nvdtdnguyen
member
ID 18538
01/04/2007
|
Những vị vua, hoàng đế nổi tiếng(phần 2:Alexandros Đại Đế)
Alexandros Đại Đế (tiếng Hy Lạp: Μέγας Αλέξανδρος, Megas Alexandros; tháng 7 năm 356 TCN – 11 tháng 6 năm 323 TCN), cũng được biết đến như là Alexandros III, là vua của xứ Macedon (336–323 TCN) và được xem là một trong những nhà chỉ huy quân sự thành công nhất trong lịch sử, người đă chinh phục gần như toàn bộ thế giới mà ông biết trước khi chết; ông thường được đứng trong cùng một danh sách với Napoléon Bonaparte, Julius Caesar và Thành Cát Tư Hăn như là một trong những nhà chiến lược quân sự vĩ đại nhất trong lịch sử. Tiếp sau sự thống nhất các thành bang Hy Lạp cổ đại dưới sự cai trị của cha ông, Philip II xứ Macedon, (một việc Alexandros phải lặp lại hai lần v́ các miền phía nam Hy Lạp nổi loạn sau khi Philip chết), Alexandros chinh phục Đế chế Ba Tư, bao gồm cả Anatolia, Syria, Phoenicia, Gaza, Ai Cập, Bactria và Lưỡng Hà và mở rộng biên cương đế chế của ông đến xa tận Punjab. Alexandros thực hiện một chính sách ḥa hợp: ông đưa cả những người ngoại quốc (không phải người Hy Lạp hay người Macedon) vào chính quyền và quân đội của ḿnh, ông khuyến khích hôn nhân giữa quân của ḿnh với người nước ngoài và chính ông cũng lấy vợ ngoại quốc.
Sau mười hai năm liên tục tổ chức các chiến dịch quân sự, Alexandros chết, có lẽ là do sốt rét, thương hàn, hay viêm năo do virút. Những cuộc chinh phạt của ông mở đầu cho nhiều thế kỉ định cư và thống trị của người Hy Lạp trên nhiều vùng đất xa xôi, một giai đoạn được gọi là thời kỳ Hy Lạp hóa. Bản thân Alexander sống trong lịch sử và trong các truyền thuyết của các nền văn hóa Hy Lạp và không Hy Lạp. Ngay khi ông c̣n sống, và đặc biệt sau khi ông chết, những cuộc chinh phạt của ông đă là nguồn cảm hứng của một truyền thống văn học mà trong đó ông xuất hiện như là một anh hùng huyền thoại theo truyền thống của Achilles.
Alexandros Đại Đế
tháng 7, 356 TCN–11 tháng 6, 323 TCN
Alexander Đại Đế đấu với vua Ba Tư Darius III
(Tranh khảm gốm Alexander t́m thấy tại Pompeii, theo nguyên gốc từ một bức tranh Hy Lạp thế kỉ 3 TCN, nay thất lạc)
Nơi sinh: Pella, Macedon
Nơi mất: Babylon
_______________Thời thơ ấu______________
Alexandros Đại Đế là con của Vua Philip II xứ Macedon và người vợ thứ tư, công chúa Olympias xứ Epirote. Theo như Plutarch (Alexander 3.1,3), Olympias không phải thụ thai bởi Philip, người sợ hăi bà, v́ bà thích ngủ với rắn, nhưng bởi Zeus Ammon. Plutarch kể rằng cả Philip và Olympias đều mơ đến sự ra đời trong tương lai của con trai họ. Olympias mơ một tiếng sấm lớn và một tia sét đánh vào tử cung của bà. Trong giấc mơ của Philip, ông che tử cung của bà bằng tấm da của một con sư tử. Báo động bởi điều này, ông hỏi ư kiến nhà tiên tri Aristander xứ Telmessus, người xác định vợ ông sẽ có thai và đứa trẻ sẽ mang tính cách một con sư tử.
Aristotle là thầy của Alexander và đă huấn luyện Alexander về mọi mặt như thuật hùng biện và văn học và gợi lên các sở thích của cậu ta trong khoa học, y khoa và triết học. Sau khi viếng thăm Oracle xứ Ammon tại Siwa, theo như năm sử gia cổ đại (Arrian, Curtius, Diodorus, Justin và Plutarch), lan đi những lời đồn là Oracle đă tiết lộ cha của Alexander là Zeus, chứ không là Philip. Theo như Plutarch, cha ông là hậu duệ của Heracles qua Caranus và mẹ là hậu duệ của Aeacus thông qua Neoptolemus và Achilles. Aristotle đưa cho cậu ta một bản Iliad mà cậu luôn giữ và đọc thường xuyên.
__________________Lên ngôi ở Macedon___________________
Khi Philip lănh đạo cuộc tấn công vào Byzantium năm 340 TCN, Alexander, tuổi 16, được để lại như là quan chấp chính của Macedonia. Vào năm 339 TCN, Philip lấy người vợ thứ năm, Cleopatra Eurydice xứ Macedon. V́ mẹ của Alexander, Olympias, là người từ Epirus (một vùng đất thuộc phần phía tây của bán đảo Hy Lạp và không phải là một phần của Macedon), và Cleopatra là một người Macedonian chính gốc, điều này đă dẫn đến tranh căi về quyền nối ngôi hợp pháp của Alexander. Attalus, chú của cô dâu, được kể là nâng ly trong tiệc cưới để chúc cho lễ thành hôn sẽ sản sinh ra một người nối ngôi hợp pháp của xứ Macedon; Alexander hất cốc rượu vào Attalus nạt lớn "Thế th́ ta là ǵ, một đứa con bất hợp pháp à?" Cha của Alexander hiển nhiên đă rút gươm ra và tiến về phía Alexander, nhưng bị ngă v́ quá say. Alexander nhận xét "Đây là người đàn ông dự định chinh phục từ Hy Lạp đến châu Á, và ông ta không thể di chuyển nổi từ bàn này sang bàn khác." Alexander, mẹ và em gái (cũng tên là Cleopatra) sau đó bỏ Macedon đi trong giận dữ.
