goldsnow142
member
ID 51945
05/11/2009
|
Một đám ma tốn trăm trâu ngàn gà(ST)
1.Chuyện về Chánh quan Lang không tai
Năm 1932, khi được vua Bảo Đại vời vào kinh đô Huế yết kiến, Chánh quan Lang tỉnh Mường Ḥa B́nh Quách Vị đă đưa người con gái nuôi xinh đẹp cùng đi. Trong lần ấy, Quách Vị được vua ban cho một bộ cẩm bào và mũ cánh chuồn thay cho đôi tai thật mà Quách Vị không có.
Xứ Mường Ḥa B́nh xưa, cùng với 4 mường: Bi, Vang, Thàng, Động là các ḍng họ lớn: Đinh, Quách, Bạch, Hà nối đời làm Lang cai quản. Đối với từng ḍng họ th́ con trai trưởng làm Lang Cả, con trai thứ làm Lang em chia nhau đi Ăn Lang (cai quản) từng vùng. Toàn tỉnh có một hội đồng Quan Lang gồm 12 thành viên. Trong đó đứng đầu là Chánh Quan Lang mà quyền thế như ông vua một vùng.
Chánh quan Lang Quách vị được vua Bảo Đại ban cho mũ cánh chuồn thay vào đôi tai mà ông không có
Vùng đất Mường Vang, Mường Vó nằm gọn trong một thung lũng rộng lớn, với diện tích lúa nước lên đến hàng ngàn ha, thuộc 7 xă: Miền Đồi, Quư Ḥa, Tuân Đạo, Tân Lập, Mỹ Thành, Văn Nghĩa và Nhân Nghĩa của huyện Lạc Sơn ngày nay. Các cụ già ở vùng này vẫn thường ngâm nga cho con, cháu nghe bài thơ cổ ca ngợi cảnh đẹp của vùng Mường Vang:
Bốn bề rừng rậm núi nguy nga
Nước hát chim ca cảnh thái ḥa
Man mác trời mây bày trăm vẻ
Dập d́u hoa lá thác ngân nga
Trời xanh cũng khéo tựa chiều ta
Bốn bề non nước ấy cảnh nhà
Ḥa cùng trời đất đưa hương sắc
Bông thơm trái ngọt nở muôn hoa
Về Mường Vang hôm nay, chưa chắc bạn đă h́nh dung ra sự trù phú khi xưa của nó. Nhưng tiếp xúc với gia đ́nh quan lang cũ ở đây, bạn sẽ không khỏi ngạc nhiên về uy quyền và sự thịnh vượng của Lang Cun Mường.
Khi xưa, cai quản vùng đất trù phú, nên thơ này là ḍng lang họ Quách mà dinh thự đặt tại trung tâm xă Tân Lập để thay nhau ăn lang ở vùng Chiềng Vang. Không biết là đời thứ bao nhiêu, nhưng vào một ngày lành, tháng tốt, mưa thuận, gió ḥa của năm 1883, bà Chu – vợ lang Cun (Lang to) Quách Tiết sinh ra người con trai và đặt tên là Quách Vị. Quách Vị ngay từ lúc ra đời đă có khuôn mặt rất đẹp nhưng lại không có cả hai vành tai. Càng lớn, Quách Vị càng khôi ngô, thông minh và cao lớn hơn người.
Sinh ra và lớn lên trong gia đ́nh ḍng dơi quan lang, Quách Vị được nuôi dưỡng chu đáo và được ăn học cẩn thận. Xác định bổn phận sau này thay cha làm Lang Cả cai quản thần dân nên Quách Vị càng cố gắng học tập và rèn luyện, tiếp cận vị thế tương lai của ḿnh. Năm 1903, khi mới 20 tuổi, Quách Vị được bổ làm Thông sự Tri Châu Lạc Sơn nên càng có điều kiện, giao lưu, tiếp kiến với người Pháp và các quan lang trong vùng. Với những cố gắng của ḿnh, 5 năm sau, mới 25 tuổi, Quách Vị được thăng làm Phó Tri châu, rồi Tri châu Lạc Sơn.
