéo thổi lông t́m vết ?
Giận thày lay vạch lá t́m sâu.
Ai ai đều phận thủ như nhau ;
Khắn khắn cũng một ḷng pḥ chủ.
Kẻ đầu kia, người việc nọ,
Đứa coi ngoài có đứa giữ trong.
Đêm năm canh con mắt như chong:
Đứa đạo tặc nép oai khủng động.
Ngày sáu khắc, lỗ tai bằng trống,
Đứa gian tham thấy bóng cũng kinh.
Lại đến ngày kỵ lạp tiên sinh,
Cũng ra sức săn chồn, đuổi sóc.
Bao quản chui gai, lước góc,
Chi này múa mỏ, ḷn hang.
Anh trâu sao chẳng biết thương,
Nỡ lại tra lời sanh nạnh.
Ăn th́ cơm thừa, canh cặn,
Ăn th́ môn sượng, khoai sùng
Tới bữa ăn chẳng luận ít nhiều,
Có cũng rằng, không cũng chớ.
Trâu rằng: trâu ăn rơm với cỏ
Mà c̣n có một thằng chăn,
Tốn áo quần cùng tốn cơm ăn,
Nỗi lại tới gạo tiền đằng khác;
Tính chắt lót một năm hai đạc,
Về thằng chăn đă hết một trâu.
Cũng mạnh cày, mạnh kéo nên giàu,
Hăy cho nhẹm ḿnh trâu là quí.
Vốn như đây gia tài ủy kư,
Mà chủ không tốn kém đồng nào.
Nếu không muông coi trước giữ sau,
Th́ của ấy về tay kẻ trộm.
Trâu biết nói, trâu không biết xét,
Suy ḿnh muông công nghiệp đă dày,
Khi sống th́ giữ ǵn của đời,
Khi thác xuống giữ cầu âm giái,
Người có phước, muông đưa ra khỏi,
Ai vô nhân, qua chẳng đặng đâu!
Chủ có ḷng suy trước, xét sau,
Khi lâm tử gạo tiền tống táng.
Chủ đă có công dày ngăi rộng,
Muông dễ không tiếp rước đăi đưa,
Thấy anh trâu chưa biết căn do,
Nó (Nói ?) vài chuyện, kẻo chê muông dại".
Trâu với muông hai đàng đối nại,
Chủ nghe qua khó nỗi xủ phân:
"Thôi đừng nhĩ ngă thiệt hơn.
Phú lưỡng bạn dĩ hoà vi quí".
04.
Hai vật đă tương đồng hoan hỉ,
Lại cùng nhau từ tạ một lời:
"Như luận trong công nghiệp hai tôi:
Ăn có bữa, lo không có bữa.
Dám thưa người, báu ǵ giống ngựa,
Mà trau tria lều trại nhọc nhằn ?
Ăn cho ăn những cháo đậu xanh,
Ở th́ ở những tàu lợp ngói.
Bữa bữa dạo chơi, tắm gội,
Ngày ngày chắn vó, hớt mao.
Sắm sửa cho, chẳng biết chừng nào,
Suy tính lại, dư trăm, dư chục.
Sắm lá vả, sắm yên, sắm lạc,
Sắm chân đưng hàm thiếc, dây cương.
Dời tiền, dời hậu bao vàng,
Thắng đái, dây cương thếp bạc.
Gẫm giống ấy:
Nết na giớn giác,
Tính khí chàng ràng,
Tuy đang khi mọi vẻ nghiêm trang,
Trong gia sự nhiều điều ngơ ngáo.
Nghề cày bừa, nghe coi lếu láo,
Việc bắn săn coi cũng ươn tài,
Chủ nuôi không biết chủ là ai,
Nhà ở, chẳng biết nhà mà lại.
Dại không ra dại,
Khôn chẳng nên khôn;
Ngất ngơ như ốc mượn hồn.
Nuôi giống ấy làm chi cho rối".
05. Mă
Ngựa nghe nói, tím gan, nổi phổi,
Liền chạy ra hầm hí vang tai:
"Ớ! này, này, tao bảo chúng bay,
Đố mặt ai dày bằng mặt ngựa ?