Cuối cùng Philip giảng ḥa với con trai, và Alexander quay trở lại nhà; Olympias và em gái của Alexander vẫn ở lại Epirus. Vào năm 338 TCN Alexander giúp cha trong trận quyết định Trận đánh Chaeronea chống lại các thành phố Hy Lạp tự trị Athena và Thebes, cánh do đội kỵ binh dẫn đầu bởi Alexander đă tiêu diệt Đoàn quân thánh chiến Thebes, một lực lượng tinh nhuệ được xem là bất khả chiến bại. Sau trận đánh, Phillip tổ chức ăn mừng trọng thể, và đáng để ư là Alexander không tham dự (người ta tin rằng anh đang chăm sóc thương binh và chôn cất tử sỹ, của quân đội anh và của kẻ thù). Philip bằng ḷng tước quyền thống trị của Thebes đối với Boeotia và để lại một đội quân đồn trú trong thành. Một vài tháng sau, để gia cố sự thống trị của Macedon đối với các thành phố Hy Lạo tự trị, Hiệp hội Corinth được thành lập.
Năm kế tiếp, (335 TCN), Alexander cảm thấy tự do tiến đánh Thracia và Illyria để bảo vệ Danube như là biên giới phương bắc của Vương quốc Macedonia. Trong khi anh đang chinh phạt phía bắc một cách thắng lợi, người Thebes và Athena lại nổi dậy một lần nữa. Alexander phản ứng lập tức và trong khi các thành phố khác lại một lần nữa do dự, Thebes lần này quyết định chống trả cật lực nhất. Sự chống trả là vô ích; cuối cùng, thành phố bị chinh phục với nhiều máu đổ. Người Thebes chịu số phận thê thảm hơn khi thành phố bị đốt trụi và lănh thổ bị chia ra giữa các thành phố Boeotian khác. Hơn nữa, tất cả các công dân của thành phố bị bán thành nô lệ, chỉ chừa lại các thầy tu, các lănh tụ của các đảng ủng hộ Macedonian và hậu duệ của Pindar, người mà nhà không bị đụng chạm đến. Kết cục của Thebes làm Athena sợ hăi mà đầu hàng và sẵn sàng chấp nhận yêu sách của Alexander cho lưu đày các lănh tụ của đảng chống lại Macedonia, Demosthenes là người đầu tiên.
_____________Giai đoạn của các cuộc chinh phạt_____________
-----------Sự sụp đổ của Đế chế Ba Tư--------------
Bản đồ của đế chế của Alexander
Quân của Alexander đă vượt qua Hellespont với khoảng 42,000 binh sỹ - chủ yếu là người Macedonia[4] và Hy Lạp, đa phần là từ các thành phố tự trị phía nam Hy Lạp, nhưng cũng có bao gồm một số người Thracia, Paionia và Illyria. Sau một chiến thắng khởi đầu chống lại lực lượng Ba Tư tại Trận đánh Granicus, Alexander chấp nhận sự đầu hàng của thủ phủ tỉnh Ba Tư và ngân khố của Sardis và tiếp tục tiến xuống bờ biển Ionia. Tại Halicarnassus, Alexander đă thành công trong việc tổ chức những cuộc bao vây đầu tiên, cuối cùng buộc đối phương, thuyền trưởng đánh thuê Memnon xứ Rhodes và các satrap (thống đốc) Ba Tư của Caria, Orontobates, phải rút lui bằng đường biển. Alexander trao Caria cho Ada, người từng là nữ hoàng xứ Caria trước khi bị chiếm ngôi bởi người em trai là Pixodarus. Từ Halicarnassus, Alexander tiến vào vùng núi Lycia và đồng bằng Pamphylia, khẳng định chủ quyền trên tất cả các thành phố ven biển và từ chối quyền đó cho kẻ thù của ông. Từ Pamphylia trở đi, bờ biển không c̣n cảng lớn nào và do đó Alexander di chuyển vào trong lục địa. Tại Termessus, Alexander khiêm tốn nhưng không ập vào thành phố Pisidia. Tại thủ đô cổ đại Phrygia của xứ Gordium, Alexander "tháo" nút thắt Gordian Knot, một thách thức được nói là chờ cho vị "vua châu Á" trong tương lai. Theo một câu chuyện sinh động nhất, Alexander nói rằng không cần biết làm thế nào nút thắt được mở ra, và ông cắt nó bằng thanh gươm. Một dị bản khác nói ông đă không dùng gươm, nhưng thực sự đă t́m ra cách mở nút.
Alexander Mosaic, cho thấy Trận đánh Issus, ở Pompei
Quân của Alexander băng qua Cổng Cilician, chạm phải và đánh bại quân chủ lực của Ba Tư dưới sự chỉ huy của Darius III trong Trận đánh Issus vào năm 333 TCN. Darius tháo chạy khỏi trận đánh trong hoảng loạn bỏ lại vợ, hai con gái, mẹ già, và phần lớn của cải cá nhân. Sisygambis, mẹ của hoàng hậu, không bao giờ tha thứ Darius đă bỏ rơi con gái bà. Bà chối bỏ Darius và nhận Alexander như là con rể. Tiến xuống bờ biển Địa Trung Hải, anh lấy được Tyre và Gaza sau những trận vây hăm nổi tiếng (xem Cuộc bao vây Tyre). Alexander đi ngang qua gần đó nhưng có lẽ không ghé vào Jerusalem.
Vào năm 332 TCN – 331 TCN, Alexander được chào đón như là người giải phóng ở Ai Cập của thời Ptolemy và được công nhận là con trai của Zeus bởi các tu sỹ Ai Cập thờ thần Ammon tại Đền thờ thần ở Ốc đảo Siwa trong sa mạc ở Libya. Từ đó trở về sau, Alexander nhắc đến thần Zeus-Ammon như là cha thật sự của ḿnh, và sau đó đồng tiền có h́nh ông với sừng cừu như là chứng minh cho niềm tin phổ biến này. Ông thành lập thành phố Alexandria ở Ai Cập, sau đó trở thành một kinh đô phồn vinh của triều đại Ptolemy sau khi ông qua đời. Rời khỏi Ai Cập, Alexander hành quân về phía đông vào vùng Assyria (bây giờ là bắc Iraq) và đánh bại Darius và quân đội Ba Tư thứ ba tại Trận đánh Gaugamela. Darius buộc phải bỏ chạy sau khi người lái chiến xa của ông ta bị giết, và Alexander đuổi theo ông ta xa đến tận Arbela. Trong khi Darius chạy về vùng núi về phía Ecbatana (nay là Hamadan), Alexander tiến về thành Babylon.