Đêm mồng 2, rạng sáng mồng 3/8/1909, từ hang Can (thuộc xă Độc Lập ngày nay), Tổng Kiêm và Đốc Bang dấy quân khởi nghĩa đánh chiếm tỉnh lỵ Ḥa B́nh. Sau khi đánh vào tỉnh lỵ, tiêu diệt được một số quan, quân Pháp, thu được không ít vũ khí và lương thực, nghĩa quân theo sông Đà rút về đồn trú ở vùng núi Viêm Nam để phục binh đánh Pháp lâu dài. Trước t́nh h́nh trên, Quách Vị được lệnh mang quân Sơn dơng của Châu Lạc Sơn ra bảo vệ tỉnh lỵ và truy kích quân khởi nghĩa. Măi tới cuối năm 1910, do lực lượng không cân sức, quân khởi nghĩa thất bại, lănh tụ của họ bị bắt và đày ra Côn Đảo, chấm dứt cuộc khởi nghĩa yêu nước của Tổng Kiêm, Đốc Bang.
Do chiến công này, Quách Vị được người Pháp chú ư nhưng c̣n phụ thuộc vào Hội đồng Quan Lang cấp tỉnh, nên ông tiếp tục về làm Quan Tri châu Lạc Sơn. Cho đến 1920, nghĩa là 10 năm sau, khi đă “cứng cáp”, Quách Vị mới được bầu vào Hội đồng Quan lang gồm 12 người. Hội đồng Quan lang lại bầu ra 6 vị từ Chánh quan lang và 5 chức sắc tiếp theo. Trong 6 người ấy, Quách Vị được bầu là quan Án sát. Đến năm 1925, Quách Vị trúng liền 2 khóa làm Chánh Quan Lang tỉnh Mường – tương đương với quan Tuần phủ người Kinh.
Ông Quách Vị có bốn người vợ, trong đó có 2 vợ thuộc ḍng dơi nhà Lang. Đinh Thị Yên – vợ cả đẻ được con trai Quách Hàm.Vợ hai là Quách Thị Yềm, người Mường Vang lại không biết sinh con; người vợ thứ Ba, thứ Tư là Bùi Thị Mếu và Bùi Thị B́ không thuộc ḍng dơi nhà Lang nên phải chịu gọi là “vợ nuôi”. Cả 4 bà vợ đều ở quê nên Quách Vị ở trên tỉnh có một ḿnh. Ngay từ khi c̣n làm quan Án sát, Quách Vị đă làm giấy nhận một người con gái của vợ chồng người hầu bếp làm con và đổi sang họ Quách.
Năm 1932, khi được vua Bảo Đại vời vào kinh đô Huế yết kiến, Chánh quan lang Quách Vị đă đưa người con gái nuôi xinh đẹp cùng đi. Trong lần ấy, Quách Vị được vua ban cho một bộ cẩm bào và mũ cánh chuồn thay cho đôi tai thật mà Quách Vị không có. Sau, người con gái nuôi này chính là hoa hậu sứ Mường vào các năm 1932 - 1933. Và rồi trở thành con dâu ngoài ư muốn của Quách Vị. (sẽ đề cập ở phần sau)
Dưới sự đô hộ của thực dân Pháp, ở miền núi Ḥa B́nh, tuy đă có Hội đồng Quan Lang do Chánh Quan Lang đồng thời là quan Tuần phủ người Mường đứng đầu tỉnh, nhưng toàn quyền lại do Quan Công sứ người Pháp quyết định. Bên cạnh quan Công sứ th́ Phó Công sứ cũng là người Pháp. Vào năm 1934, Công sứ Tuyxtơ, hết nhiệm kỳ được triệu về nước, Moóclơva được bổ nhiệm là Công sứ mới cai quản tỉnh Mường Ḥa B́nh. Trong buổi “Tống cựu, nghinh tân”, thấy Chánh Quan lang Quách Vị thể hiện sự lưu luyến với cựu Công sứ mà không mấy đậm đà với tân Công sứ, nên Moóclơva đă buột miệng mắng ông là “Đồ con lợn”.
Đối với người phương Tây, đó không phải là câu nói xúc phạm. Nhưng đối với một Chánh Quan Lang người Mường th́ quả là quá xúc phạm. Nhất là đối với người dân tộc Mường, vốn lại không phân biệt mắng, chửi như người Kinh. Nghĩa là nếu đụng chạm đến nhau, đối với họ đều là chửi. Chính thế, Quách Vị nổi đóa và văng tục trước mặt Công sứ Moóclơva: “Tao đút C vào làm nữa”, rồi sai thuộc hạ bốc đồ đạc trở về Mường Vang. Nh́n nhận sự việc trên không phải để thấy vị Lang không tai kia nóng tính, bảo thủ của tính cách bản địa. Con người bộc trực ấy từ chức quan, vào rừng ở cho đến cuối đời. Để rồi thế hệ con cái sau đó có điều kiện tham gia kháng chiến.