Tuy rằng thú, cũng hai giống thú,
Thú như tao ai dám phen lê
Tao đă từng, đi quán, về quê,
Đă ghe trận đánh nam, dẹp bắc.
Mỏi gối nưng pḥ xă tắc,
Ṃn lưng cúi đội vương công.
Ngày ngày chầu chực sân rồng
Bữa bữa dựa kề loan giá,
Ông Cao tổ năm năm thượng mă,
Mới dựng nên cơ nghiệp Lưu gia,
Ông Quan Công sáu ải thoát qua,
V́ cậy có Thanh long, Xích thố
Đă nhiều thủa ngăn thành, thủ phủ
Lại ghe phen đột pháo, xông tên
Đàng xa xôi ngàn dặm quan sơn
Ngựa phi đệ một giờ liền thấu.
Các chú đặng ăn no, nằm ngủ,
Bởi v́ ta cần cán, giữ ǵn.
Khắn khắn lo nhà trị, nước yên,
Chốn chốn đặng nông bô lạc nghiệp.
Các chú những nằm trong xó bếp,
Tài các ngươi ở chốn quê mùa.
Đừng đừng buông lời nói khật khù
Bớt bớt thói chê bai giớn giác,
Nếu tao chẳng lo trong việc nước,
Giặc đến nhà ai để chúng bay ?
Thật biết một mà chẳng biết mười,
Chớ lừng lẫy cậy tài, cậy thế".
Ngựa nói lâu, gẫm càng hữu lư,
Vậy chủ bèn phân giải một lời:
"Đại tiểu các hữu kỳ tài,
Vô đắc tương tranh nhĩ ngă".
06.
Trâu với ngựa cùng muông ba gă,
Mới ra ngoài từ tạ phân nhau.
Ngựa giận dê, đứng lại giây lâu,
Bèn phát trạng cáo nài với chủ:
"Dê với ngựa cũng là giống thú,
Chăn đồng chăn, nuôi cũng đồng nuôi,
Dê, người cho ăn nhảy chơi bời,
Ngựa, người bắt kỵ biều, luân tế.
Gẫm giống chi hữu đầu vô vĩ,
H́nh con con, bụng lớn ;
Cáng náng như đứa có hạ nang,
Sớn sác tợ con chàng kẻ cướp.
Nghề tế kiệu coi đà xấu vóc,
Việc cày bừa nhắm bóng cũng ươn;
Hễ thấy người thấp thoáng đôi bên,
Liền há miệng kêu la: bé hé".
07. Dương
Dê nghe ngựa nói dê quá tệ,
Liền chạy ra vác mặt, vênh râu;
Dê nói rằng: "Ta đọ với nhau,
Thử anh lớn hay là tôi lớn.
Anh đă từng vào dinh, ra trấn,
Sá chi tôi tiểu thú quê mùa ?
Mạnh th́ lo việc nước, việc vua.
Song chớ khá cậy tài, cậy tướng,
Ai có tài, chủ ban chủ thưởng,
Ai không công, tay làm hàm nhai,
Chẳng dám ăn lúa má, môn khoai;
Không hề phạm đậu mè, hoa quả.
Khuyên khuyên chớ nói ngang nói ngửa,
Bớt bớt, đừng ỷ thế, cậy tài,
Ai chẳng biết đuôi ngựa th́ dài,
Dài th́ để xua ṃng, đuổi muỗi;
Vốn như đây đuôi tuy vắn vỏi,
Đây cũng không mượn ngựa nối thêm.
Ngàn dặm trường, mặt ngựa khoe êm.
Ba g̣ sỏi, dê đà xong việc.
Việc dê th́ dê biết,
Việc ngựa th́ ngựa hay
Bừa cày, có thú bừa cày,
Kiệu tế, có muông kiệu tế,
Dê vốn thật thuộc về việc lễ,
Để ḥng khi về hạng tư văn;
Để dành khi tế thánh, tế thần,
Lại có thủa kỳ yên, kỳ phước.
Hễ có việc, lấy dê làm trước,
Dê dâng vào người mới lạy sau.
Ngựa tuy rằng h́nh tượng lớn cao,
Tam sanh lễ, ai dùng đến ngựa ?