Từ Babylon, Alexander đi đến Susa, một trong những thủ đô Achaemenid, và chiếm được kho báu. Gửi đi toàn bộ quân lính đến Persepolis, thủ đô Ba Tư, bằng Đường Hoàng gia, Alexander ập vào và chiếm được Cổng Ba Tư (vùng nay là Dăy núi Zagros), sau đó đánh vào Persepolis trước khi kho báu ở đó có thể bị cướp phá. Alexander cho phép lực lượng liên hợp cướp phá Persepolis. Một ngọn lửa lớn bùng cháy ở dinh thự phía đông của Xerxes và lan đi khắp thành phố. Không ai biết việc đốt cháy Athenian Acropolis là một tai nạn do say rượu hay là một hành động trả thù cố ư trong Chiến tranh Ba Tư lần hai. Cuốn Sách của Arda Wiraz, một tác phẩm Zoroastrian được viết ra vào thế kỉ thứ 3 hay 4, cũng nói về những thư viện lưu trữ chứa đựng "tất cả Avesta và Zand, được viết trên những tấm da ḅ đă thuộc, với mực mạ vàng" đă bị thiêu hủy; nhưng những câu như vậy thường bị nghi ngờ bởi các học giả, bởi v́ nói chung là người ta nghĩ rằng qua nhiều thế kỉ Avesta chủ yếu được truyền khẩu bởi những người Magia.
Anh sau đó đuổi theo và bắt được Darius, ông này sau bị giết bởi những đồ đệ của Bessus, thống đốc vùng Bactria và cũng là một người bà con. Bessus sau đó tự tuyên bố là người kế vị của Darius như là Artaxerxes V và rút lui vào vùng Trung Á để tiến hành chiến tranh du kích đánh lại Alexander. Với cái chết của Darius, Alexander tuyên bố cuộc chiến trả thù đă chấm dứt, và giải thể quân Hy Lạp và các đồng minh khác trong chiến dịch Đồng minh (mặc dù anh cho phép những ai muốn th́ tái đăng kí như là lính đánh thuê trong quân đội hoàng gia của anh ta).
Chiến dịch ba năm của Alexander ban đầu là chống lại Darius và sau đó là các satrap (thống đốc) của các vùng Sogdiana, Spitamenes, đă đưa anh qua các vùng Media, Parthia, Aria, Drangiana, Arachosia, Bactria và Scythia. Trong quá tŕnh đó, anh chiếm được và tái thiết lập Herat và Maracanda. Hơn nữa, anh lập ra một chuỗi các thành phố mới, tất cả đều gọi là Alexandria, bao gồm cả Kandahar ngày nay ở Afghanistan, và Alexandria Eschate ("Xa nhất") ở vùng nay là Tajikistan. Cuối cùng cả hai đều bị phản lại bởi tay chân thân cận của của họ, Bessus vào năm 329 TCN và Spitamenes năm sau đó.
------------------Những sự chống đối Alexander----------------
Trong thời gian này, Alexander cho phổ biến một số loại áo quần và phong tục Ba Tư trong triều đ́nh của anh, đáng chú ư là phong tục proskynesis, một cách hôn tay tượng trưng mà người Ba Tư thường làm để tỏ ḷng kính trọng với những người có địa vị xă hội cao hơn, nhưng phong tục này không được người Hy Lạp chấp thuận. Những người Hy Lạp cho là cử chỉ này được dành riêng cho các thần linh và tin rằng Alexander tự thần thánh hóa chính anh ta bằng cách yêu cầu cử chỉ đó. Điều này đă làm giảm sút sự thông cảm đáng kể đối với anh ta trong những người cùng quê hương. Nơi này cũng diễn ra một vụ mưu sát anh nhưng bị bại lộ, và một trong những sỹ quan, Philotas, bị xử tử v́ tội phản bội v́ đă không báo lên âm mưu đó kịp thời. Parmenion, cha của Philotas, người là đứng đầu một quân đoàn tại Ecbatana, bị ám sát theo lệnh của Alexander, người sợ rằng Parmenion có thể trả thù cho con trai. Một số cuộc xử án khác về tội phản bội theo sau đó, và nhiều người Macedonia bị xử tử. Sau đó, trong một trận căi nhau lúc say rượu tại Maracanda, anh cũng giết một người đàn ông đă cứu sống anh tại Granicus, Clitus Đen. Sau đó trong chiến dịch Trung Á, một vụ mưu sát Alexandre thứ hai được khám phá, lần này là bởi những người hầu cận của anh, và sử gia chính thức của anh, Callisthenes xứ Olynthus (người đă bị thất sủng v́ đă dẫn đầu trong việc chống lại việc giới thiệu phong tục proskynesis), bị xử là liên đới chủ mưu và nhiều sử gia cho rằng đây là những vu cáo. Tuy nhiên, các chứng cứ khá rơ là Callisthenes, thầy của các người hầu cận, phải là người dụ dỗ họ ám sát nhà vua.
-----------Xâm lược Ấn Độ----------------
Sau cái chết của Spitamenes và đám cưới của anh với Roxana (Roshanak trong tiếng Bactrian) để củng cố quan hệ mới thiết lập với các tiểu vương vùng Trung Á, vào năm 326 TCN Alexander cuối cùng rảnh tay để quay sự chú ư về phía Ấn Độ. Alexander cho mời tất cả các thủ lĩnh của vùng trước là tiểu vương quốc xứ Gandhara, về phía bắc của vùng nay là Pakistan, đến gặp anh và chấp nhận đầu hàng. Ambhi, người cai trị xứ Taxila, với vương quốc trải dài từ Indus đến tận Hydaspes (Jhelum), tuân theo. Nhưng thủ lĩnh của một số bộ tộc vùng cao bao gồm các phần Aspasios và Assakenois của Kambojas (tên cổ), được biết trong sử sách Ấn Độ như là Ashvayana và Ashvakayana (những cái tên chỉ bản chất cưỡi ngựa của họ), từ chối không đầu hàng.