Hệ thống Lang đạo bề thế, chặt chẽ từ ngàn xưa được sinh dưỡng, ủ ấp trong miền núi rừng Ḥa B́nh với những quy tắc bền chặt của “Đất có Lang, làng có phép”. Trong kho tàng dân gian truyền miệng của người Mường c̣n lưu:
Lang từ khởi tổ ngày xưa
Cuối Văn Lang quốc bây giờ đă xa
Mỗi cành con cháu phong ra
Họ chia Đinh, Quách, Bạch, Hà, Xa, Cao
Trải nơi rừng rậm đồi cao
Rủ đưa thầy tớ t́m vào khai hoang
Phá rừng núi mở ruộng nương
Chiêu dân lập ấp ruộng đường vào ra
Sau này con cháu nhiều ra
Đặt nên châu, tổng cùng là xă thôn
Ḍng Lang thêm nức tiếng đồn
Cái danh quư tộc vần c̣n tiếng sang
Trai thời truyền gọi quan lang
Gái thời truyền gọi măng nàng là tên
Kim chi ngọc điệp nối truyền
Mường trong phục ư, vua trên thuận t́nh
Sử sách có ghi nhận công lao đóng góp của tầng lớp Lang đạo trong việc giữ yên bờ cơi ở những vùng phên giậu của đất nước. Đặc biệt các nhà Lang ḍng họ Đinh, Quách, Bạch, Hà của Ḥa B́nh tuyệt đối trung thành với Nhà Lê. Chính v́ thế mà đến thời Gia Long và Minh Mạng đă không mấy cảm t́nh với các quan Lang người Mường, nên đă có một thời tước dần quyền cai trị tỉnh Mường của các thổ lang bản địa. Nhưng sau thấy không ổn, lại phải phục quyền cho họ. Trong tờ tŕnh số 481 ngày 20/01/1904 của Viện Cơ mật có đoạn: “ Triều đ́nh chưa ban bố một luật lệ nào làm ảnh hưởng đến quyền hành chính hay tư pháp của các quan lang”. Rồi Viện Cơ mật kết luận: “Những vấn đề này, Nhà Vua vẫn để cho các quan lang đưa vào lệ cổ của dân tộc ít người đó”.
Xuất phát từ thực tế như trên, Hội đồng Quan lang lại do toàn thể các lang bầu. Và Chánh quan lang lại do Hội đồng quan lang bầu ra. Tiếng nói của họ đặc biệt có uy tín đối với dân chúng người Mường. Vắng Chánh quan lang, công việc hàng tỉnh gặp không ít khó khăn, nên nhiều lần quan Công sứ Moóclơva cho Thông phán cầm thư vào mời Quách Vị trở lại nhiệm sở nhưng ông đă cương quyết từ chối.
Từ quan về ở ẩn trong rừng, ông Quách Vị được gia tộc và dân Mường Vang gọi là Lang Đá (Lang Ông). Không ai dám gọi tên thật của ông, v́ con trai ông đă làm quan Tri châu rồi. Câu chuyện về gia tộc ông Lang không tai c̣n tiếp diễn ở đời sau.
2.Một đám ma tốn trăm trâu ngàn gà
Chưa hết 15 ngày mo, Ậu cả nhẩm tính đă thịt trên 100 con trâu, 150 con lợn và hàng ngàn con gà để cúng tiễn đưa lang Đá – Quách Vị về mường Ma. Ngày đưa tang, huyệt mộ Lang Đá táng trên đồi cao mà trên quan tài để một bát nước đầy. Trong suốt quăng đường gập ghềnh vượt suối, băng đồi, bát nước ấy không sóng sánh ra ngoài một giọt…
Cuộc sống hiện đại với những chi tiết đă được tinh giảm cho phù hợp với hoàn cảnh cũng vẫn c̣n xót lại những hủ tục ma chay, cưới xin rườm rà, không cần thiết. Có biết về đám ma của một vị quan Lang xưa chúng ta mới thấy hết vẻ bề thế cũng như sự rườm rà của nó.