Dầu đến việc làm đ́nh, làm chợ,
Cũng lấy dê trảm thảo, bồi cơ;
Nhẫn đến ngày mạng tướng xuất sư,
Cũng lấy dê khấn cầu tổ đạo.
Lễ cốc sóc thánh nhân c̣n bảo:
Tử Cống sao dê sống bỏ đi ?
Ngựa nói ngang mà chẳng biết suy,
Dê nào có thiếu chi công trạng ?
Nói cho xứng đáng,
Há dễ cơ cầu,
Dê tuy rằng vô vĩ, vô đầu,
Quan phong Trường tu chủ bộ.
Hèn như dê mà dám đọ,
Tiện như dê, quí bất khả ngôn.
Ngựa rằng: Ngựa ở chốn quyền môn,
Phong cho ngựa chức chi nói thử ?
Thưa chủ nghiệm việc dê với ngựa,
Cân mà coi, ai trọng, ai khinh ?"
08.
Ngựa nghe qua tỏ đặng sự t́nh,
Dê rằng: bé, ai hay chức lớn ?
Dê nói lại tài dê cũng rắn,
Ngựa thưa qua, sức ngựa thêm rồng:
Chủ phê cho lưỡng bạn tương đồng,
Chắp sự giả các tư kỳ sự.
Lời tự thuận hai đàng xong xả,
Dê phát ngôn, bèn trở nại gà:
"Nuôi chúng tôi lợi nước lợi nhà,
Nuôi giống gà thật vô ơn ngăi.
Thấy chủ văi đám ng̣, vạc cải
Túc nhau bươi chếch gốc, trốc cây.
Thấy người trồng đám đậu, vồng khoai,
Rủ nhau vầy nát bông, nát lá.
Rất đến đỗi thấy nhà lợp rạ,
Kéo nhau lên vậy vă tâng bầng.
Cho ăn rồi quẹt mỏ sấp lưng
Trời chưa tối, đà lo việc ngủ.
Ba cái rác nằm không yên chỗ,
Mấy bụi rau nào để bén dây
Cả ngày thôi những khuấy, những rầy,
Nuôi giống ấy làm chi vô lối ?"
09. Kê
Gà nghe nói, nóng gan, nóng phổi,
Liền nhảy ra, chớp cánh, giương đầu.
Này này! gà ngũ đức thẳm sâu:
Nhân, dũng, tín, vơ, văn, gồm đủ.
Trên đầu đội văn quan một mũ;
Dưới chân đeo hai cựa thần thương.
Đă ghe phen đến chốn chiến trường.
Lập công trận vang tai, lói óc,
Thủa Tây Lũng tam canh trống thúc;
Gà gáy đầu ba tiếng đêm khuya,
Một tiếng rằng: thiên nhật tác th́;
Hai tiếng rằng: quốc tộ tác xương,
Ba tiếng rằng: nhân gian tác lạc,
Đă cứu nạn Mạnh thường đặng thoát;
Lại khuyên người Tấn sĩ năm canh.
Hễ ai toan cải dữ về lành,
Gà cũng biết tỉnh, mê, giấc điệp.
Coi gị gà xét biết thịnh suy.
Dóng canh khuya vui dạ kẻ tiêu y,
Cất tiếng gáy, toại ḷng người đăi đán,
Cứ mấy điều mà đoán,
Đă tỏ việc phải chăng ?
Giận anh dê cứ nói việc ăn,
Khéo kiếm chác những điều xoi tệ.
Dê biết lễ gà cũng biết lễ,
Dê phong Chủ bộ, gà chức Tư thần.
Nói vài điều đă biết xứng cân,
Huống gà có ngoại khoa biết mấy ?
Chưa biết ai hay rầy, hay khuấy,
Chưa biết ai ngủ sớm ngủ mê.
Gà không người chăn giữ đi về,
Nên gà mới lỗi lầm bươi móc.
Dê lầm thế không ai xem sóc,
Việc phá dê bằng chín bằng mười.
Bữa ăn gà tốn kém mấy hơi?
Nói những chuyện so chày buộc chặt.
Kể ít chuyện cho dê biết mặt,
Kẻ rằng gà vô thú trong đời.
Chẳng nhớ xưa đêm sáng, tốt trời,
Xui kẻ nhớ vợ hiền thêm chạnh.