Alexander thân chinh thống lĩnh lính cầm khiên, bộ binh, lính bắn cung người Agriania và lính cưỡi ngựa phóng lao tấn công bộ lạc Kamboja -- người Aspasios của thung lũng Kunar/Alishang, người Guraean của thung lũng Guraeus (Panjkora), và người Assakenois ở thung lũng Swat và Buner. Một trận đánh khốc liệt với người Aspasios và chính Alexander bị trọng thương nơi vai v́ trúng lao nhưng cuối cùng người Aspasios thua trận; 40.000 người của họ bị bán thành nô lệ. Người Assakenois đối đầu Alexander với quân đội bao gồm 30.000 kị binh, 38.000 bộ binh và 30 voi[5]. Họ đă chiến đấu dũng cảm và kháng cự ngoan cường chống lại quân xâm lược trong nhiều địa điểm cố thủ ở các thành phố Ora, Bazira và Massaga. Đồn Massaga chỉ bị hạ sau nhiều ngày đánh nhau đẫm máu và chính Alexander bị thương ở cổ chân. Khi thủ lĩnh của Massaga ngă xuống trên chiến trường, quyền tổng tư lệnh vào tay bà mẹ già của ông ta Cleophis (q.v.) người cũng cương quyết bảo vệ đất mẹ đến hơi thở cuối cùng. Việc Cleophis giữ quyền tổng chỉ huy quân đội đă đưa toàn bộ lực lượng phụ nữ địa phương vào chiến trận[6]. Alexander chỉ có thể hạ được Massaga bằng cách sử dụng các âm mưu chính trị và nội phản. Theo như Curtius: "Alexander không chỉ thảm sát toàn bộ dân thành Massaga, nhưng ông ta c̣n phá hủy các ṭa nhà thành những đống đổ nát." Một cuộc thảm sát tương tự diễn ra tại Ora, một địa điểm pḥng thủ khác của người Assakenois.
Sau những cuộc thảm sát và đốt phá bởi Alexander ở Massaga và Ora, rất nhiều người Assakenois chạy lên một đồn cao gọi là Aornos. Alexander đuổi sát theo họ và chiếm được đồn trên đồi cao nhưng chỉ sau bốn ngày đánh nhau ác liệt. Câu chuyện của Massaga được lặp lại ở Aornos và sự tàn sát người bộ lạc diễn ra tương tự sau đó.
Viết về chiến dịch của Alexander chống lại người Assakenois, Victor Hanson nhận xét: "Sau khi hứa hẹn những người Assacenis xung quanh rằng họ sẽ được tha mạng khi bị bắt, ông xử tử tất cả lính đă đầu hàng. Các điểm pḥng thủ của họ ở Ora và Aornus cũng bị đánh ập vào. Các quân đoàn đóng trong đó có lẽ đều bị thảm sát.”[7]
Sisikottos, người đă giúp Alexander trong chiến dịch này, được phong làm thống đốc của Aornos.
Sau khi hạ được Aornos, Alexander băng qua Indus và đánh và thắng trận lịch sử chống lại Porus, vua của xứ đó trong vùng Punjab trong Trận đánh Hydaspes vào năm 326 TCN.
Sau chiến thắng này, Porus đă gây được ấn tượng mạnh mẽ với Alexander về sự dũng cảm trong chiến đấu, v́ vậy liên minh được với Alexander và được ông cho giữ chức phó vương, cai quản vương quốc của chính ḿnh, thậm chí c̣n thêm một số vùng đất khác nữa. Alexander đặt tên cho một trong hai thành phố mới mà ông ta t́m được là Bucephala, tên của con ngựa đă đưa ông đến Ấn Độ. Alexander tiếp tục chinh phục toàn bộ vùng thượng nguồn sông Indus.
Phía Đông của vương quốc Porus, gần sông Ganges, là đế chế hùng mạnh Magadha dưới sự cai trị của triều đại Nanda. Lo sợ về khả năng phải đối mặt với một đội quân Ấn Độ hùng mạnh khác nữa và kiệt sức bởi nhiều năm chinh chiến, quân đội của ông nổi loạn ở sông Hyphasis (nay là Beas), không muốn chiến đấu tiếp nữa:
"Về phần người dân Macedonia, dẫu sao, cuộc chiến với Porus làm mài ṃn ḷng dũng cảm của họ và ngăn cản họ tiến xa hơn vào Ấn Độ. Thay v́ làm tất cả những ǵ có thể để đẩy lùi kẻ thù với quân số chỉ có 20000 bộ binh và 2000 chiến mă, họ lại kịch liệt chống lại Alexander khi ông khăng khăng đ̣i vượt qua sông Ganges, mà họ biết rộng 32 Fulông, sâu 100 sải, trong khi các nhánh sông phía bên kia được mai phục bởi vô số bộ binh, kỵ sĩ và voi. Họ được báo rằng các vị vua của Ganderites và Praesii đang đợi họ với 80000 kỵ sĩ, 200000 lính đánh bộ, 8000 xe ngựa và 6000 voi thiện chiến." Theo Plutarch, Vita Alexandri, 62
Alexander, sau khi bàn bạc với các cố vấn Coenus, bị thuyết phục quay trở lại. Alexander buộc phải trở về phía nam. ông gửi phần lớn quân đến Carmania (hiện thuộc phía nam Iran) với tướng Craterus, và giao nhiệm vụ thăm ḍ vịnh Persian dưới quyền của đô đốc Nearchus, trong khi ông dẫn đoàn quân c̣n lại về bằng con đường phía nam qua Gedrosia (ngày nay là Makran phía nam Pakistan).
----------Sau Ấn Độ------------
Phát hiện rằng rất nhiều phó vương và thủ lĩnh các đội quân của ông cư xử không đứng đắn khi ông vắng mặt, Alexander cho hành h́nh rất nhiều người trong số họ làm gương trên đường đến Susa. Để biểu lộ thiện chí, ông ban thưởng cho binh lính và thông báo rằng ông sẽ gửi những người lính già và tàn tật về Macedonia dưới quyền của Craterus, nhưng quân đội hiểu nhầm ư định của ông và nổi dậy ở thị trấn của Opis, từ chối bị gửi đi và chỉ trích cay độc việc chấp nhận phong tục, trang phục của người Persia và sự gia nhập của lính Persia vào đoàn quân Macedonia. Alexander cho hành quyết những kẻ cầm đầu cuộc nổi loạn, nhưng tha tội cho binh lính. Với dự định thiết lập mối giao hảo lâu dài giữa những người Macedonia và người Persia, ông tổ chức hàng loạt hôn lễ giữa các sĩ quan của ông và người Persia và cả những phụ nữ quư tộc Susa, nhưng rất hiếm cuộc hôn nhân nào kéo dài được hơn 1 năm.
Nỗ lực nhằm ḥa hợp nền văn hóa Persia với những người lính Hi Lạp của ông c̣n thể hiện ở việc huấn luyện một đội quận gồm những chàng trai Persia theo cách của người Macedonia. Không có ghi chép chắc chắn về việc Alexandros chấp nhận cách gọi vua của người Persia shahanshah ("vị vua vĩ đại" hay "vị vua của các vị vua"). Tuy nhiên, hầu hết các sử gia đều tin rằng ông đă chấp nhận việc đó.