Sau hơn 30 năm, từ lúc hai mươi tuổi cho đến khi ngoài năm mươi, từ quan Thông sự Tri châu, phó Tri châu, Tri châu, quan Án sát rồi liên tiếp hai khóa làm Chánh quan Lang – Tuần phủ tỉnh Ḥa B́nh, nay từ quan về lại quê nhà Mường Vang, Quách Vị rất buồn. Ông không ở trung tâm Chiềng Vang mà bỏ lên làng Pol thuộc Đồi Thung, nơi núi rừng có độ cao trên ngàn mét so với mực nước biển để sống những ngày cuối đời. Tại đây c̣n lại một nhà khách, ông cho xây cất để thỉnh thoảng vợ chồng Công sứ Tuyxtơ lên nghỉ ngơi, săn bắn và tắm nước khoáng nóng.
Hàng ngày cô đơn thẩn thơ trong rừng, trước mây vờn, gió giỡn, ông lại chợt nhớ đến những năm tháng quan trường với bao niềm vui và cũng không ít nỗi buồn. Nhớ nhất là hành tŕnh vào Huế yết kiến vua Bảo Đại. Trên quăng đường dài thế, đến đâu ông cũng được Tuần phủ các tỉnh đón tiếp long trọng nào ngựa, nào xe. Thế mà bây giờ, muốn đi đâu lại phải có người khiêng vơng không khác ǵ người ốm. Càng buồn, Quách Vị càng xa lánh người thân. Ông không muốn cho ai lên thăm. Hàng ngày, chỉ vài thuộc hạ phục dịch.
Sau gần chục năm ở ẩn trong rừng, vào cuối năm 1943, Lang Đá – Quách Vị thấy đă yếu lắm rồi, ông mới chịu cho phu phen khiêng về nhà cái ở làng cũ Chiềng Vang. Tuy không c̣n là Chánh quan lang nhưng Quách Vị vẫn là Lang Đá – lang ông với vị thế được đặc biệt tôn kính. Mặt khác, con trai cả của ông là Quách Hàm đang là Quan Tri châu Lạc Sơn nên không những thần dân mà hàng ngũ nhà lang các họ, các miền tới thăm ông tấp nập. Vào cuối mùa đông năm 1943, ông qua đời ở tuổi 60. Thế là một con người không có hai vành tai, hai lần làm Chánh quan lang sứ Mường Ḥa B́nh, sinh năm Quư Mùi, lại từ giă cơi đời vào đúng năm Quư Mùi, vừa tṛn một Hoa giáp.
Người già ở Chiềng Vang kể: Vào một buổi sáng sớm cuối đông năm 1943, trời rét như cắt da, cắt thịt. Khi bản làng c̣n ch́m trong sương mù th́ bỗng nổi lên 3 hồi trống đồng làm rung chuyển cả núi rừng báo tin Lang Đá đă về mường Ma. Sau đó, các Ậu lam – người giúp việc Lang mới cầm chiêng chót gơ từng hồi đi báo tin cho rơ đến các mường:
- Chiềng Mường, Chiềng xóm. Đêm qua Lang Đá mường ta đă về mường Ma. Hỡi người các mường ơi! Hỡi bố mế, phà khà ơi! Lang Đá ta mất rồi! Bóng, bóng, bóng…cứ thế, cái tin lang Đá về mường Ma được loan rộng. Và cứ thế, người người từ trong nhà chạy ra ngoài sân, hướng về phía nhà Lang Đá mà khóc lóc, kể lể như chính cha ḿnh chết. Rồi không ai bảo ai, họ thay quần áo, váy trắng, bỏ tóc xơa để đến nhà tang chủ mong được nh́n mặt vị Lang Đá của ḿnh lần cuối ĺa.
Tại gian chính giữa nhà Cái, một chiếc màn trắng buông chùm sập gụ chân quỳ khảm trai long, ly, quy, phượng. Hai cánh màn được mở rộng, Lang Đá mặc áo gấm đỏ, đầu đội mũ cánh chuồn là những phẩm vật vua Bảo Đại ban. Từ trong màn thoảng ra một mùi đặc biệt của hoa lá thơm của núi rừng. Từng đoàn người đi dọc theo dăy đồ đồng đặt trên sàn nhà mà đến quỳ lạy trước thi thể người quá cố. Ở dưới sân, người ta vừa khiêng một chiếc trống đồng rất to từ trong khu rừng mộ về, tượng trưng cho sự linh thiêng của linh hồn Lang Đá. Chiếc trống này được mang lên nhà và phủ nhiễu đỏ. Hương nến được đốt lên để ông Mo cúng thần trống. Sau đó là bắt đầu 15 ngày đêm liên tiếp mo cho Lang Đá lên mường Trời.