Thức vua Thính làm lành giấc tỉnh.
Gà thua dê một hàm râu nịnh,
Nghĩ lại coi không ích lợi chi.
Gà dễ đâu có dám phân b́,
Nói điều phải mà nghe cho đặng ?"
Dê nghe nói công lênh nhẹ nặng,
Mới biết suy hơn thiệt mọi điều:
"Thôi, thôi, nói ít biết nhiều,
Dê xin chịu lập tờ tự thuận"
Gà c̣n hăy chưa nguôi cơn giận,
Bèn phát ngôn thưa chủ một lời:
"Như chúng gà vốn đạo làm tôi,
Giữ một tiết thức khuya dậy sớm.
Thủa ấu thơ người c̣n tríu trớn;
Đến lớn khôn đều có riêng quan.
Ai siêng bươi, siêng móc th́ no,
Bằng biếng lặt, biếng t́m th́ đói.
Gà gẫm lại thân gà thêm tủi,
Làm tôi người không đặng nhờ chi.
Heo ăn rồi ngủ ngáy ś ś,
Giả ngây dại, biết ǵ việc chủ.
Ngắm diện mạo, dị h́nh, dị thú,
Xem dung nhan khác thế lạ đời.
Như nuôi chơi, chẳng phải giống chơi
Chạy rau cám, như tiền nội án.
No đú mỡ, nhảy quanh, nhảy quất,
Đói xép hông, cắn máng, cắn chuồng.
Mỗi một ngày ba bữa ṛng ṛng,
Đă chẳng thấy bữa nào sai chạy,
Bán bối ǵ mà người yêu vậy ?
Mù quáng chi mà phải báo cô ?"
10. Thỉ
"Chú gà chớ lung lăng múa mỏ,
Giữ, có ngày cắn cổ chẳng tha!
Ghét thương th́ mặc lượng chủ nhà,
Chớ thóc mách kiếm lời phỉ báng.
Như các chú lao đao đă đáng,
Heo thong dong ăn nhảy mặt (mặc ?) heo.
Nội hàng trong lục súc với nhau,
Ai sánh đặng ḿnh heo béo tốt ?
Vua ngự lễ Nam giao đại đột,
Phải có heo mới gọi tam sanh,
Đừng đừng quen lời nói lanh chanh,
Bớt bớt thói chê ai ăn ngủ,
Ḱa những việc hôn nhân giá thú.
Không heo ra, tính đặng việc chi?
Dầu cho mời năm bảy chuyến đi,
Cũng không thấy một người thấp thoáng.
Việc ḥa giải, heo đầu công trạng,
Thấy mặt heo nguôi dạ oán thù.
Nhẫn đến khi ngu phụ, ngu phu,
Giận nhau đánh giập đầu, chảy máu.
Làng xă tới lao đao, láu đáu,
Nào thấy ai gỡ rối cho xong,
Khiêng heo ra để lại giữa ḍng,
Mọi việc rối liền xong trơn trải.
Phải chăng, chăng phải,
Nghĩ lại mà coi,
Việc quan, hôn, tang, tế, vô hồi
Thảy thảy cũng lấy heo làm trước.
Bởi gà nhỏ nói lời lấn lướt,
Nên phải phân ít chuyện mà nghe.
Dễ heo nào có dạ dám khoe ?
Khắn khắn cũng lo làm việc phải.
Heo cũng biết đền ơn báo ngăi,
Heo cũng hay tiêu họa, trừ tai,
Toái thân phấn cốt chi nài ?
Nát thịt tan xương bao quản ?
Ḷng thờ chủ ngay đà tỏ rạng.
Thân ḿnh này ví bẵng như không.
Tại chú gà lời nói khùng khùng,
Mới sinh sự so đo trường đoản".
Vậy chủ bèn phân đoán,
Phê một câu khúc tận kỳ t́nh:
"Gà biết chữ xả sinh thủ ngăi;
Heo đặng câu tịnh sinh, tịnh dục "
|
1
|
Kí hiệu:
:
trang cá nhân :chủ
để đă đăng
:
gởi thư
:
thay đổi bài
:ư kiến |
|
|
|
|