Có giả thiết là Alexandros đă muốn xâm chiếm hoặc nhập với bán đảo Ả Rập, nhưng giả thiết này vẫn c̣n đang được tranh căi. Có người cho rằng Alexandros đă tiến về phía tây và tấn công Carthage và Italy thay v́ chiếm Ả Rập.
Sau hành tŕnh đến Ecbatana để lấy lại phần lớn của cải của Persia, người bạn thân nhất và được ông yêu mến đă chết v́ bệnh tật. Alexandros quẫn trí, mắc bệnh và mất trên đường trở về Babylon
Alexander và Porus Charles Le Brun, 1673.
__________________ĐỜI TƯ_________________
Sự gắn bó sâu sắc nhất về t́nh cảm của Alexandros hầu như được cho là đối với người đồng hữu, người chỉ huy đội kị binh (chiliarchos) và là người bạn từ thời thơ ấu của ông, Hephaestion. Ông học cùng Alexandros, như một nhóm trẻ em con nhà quư tộc khác ở Macedonia, dưới sự dạy dỗ của Aristotle. Hephaestion đánh dấu sự xuất hiện đầu tiên trong lịch sử của ḿnh vào thời điểm Alexandros tiến đến Troy. Tại đây hai người bạn đă hi sinh tại các đền thờ của hai vị anh hùng Achilles và Patroclus; Alexander tại đền thờ Achilles, và Hephaestion tại đền thờ Patroclus. Aelian trong cuốn Varia Historia (12.7) khẳng định rằng Hephaestion "tiết lộ ông là eromenos ["người t́nh"] của Alexandros, như Patroclus đối với Achilles vậy."
Một số nhà sử học đă đặt nghi vấn về khẳng định về mối quan hệ đồng tính giữa Alexandros và Hephaestion. Robin Lane Fox viết rằng tuy "những lượm lặt gần đây nhất cho khẳng định rằng Alexandros có mối quan hệ yêu đương với Hephaiston", không có văn kiện lịch sử đương thời nào nói về vấn đề này. Tuy nhiên, Fox nói thêm, "sự thực là t́nh bạn của hai người đàn ông này sâu sắc và thân thiết một cách khác thường." V́ cái chết của Hephaestion, Alexandros khóc thương cho ông ta rất nhiều, và không ăn uống ǵ trong mấy ngày liền.
Lúc Alexandros chết
Tượng đài Alexandros
Alert webmaster - Báo webmaster bài viết vi phạm nội quy
|
|
nvdtdnguyen
member
REF: 115372
01/04/2007
|
Tuổi thơ không êm đềm của đại đế Alexander
Mặc dầu Alexander đă tiếp nhận được rất nhiều điều bổ ích từ người cha, nhưng do t́nh trạng gia đ́nh bất ḥa, nên giữa Alexander với cha luôn có một t́nh cảm bất măn rất phức tạp. Những mâu thuẫn của vua và hoàng hậu đă để lại một vết hằn trong tính cách của ông.
Hầu hết mọi người đều cho rằng, đại đế Alexander là một trong rất ít các hoàng đế thời cổ đại, đă được tiếp nhận một sự giáo dục và huấn luyện chuyên môn để giữ vai tṛ thống trị cho một đế quốc. Dưới sự sắp xếp của người cha, ngay từ năm ông vừa 13 tuổi đă theo học với Aristotle, một đại học giả nổi tiếng người Hy Lạp, nên nhận được sự hun đúc của nền văn hóa cổ điển Hy Lạp. Ông từng học các môn triết học, lư luận học, thực vật học, động vật học, y học, địa lư học, nhất là ông rất thích đọc Sử thi của Homerơ (Homeric Hymns). Ông rất sùng bái và luôn học hỏi theo sự nghiệp vĩ đại của người anh hùng Achilles. Alexander rất say mê nghiên cứu và luyện tập binh pháp. Từ năm 16 tuổi trở đi, ông đă bắt đầu theo cha ḿnh đi chinh chiến, học hỏi cách bố trận và chỉ huy quân đội. Năm 18 tuổi, ông tham gia chiến dịch Chaeronea. Ông chỉ huy đạo quân cánh trái của Macedon đánh bại quân đoàn thần thánh Thebes từng nổi tiếng một thời, qua đó ông đă thể hiện được tài năng quân sự xuất chúng.
Sau khi Alexander chào đời không bao lâu, mối quan hệ giữa cha mẹ ông ngày càng phai nhạt. Mẹ ông, bà Plympias là một người đàn bà có cá tính nóng nảy khác thường, nhất là bà rất say mê ma thuật phù thủy mang tính chất huyền bí của tôn giáo. Theo lời đồn đại, trong việc hoạt động mang tính chất tôn kính thần linh bà c̣n sử dụng những con rắn do bà nuôi dưỡng. Những thắng lợi và danh dự mà chồng bà đă giành được trong các cuộc chinh chiến, làm cho bà cảm thấy ganh tỵ, nên luôn có thái độ chống đối. Thái độ ganh tỵ đó đă có ảnh hưởng rất nhiều đến Alexander.
Ngay từ thời thơ ấu, Alexander đă có cá tính tự cao tự đại, thích lập những chiến công to lớn, tỏ ra rất ngang ngược, không xem ai ra ǵ. Alexander luôn ôm ấp giấc mơ chinh phục thế giới để lấy đó làm niềm hănh diện cho ḿnh. Nhà sử học cổ của Hy Lạp là Plutarch trong trước tác của ông có nói: Cứ mỗi khi nhận được tin vua Philip II chiếm được một ngôi thành hoặc đánh thắng một trận lớn, Alexander chẳng những không tỏ ra vui mừng mà trái lại, ông đă nói với những người chung quanh: “Này anh em, cha ta đă giành hết mọi công việc, không chừa lại một việc quan trọng nào để cho chúng ta cùng nhau thực hiện”.
Khi vua Philip II cưới người con gái Macedon là Cleopatra về làm vợ thứ hai như thói quen của các nhà vua khác thời bấy giờ, th́ Alexander và bà mẹ Olympias đă bộc lộ sự xung đột công khai với vua Philip II.
Mùa hè năm 336 TCN, vua Philip II bị ám sát chết ngay trong buổi tiệc cưới của người con gái. Có người bảo Plympias có khả năng đă tham gia vào sự kiện này. Bà ta đă kiên quyết chủ trương cử hành lễ tang cho người thích khách cũng long trọng ngang hàng như lễ tang của vua Philip II.