Đám ma Lang Đà
Thời gian mo rất dài, mo liên tục không nghỉ, nên tất cả những ông mo giỏi trong vùng được triệu đến. Họ thay nhau đọc thuộc ḷng những bài mo dài dằng dặc được truyền miệng từ ngàn xưa. Quan lang các vùng cùng tùy tùng vài chục người mỗi đoàn, dắt trâu, gánh xôi, gạo, rượu, thịt đến phúng viếng Chánh quan lang Quách Vị:
-Thương ôi! Quan Chánh Lang của trăm đất, trăm miền đă về chầu phật, chầu tiên. Người mường chúng tôi ḷng đau dạ xót. Hôm nay đến đây lạy người! Ô hô, thương ôi!
Quan Tri châu Quách Hàm là con trai trưởng đón lời:
…Đầu cha tôi quay về hướng Đông Bắc, nh́n ra tỉnh lỵ Ḥa B́nh. Sau 15 ngày đêm nghe mo kể nḥm mường lúc cuối ĺa, nghe mo kể Đẻ đất, đẻ nước, nghe chuyện Nàng Nga hai mối, nghe cho đủ chuyện, đủ tṛ, rồi theo ông Mo dẫn lối, Ậu Chí Chuốc gánh đồ về mường Ma đống Rổng phía Tây Bắc, đồi mường Chiềng ta đây.
Lang cả Quách Hàm rứt lời, các lang em cùng con cháu đồng thanh khóc lóc và lăn vào áo quan trong tiếng trống, kèn của 12 phường bát âm tấu lên các khúc xinh tiền, lưu thủy, hành vân… âm vang cả cánh đồng Chiềng Vang rồi vọng vào vách núi. Cứ thế cho đến đêm thứ 15, là đêm mo cuối ĺa – đêm mo cuối cùng con dân các mường c̣n được ở gần lang Đá của họ. Họ thức cả đêm chờ đến sáng hôm sau.
Đêm ấy, hàng trăm ngọn nến được thắp lên, mấy chục ngọn đèn dầu lạc được đốt sáng. Trong ánh sáng bập bùng, hàng ngàn người, tóc xơa, khăn trắng thắt ngang đầu với nét mặt buồn rười rượi ngồi kín sàn, đặc sân, ngơ chờ thời khắc đưa lang Đá về mường Ma.
Khoảng 7 giờ sáng hôm sau, một hồi “ chiêng vàng, chiêng bạc” tấu lên cùng tiếng trống đồng trầm hùng rung động núi rừng, báo hiệu đă đến giờ đưa lang Đá về nơi an nghỉ cuối cùng. Một ông mo chính mặc áo dài đen, đầu đội mũ vuông bằng da hổ, tay cầm kiếm dài, cùng 6 ông mo phụ ngồi một bên gần quan tài, đối diện với bên kia là thân thích của người đă chết. Ông mo chính bắt đầu hâm mo để các mo phụ đứng lên, tang gia thôi khóc để nghe mo:
-Bố Đá đi cam thương, cam khốn, cam khốn lại cam sầu, cam rầu rầu nước mắt chảy ra…
Giọng ông mo lên bổng, xuống trầm sao mà ai oán. Rứt lời, các bà vợ, con dâu, cháu chắt lại rộ lên tiếng khóc lâm ly, thảm thiết. Cả ngàn người có mặt cùng nghe các ông mo thay nhau kể đoạn cuối “ Cơi tếch, cơi lia” (cơi đứt, cơi ĺa). Các con cháu để tang cho đủ 3 năm, 6 tháng, mặc áo trái hết hạn mới thôi… Nay là ngày tận, việc đêm, mo đă hết.
Ông Mo dứt lời, tiếng trống đồng khùng khùng chậm chạp nổi lên, tấu với cồng chiêng bong bong, bi bi cho đủ 3 hồi, chín tiếng. Rồi cả ngàn người từ các lang đạo cho đến thứ dân, từ trên nhà sàn xuống đến sân, ra đến ngơ xếp thành hàng chuyền tay nâng quan tài Lang Đá. Cùng lúc tiếng khóc của ngàn người cất lên náo động cả núi rừng.