Sau khi cha chết, Alexander lên nối ngôi, khi ấy ông mới 20 tuổi.
|
|
nvdtdnguyen
member
REF: 115373
01/04/2007
|
Tuổi thơ không êm đềm của đại đế Alexander
Mặc dầu Alexander đă tiếp nhận được rất nhiều điều bổ ích từ người cha, nhưng do t́nh trạng gia đ́nh bất ḥa, nên giữa Alexander với cha luôn có một t́nh cảm bất măn rất phức tạp. Những mâu thuẫn của vua và hoàng hậu đă để lại một vết hằn trong tính cách của ông.
Hầu hết mọi người đều cho rằng, đại đế Alexander là một trong rất ít các hoàng đế thời cổ đại, đă được tiếp nhận một sự giáo dục và huấn luyện chuyên môn để giữ vai tṛ thống trị cho một đế quốc. Dưới sự sắp xếp của người cha, ngay từ năm ông vừa 13 tuổi đă theo học với Aristotle, một đại học giả nổi tiếng người Hy Lạp, nên nhận được sự hun đúc của nền văn hóa cổ điển Hy Lạp. Ông từng học các môn triết học, lư luận học, thực vật học, động vật học, y học, địa lư học, nhất là ông rất thích đọc Sử thi của Homerơ (Homeric Hymns). Ông rất sùng bái và luôn học hỏi theo sự nghiệp vĩ đại của người anh hùng Achilles. Alexander rất say mê nghiên cứu và luyện tập binh pháp. Từ năm 16 tuổi trở đi, ông đă bắt đầu theo cha ḿnh đi chinh chiến, học hỏi cách bố trận và chỉ huy quân đội. Năm 18 tuổi, ông tham gia chiến dịch Chaeronea. Ông chỉ huy đạo quân cánh trái của Macedon đánh bại quân đoàn thần thánh Thebes từng nổi tiếng một thời, qua đó ông đă thể hiện được tài năng quân sự xuất chúng.
Sau khi Alexander chào đời không bao lâu, mối quan hệ giữa cha mẹ ông ngày càng phai nhạt. Mẹ ông, bà Plympias là một người đàn bà có cá tính nóng nảy khác thường, nhất là bà rất say mê ma thuật phù thủy mang tính chất huyền bí của tôn giáo. Theo lời đồn đại, trong việc hoạt động mang tính chất tôn kính thần linh bà c̣n sử dụng những con rắn do bà nuôi dưỡng. Những thắng lợi và danh dự mà chồng bà đă giành được trong các cuộc chinh chiến, làm cho bà cảm thấy ganh tỵ, nên luôn có thái độ chống đối. Thái độ ganh tỵ đó đă có ảnh hưởng rất nhiều đến Alexander.
Ngay từ thời thơ ấu, Alexander đă có cá tính tự cao tự đại, thích lập những chiến công to lớn, tỏ ra rất ngang ngược, không xem ai ra ǵ. Alexander luôn ôm ấp giấc mơ chinh phục thế giới để lấy đó làm niềm hănh diện cho ḿnh. Nhà sử học cổ của Hy Lạp là Plutarch trong trước tác của ông có nói: Cứ mỗi khi nhận được tin vua Philip II chiếm được một ngôi thành hoặc đánh thắng một trận lớn, Alexander chẳng những không tỏ ra vui mừng mà trái lại, ông đă nói với những người chung quanh: “Này anh em, cha ta đă giành hết mọi công việc, không chừa lại một việc quan trọng nào để cho chúng ta cùng nhau thực hiện”.
Khi vua Philip II cưới người con gái Macedon là Cleopatra về làm vợ thứ hai như thói quen của các nhà vua khác thời bấy giờ, th́ Alexander và bà mẹ Olympias đă bộc lộ sự xung đột công khai với vua Philip II.
Mùa hè năm 336 TCN, vua Philip II bị ám sát chết ngay trong buổi tiệc cưới của người con gái. Có người bảo Plympias có khả năng đă tham gia vào sự kiện này. Bà ta đă kiên quyết chủ trương cử hành lễ tang cho người thích khách cũng long trọng ngang hàng như lễ tang của vua Philip II.
Sau khi cha chết, Alexander lên nối ngôi, khi ấy ông mới 20 tuổi.
|
|
nvdtdnguyen
member
REF: 115374
01/04/2007
|
Đại đế Alexander dưới cái bóng của cha
Trong suốt quá tŕnh cai trị, vua Philip II đă dốc hết tâm trí để đào tạo cho người thừa kế là Alexander, con trai của ông. Nhà vua đă đào tạo ra một minh tinh vĩ đại để đóng vai chính cho vở kịch lịch sử được tŕnh diễn lúc bấy giờ.
Thành phố Alexander mang tên vị đại đế của vương triều Marcedon là thành phố thứ hai và là hải cảng lớn nhất của Ai Cập. Tọa lạc về phía Tây của khu đồng bằng sông Nile, sát bờ biển Địa Trung Hải với phong cảnh xinh đẹp, lúc nào người ta cũng nghe tiếng ŕ rầm của những đợt sóng biển vỗ vào bờ ở thành phố này. Thành phố này có di chỉ của ngọn đèn biển trên đảo Faros mà thời bấy giờ được xem là một trong bảy kỳ quan của thế giới. Ngoài ra, nó c̣n có rất nhiều cổ thích và những khu phong cảnh đẹp nổi tiếng.
Mặc dù thành phố tọa lạc tại bờ biển Phi châu, nhưng nó lại có danh xưng và quốc dáng của một thành phố kiểu Âu châu. Chính nó được đại đế Alexander của nước Macedon – Greece dựng lên cách nay hơn 2.000 năm.
Đại đế Alexander là vị Quốc vương thứ 14 của vương triều Argad nước Macedon cổ đại. Ông là một nhà quân sự đồng thời cũng là một nhà chính trị kiệt xuất trong thời đại đó. Năm 356 trước công nguyên, Alexander sinh ra tại Pella (nay nằm về phía tây bắc Thessaloniki thuộc vùng phía bắc của Hy Lạp). Ông là một thanh niên đẹp trai, có thân h́nh vạm vỡ, có ư chí kiên cường, trí tuệ và ḷng dũng cảm hơn hẳn mọi người. Cha ông là Philip II (tại vị từ năm 359 đến 336 trước công nguyên) là một nhà vua hùng tài đại lược, hăng hái tiến hành việc đổi mới, trở thành một nhà vua có nhiều công trạng trong lịch sử của Macedon. Mẹ ông là Olympias, nguyên là công chúa của người Epirus Molossian. Trong thời thơ ấu, Alexander đă chịu ảnh hưởng sâu đậm của cả cha lẫn mẹ.
Từ lâu Macedon vẫn là một địa phương thuộc vùng biên cương hẻo lánh của Hy Lạp, nằm về phía bắc của bán đảo Hy Lạp, nơi có nhiều đồi núi. Người Macedon nguyên là đồng tộc với người Hy Lạp. Trong thời cổ đại, khi các chi của người Hy Lạp cùng kéo nhau tiến xuống phía nam của bán đảo, th́ người Macedon vẫn ở yên tại khu vực phía bắc. Do tŕnh độ phát triển xă hội tương đối thấp, nên họ bị người Hy Lạp xem là “man tộc”.
Khoảng 700 năm trước Công nguyên, gia tộc Agread bắt đầu xây dựng vương quốc Macedon. Đến thế kỷ thứ năm trước Công nguyên, Macedon ngày càng tích cực tham gia vào những sự vụ tại bản thổ Hy Lạp, gia nhập đại hội tranh tài thể thao Olympia khai diễn bốn năm một lần, và cùng kư kết liên minh chính trị với các thành bang của Hy Lạp. Trong thời kỳ chiến tranh giữa Ba Tư và Hy Lạp (khoảng từ năm 500 đến năm 449 TCN) người Macedon từ chối không chịu gia nhập vào đội ngũ của người Ba Tư để đánh người Hy Lạp, đồng thời đem những tin tức t́nh báo bí mật về quân sự của Ba Tư cung cấp cho người Hy Lạp. Theo đà tăng trưởng này ngày càng mật thiết giữa người Macedon đă hấp thu được nhiều yếu tố văn hóa tiên tiến của các thành bang tại Hy Lạp. Sau khi vua Philip II cha của Alexander lên chấp chính, th́ Macedon đă phát triển lên một bước, đạt đến thời kỳ toàn thịnh. Vua Philip II từng tiến hành hàng loạt những cuộc cải cách. Về mặt chính trị, ông khống chế lực lượng của các thủ lĩnh ở các bộ lạc, khống chế quyền lực của các hội nghị quí tộc, tập trung quyền lực quân sự của quốc gia vào một tay ḿnh. Về mặt kinh tế, ông cho áp dụng chế độ bản vị kép, vừa dùng vàng vừa dùng bạc để từ đó đặt mối quan hệ mậu dịch mật thiết giữa Macedon với Hy Lạp và Ba Tư. Về mặt quân sự, ông ra sức xây dựng một đạo quân thường trực, và đă cải tiến chiến thuật “Phương trận” (Phalax) mà ông đă học được từ Epaminodas lúc c̣n làm con tin ở Thebes thuộc Hy Lạp, để cải tiến thành “phương trận Macedon”, có sức chiến đấu rất mạnh. Phương trận này chủ yếu được phối hợp giữa các đơn vị bộ binh trang bị nặng, gồm có giáo dài và những tấm mộc chắc chắn. Bộ binh xếp thành hàng ngũ chặt chẽ, mỗi phương trận được xếp từ 16 đến 20 hàng bộ binh. Những bộ binh đứng ở phía sau, sử dụng giáo dài thọc qua các khe trống của những bộ binh cầm mộc che chở đứng ở phía trước, để tấn công quân địch ở trung tâm, c̣n kỵ binh th́ từ hai bên hông tiến lên đánh bọc hậu quân địch. Do vậy, phương trận của Macedon có sức chiến đấu rất ngoan cường, đối phương khó chống trả, nổi tiếng khắp xa gần , tạo thành một sức uy hiếp mạnh mẽ đối với quân địch.
Dựa vào ưu thế quân sự, vua Philip II đă liên tiếp trong nhiều năm bành trướng, mở rộng bờ cơi, từng bước thống nhất các bộ lạc của Macedon, đồng thời, cũng đánh chiếm được vùng Thrace của người Illyrian, thế lực mở rộng tới hạ du sông Danube và eo biển Hellespont (nay là eo biển Dardanelles). Chẳng bao lâu, thế lực quân sự của nhà vua đă đén những thành bang của Hy Lạp. Năm 348 trước công nguyên, vua Philip II đánh chiếm Olymthus và thôn tín Chalcidice. Năm 338 TCN, vua Philip II lại xua đại quân Macedon đánh bại liên quân Hy Lạp tại Chaerona. Qua năm sau, vua Philip II triệu tập hội nghị toàn Hy Lạp tại Corinth, thành lập liên minh do chính ông giữ chức thống soái tối cao, đồng thời, đề xuất kế hoạch hưng binh thảo phạt Ba Tư. Kể từ đó, bán đảo Hy Lạp đại thể đă được thống nhất dưới ngọn cờ quân chủ của Macedon. T́nh trạng cát cứ của các thành bang diễn ra trong nhiều năm qua đến đây kết thúc.
Rơ ràng người đặt nền tảng cho địa vị bá quyền của Macedon ở Hy Lạp nói cho cùng chính là vua Philip II. Những cuộc viễn chinh sau này của Alexander, chẳng qua là một hành động thể hiện sự nghiệp của cha ông mà thôi. Một học giả, ông H.G.Wells từng nói: nếu bảo người anh hùng thật sự trong câu chuyện về Alexander là chính bản thân Alexander, th́ chi bằng bảo đó là người cha của ông tức vua Philip II th́ đúng hơn. V́ “tác giả của một kịch bản không bao giờ được mọi người chú ư bằng những diễn viên đang diễn xuất dưới ánh đèn sân khấu”. Vua Philip II là người đă quy hoạch một phần lớn thành tựu trong sự nghiệp vĩ đại của Alexander, đặt nền tảng thực sự cho quốc, chuẩn bị sẵn những công cụ để phát động những cuộc chinh chiến.
|
|
nvdtdnguyen
member
REF: 115375
01/04/2007
|
Bài học lănh đạo từ Alexander Đại đế
Alexander Đại đế (356 - 323 trước Công nguyên) là vị hoàng đế từng nghiền nát đế chế Ba Tư hùng mạnh và xây dựng nên đế chế Hy Lạp. Ông là một thiên tài quân sự bẩm sinh và cũng được xem là người có những đóng góp lớn trong tiến tŕnh phát triển của lịch sử văn minh nhân loại.