Mười hai người đội vải căng ra làm cầu. 24 thanh niên trai tráng đều buộc dây chuối ở thắt lưng, nghe theo hiệu lệnh mà đứng thứ tự theo vị trí đă được xếp, mắt không rời bát nước đầy đặt trên đ̣n khiêng mà chuẩn bị cất bước. Dọc hai bên đường từ nhà đến nơi mộ huyệt là rất nhiều cây lêu và cờ, phướn bay phấp phới. Đến chân đồi nơi đặt nghĩa địa, chiêng chót phát lệnh đặt áo quan xuống và ông mo làm thủ tục cuối ĺa. Con cháu đi quanh áo quan 3 ṿng theo 3 hồi chiêng. Sau đó chiêng lệnh hồi Một th́ đội phu đặt tay vào quan tài, hồi Hai th́ nâng lên vai, hồi Ba th́ bước lên đồi. Đến lúc này, bát nước đầy đặt trên áo nắp quan tài vẫn không sánh ra ngoài một giọt cho đến nơi hạ huyệt tại đống Rổng mường Vang.
Những ḥn đá (ḥn khụ) cao to bằng người thật được đục đẽo cẩn thận, chạm rồng mây, khắc chữ Nho và khênh lên từ hôm trước được dựng thành hàng rào quanh phần mộ lang Đá. Lúc này chính ngọ ngày 18 tháng 12 năm 1943.
Cuộc đời của vị chánh quan Lang không tai khép lại. Mọi việc diễn ra rồi cũng ch́m vào yên lặng của núi rừng tây Bắc. Đứng trước cảnh sắc mường Vang, ngẫm về cái được và không được, người viết bài thầm mong thế hệ con cháu các quan lang xưa ǵn giữ, phát huy những mặt tích cực để h́nh ảnh đẹp của ḍng quan Lang không lùi sâu vào trong sử sách.
Lê Va
Alert webmaster - Báo webmaster bài viết vi phạm nội quy
|
|
goldsnow142
member
REF: 447155
05/11/2009
|
Quan Tri châu Lạc Sơn và Hoa hậu xứ Mường
Một trong những nỗi buồn của Chánh quan Lang Quách Vị là Quách Hàm - con trai cả của ông làm quan Tri châu Lạc Sơn lại lấy em gái nuôi làm vợ thứ Tư…
Như phần trên đă đề cập, Chánh quan Lang kiêm Tuần phủ tỉnh Ḥa B́nh – Quách Vị có 4 người vợ. Vào năm 1903, bà vợ cả Đinh Thị Yên, sinh 1882, xuất thân ḍng dơi nhà Lang ở mường Bi, hơn ông một tuổi, sinh ra người con trai cả, đặt tên là Quách Hàm. Theo tập tục truyền đời th́ Quách Hàm sẽ thay cha làm lang Cả sau này. Đấy là đối với quy định của Nhà Lang, c̣n việc ra làm quan hay không, c̣n tùy thuộc vào sự học và phấn đấu của bản thân Quách Hàm.
Với tư chất thông minh, thể chất dồi dào, Quách Hàm mỗi lớn, mỗi trưởng thành và mỗi phong độ. Nhất là ông lại được gửi đi học trường Tây ở Hà Nội. Và, mới ngoài 20 tuổi, Quách Hàm đă làm việc ở Tri châu Lạc Sơn. Mỗi lần Quách Hàm lên tỉnh công cán thường nghỉ lại chỗ cha ḿnh là dinh quan Án sát và sau là dinh Tuần phủ. Việc cha ḿnh có một cô con gái nuôi, Quách Hàm biết từ lâu.
Chuyện là, trong dinh Tuần phủ có một gia đ́nh phu bếp, chồng là người Hoa tên là Hà Quốc Trung, vợ là người Việt. Do nghiện thuốc phiện nên người đàn ông này phải bán dần con ḿnh đi để lấy tiền mua thuốc phiện hút. Trong số những người con của họ, ông Quách Vị lúc c̣n là quan Án sát rất quư một cô tên là Hà Thị Tẻo, sinh năm 1917. Ông Quách Vị bỏ ra một số tiền mua cô bé chưa đầy mười tuổi về làm con và đổi họ thành Quách Thị Tẻo.
Quách Thị Tẻo như thể sinh ra để trở thành hoa hậu sứ Mường. Khuôn mặt đẹp, nước da trắng, tư chất thông minh hơn người của cô con gái mang ḍng máu lai Hoa – Việt. Đă thế Tẻo lại được bố nuôi là quan Án sát, rồi quan Tuần phủ chăm bẵm, được học hành và giao tiếp với con cái các quan Tây nên chẳng mấy chốc, cô đă trở thành người con gái xinh đẹp và thời thượng. Bằng với vẻ đẹp trời cho ấy, Quách Thị Tẻo được rất nhiều công tử con quan, con lang và công chức phong lưu để ư, nhưng cô chưa để lọt mắt xanh một ai.
Một dạo, ông Quách Vị thấy con trai trưởng Quách Hàm đang làm việc tại Tri châu Lạc Sơn năng ra tỉnh ngay cả khi không phải công cán. Th́ ra Quách Hàm si mê người em gái nuôi từ lúc nào không biết nữa. Vốn tư chất thông minh lại hào hoa, phong nhă, lang cả Quách Hàm đă từng bước chinh phục cô em gái nuôi nổi tiếng xinh đẹp. Biết được cơ sự này, người cha phản ứng gay gắt, cấm không cho họ quan hệ với nhau.
Thế nhưng, dù là Quan Tuần phủ, Chánh quan Lang, cha đẻ của con trai, cha nuôi của con gái, Quách Vị cũng không thể ngăn cản được t́nh yêu của họ. Năm 1932, khi Quách Thị Tẻo vào tuổi 16, cô đẹp một cách ngơ ngác và đầy quyến rũ. Có người nói: Nàng Tẻo mà ra tắm suối th́ bờ đá cũng phải nở đầy hoa! Cũng năm đó, người cha nuôi Quách Vị đă đưa Tẻo cùng đi vào Triều đ́nh Huế yết kiến vua Bảo Đại.
Thời phong kiến, được dâng lên vua một người con gái đẹp là được nhận một ân sủng, cho dù người con gái ấy là vợ hay là con đẻ của ḿnh. Sau này người ta đồn rằng, chính v́ sự kiện ấy mà Chánh quan Lang tỉnh Mường Ḥa B́nh Quách Vị được vua Bảo Đại ban thưởng áo thụng và mũ cánh chuồn. Vua Bảo Đại c̣n nói vui, đại ư vua ban cho mũ cánh chuồn là để thay cho đôi tai thật mà ông ấy không có.
Những ngày Tẻo kinh lư vào Triều đ́nh Huế cùng bốnuôi, ở nhà Quách Hàm ḷng như lửa đốt. Bổn phận của một quan châu nhiều khi xao nhăng. Quách Hàm mong ngày, mong đêm nàng Tẻo sớm trở về. Thế rồi vào năm 1933, vừa 17 tuổi, Quách Thị Tẻo đăng quang Hoa hậu sứ Mường. Các báo Đông Pháp đồng loạt đăng tin và ảnh về sự kiện này. Và, cũng chính thế, Quách Hàm càng thúc tiến nhanh việc lấy Hoa hậu sứ Mường làm vợ. Phải công nhận sức chinh phục của Quách Hàm là ghê gớm. Dù ông đă có tới 3 người vợ, lại hơn kém nhau 14 tuổi, nhưng Hoa hậu sứ Mường Quách Thị Tẻo đă vượt qua mọi rào cản để đến với quan châu Quách Hàm.
Lúc đầu họ đi chơi với nhau mỗi dịp Quách Hàm lên tỉnh. Sau th́ nàng Tẻo theo Quách Hàm về châu Lạc Sơn. Và họ đă quan hệ với nhau như vợ chồng. Năm 1936, vào tuổi 19, Hoa hậu sứ Mường Quách Thị Tèo chính thức làm vợ thứ Tư của quan Châu Lạc Sơn Quách Hàm.
Lại có một chuyện buồn nhưng đáng để suy ngẫm về duyên phận hay định mệnh như sau:
Quách Hàm có một người em trai là lang Quách Lu. Người lang em này ngỗ ngược, chuyên mặc đồ Tây và ăn chơi sành điệu. Riêng vợ, Quách Lu đă có tới 17 người (sẽ có dịp trở lại với con người này). Mỗi lần từ tri châu về, Quách Hàm thường lấy thế làm anh để bảo ban Quách Lu, nhưng đâu lại vào đấy. Năm 1937, trong một lần hai bên to tiếng, Quách Lu đă cầm súng đuổi bắn Quách Hàm.
V́ bất ngờ, lang anh Quách Hàm chỉ c̣n biết bỏ chạy về nhà. Ở đằng sau, Quách Lu đă đuổi rất gần. Do khuất một lùm cây, Quách Lu không nh́n rơ Quách Hàm. Vừa chạy vào đến sân, thấy vợ ḿnh là Quách Thị Tẻo bụng chửa to, mặc váy dài, rộng, không ngần ngại, Quách Hàm đă chui vào váy vợ mà ẩn nấp. Ngay sau đó Quách Lu, súng lăm lăm trong tay đuổi tới và chạy thẳng lên nhà sàn t́m bắn Quách Hàm. Lợi dụng khi Quách Lu đang t́m ḿnh trên nhà sàn, Quách Hàm đă thoát ra ngoài an toàn.
Cũng lại về chuyện Quách Hàm quyết lấy em nuôi làm vợ dẫn tới việc người cha Quách Vị rất giận. Kể từ khi Quách Vị bị Công sứ Moólơva xúc phạm, từ quan bỏ về ở Đồi Thung, cho đến khi bị ốm nặng cho người khiêng về Chiềng Vang, ông cũng không nói chuyện với con trai cả Quách Hàm. Ngay cả những ngày cuối cùng sắp từ biệt trần gian, con cái, người thân về phục thuốc đầy nhà, Quách Hàm đưa nàng Tẻo và hai con về, Quách Vị cũng chỉ nói chuyện với Quách Thị Tẻo như nói với con gái nuôi ngày xưa.
C̣n đối với Quách Hàm, ông vẫn giận v́ là một quan lang mà đă phá luật lệ nhà Lang, cả gan lấy em gái nuôi làm vợ. Việc tày đ́nh ấy làm muối mặt ông và ḍng dơi lang nhà ông. Nhất là, ông – một Chánh quan lang vừa nghỉ hưu. V́ thế, cho đến lúc chết, người cha Quách Vị vẫn không tha thứ cho con trai cả Quách Hàm.
Cách mạng tháng Tám năm 1945 thành công. Ban Cán sự tỉnh Ḥa B́nh cử ông Quách Hàm làm cố vấn. Đến năm 1946, khi cuộc kháng chiến toàn quốc bùng nổ, ông Quách Hàm được cử làm Chủ tịch Ủy ban hành chính kháng chiến tỉnh Ḥa B́nh. Năm 1954, ḥa b́nh lập lại, ông Quách Hàm nghỉ hưu về quê nhà Mường Vang. Năm 1956, ông bị bệnh rồi mất. Phần mộ của ông hiện ở nghĩa trang ḍng họ Đống Rổng làng Chiềng Vang xă Tân Lập, huyện Lạc Sơn.
Từ một quan Tri Châu, Ông Quách Hàm đă đi theo cách mạng. Trong cuộc kháng chiến chín năm chống thực dân Pháp xâm lược, làm Chủ tịch Ủy ban hành chính kháng chiến, ông đă có công lănh đạo và vận động thế lực lang đạo và dân chúng ủng hộ cách mạng. Chính nhờ vào đóng góp đó, ông được Chính phủ của Chủ tịch Hồ Chí Minh khen ngợi.
Ngày nay, hậu duệ ḍng họ Quách ở Chiềng Vang sống ḥa đồng cùng bà con dân bản. Nhà Cái của họ bây giờ là một ngôi nhà sàn nhỏ do anh Quách Công Phiếm sinh 1963 – chắt đích tôn cụ Quách Vị, cháu đích tôn ông Quách Hàm đang ở và lo thờ tự.
Được đọc sách, được nghe người già kể về đời sống, sinh hoạt của tầng lớp lang đạo người Mường đă nhiều. Nhưng đây là lần đầu tiên tôi được chứng kiến những tấm ảnh gốc về họ Quách mà anh Quách Công Phiếm, cho xem. Theo anh Phiếm, nếu tôi dùng để in báo, th́ đây là lần đầu tiên, những bức ảnh này được công bố. Câu chuyện về gia đ́nh quan Lang ấy đến với tôi như một thiên truyện ngắn với đầy t́nh tiết mâu thuẫn vậy.
Lê Va
|
1
|
Kí hiệu:
:
trang cá nhân :chủ
để đă đăng
:
gởi thư
:
thay đổi bài
:ư kiến |
|
|
|
|