Alexander Đại đế là con của Vua Philip II xứ Macedonia và người vợ thứ tư, công chúa Olympias xứ Epirote. Khi c̣n nhỏ, Alexander là học tṛ của Aristotle. Ông trở thành vua xứ Macedonia vào mùa hè năm 336 trước Công nguyên khi cha ông bị ám sát. Thấy đất nước có quá nhiều hiểm hoạ nội chiến, ông hạ lệnh giết một loạt kẻ âm mưu phản nghịch và bắt đầu công cuộc chinh phạt của ḿnh.
Vị hoàng đế trẻ Alexander đă làm chấn động vùng Trung Đông với cuộc chiến tranh đẫm máu trong lịch sử nhân loại và mở đường cho sự bành trướng nhanh chóng của nền văn hóa Hy Lạp trên các vùng đất bị chiếm đóng. Đây cũng là một trong những lư do chính để người ta tôn Alexander là đại đế.
Trong suốt cuộc đời chinh chiến của ḿnh, Alexander Đại đế đă để lại nhiều bài học lănh đạo khác nhau, trong từng thời kỳ khác nhau.
Năm 334 trước Công nguyên, Alexander Đại đế bắt đầu cuộc chiến với đế chế Ba Tư. Với 35.000 quân và chiến tướng tin cậy, tại ḍng sông Granicus gần thành cổ Troy, Alexander Đại đế bắt đầu tấn công quân Ba Tư gồm 40.000 lính và chiến thắng dễ dàng.
Sau trận chiến lẫy lừng đó, toàn bộ thành bang khác ở khu vực này đều rạp ḿnh trước vị tướng trẻ. Tiến thẳng quân về phía Nam, Alexander đối mặt với quân đội chủ lực của Ba Tư dưới sự chỉ huy của vua Darius III tại Issus, phía Tây Nam Syria. Sau khi giành thắng lợi, quân đội của Alexander thu được rất nhiều thứ phục vụ quân đội và bắt được cả vua Ba Tư Darius III, vợ và mẹ ông ta.
Alexander có thể bán, đ̣i tiền chuộc với những con tin ḍng dơi quư tộc này nhưng Alexander đă cho họ nhà ở và cho phép họ giữ nguyên thân thế. Thậm chí Alexander c̣n trở thành người bạn thân thiết của mẹ Darius và người con gái đă kết hôn của Darius.
---> Bài học lănh đạo: Nếu lănh đạo tổ chức là người cao thượng, chắc chắn sẽ có được sự gắn kết với mọi người.
Sau cuộc chinh phạt Ba Tư, nhiều lính Hy lạp xem người Ba Tư như những người man rợ, không có văn hoá. Tuy nhiên, Alexander không có tư tưởng phân biệt như vậy. Ông thừa nhận trang phục và phong tục của Ba Tư, đối xử với mọi người bằng sự tôn trọng ngang nhau và khuyến khích mạnh mẽ một chính sách hợp nhất văn hoá - biểu hiện là ông đă kết hôn với 3 người phụ nữ Ba Tư.
---> Bài học lănh đạo: Trong thế giới ngày nay vẫn c̣n sự ḱ thị và phân biệt, nhưng người lănh đạo là người có thể dung hoà và thống nhất sự khác biệt giữa những nhân tố bên ngoài và bên trong.
Alexander Đại đế gặp phải hai vấn đề thường trực là đối xử thế nào với những cựu chiến binh trong quân đội của ông ta, đặc biệt là những người bị thương và già cả, và làm thế nào để kiểm soát các vùng đất đă chinh phục ở nhiều nền văn hoá khác nhau với một lực lượng quân đội có hạn. Giải pháp của Alexander Đại đế là để các cựu chiến binh cư trú và quản lư 70 thành phố và thị trấn mới cùng với những người t́nh nguyện ở địa phương.
---> Bài học lănh đạo: Ngoài dựa vào những ǵ đă có để tồn tại, các nhà lănh đạo có thể khám phá và tạo ra những nhánh nhỏ khác để thành công.
Khi Alexander đến châu Á, gần khu vực thành Troy cổ, ông đă thăm đền thờ thần Athena và cỗ xe bọc sắt từ thời cuộc chiến thành Troy. Mùa xuân năm 331 trước Công nguyên, Alexander đi thăm Ai Cập. Khi đến thăm đền thờ thần Amon-Ra (thần Mặt trời), ông cũng coi thần Amon-Ra là cha của ḿnh. Người dân Ai Cập cúi đầu thuần phục. Khi đến thăm Pasargadae - thành phố hoàng gia của triều đại Archaemenid, ông phát hiện ra rằng phần mộ của Cyrus đại đế đă bị mất đi vẻ thiêng liêng. Ông yêu cầu phải giữ ǵn và bảo vệ phần mộ đó.
---> Bài học lănh đạo: Mỗi người cần một người anh hùng, thậm chí một nhân vật anh hùng như Alexander Đại đế. Chọn và noi gương những người anh hùng vĩ đại và cho mọi người biết họ là ai và tại sao lại ngưỡng mộ họ.
Cũng cần tôn trọng và học hỏi những người tiền nhiệm. Các nhà lănh đạo biết rút kinh nghiệm và học hỏi từ những người tiền nhiệm, sẽ được mọi người nể trọng.
Sau trận chiến ở sông Hydaspes, quân đội Macedonia tràn xuống Indus để tới chiến trận Mallians. Ở thành mạnh nhất, Alexander tránh bị tên bắn bằng cách liều lĩnh nhảy xuống từ bức tường thành, nơi ông đang bị tấn công và bị thương nặng trước khi lính của ông kip tiến gần. Quân đội quá giận dữ đến nỗi tàn phá cả thành phố và tất cả cư dân bị giết hại.
---> Bài học lănh đạo: Mạo hiểm rất cần thiết nhưng đừng trở nên liều lĩnh một cách vô ích
Muốn tiêu diệt hoàn toàn quân đội Ba Tư, ông tiến đánh Ấn Độ (thời đó vùng Tây Ấn thuộc về Ba Tư). Vượt sông Ấn, chiếm đóng Punjab, đến đây th́ quân đội của ông quá mệt mỏi v́ chiến tranh liên miên, ông phải quay về Babylon. Trên đường về, ông đă dẫn quân đi qua một vùng đất không ai biết đến - một sa mạc hoang vu, rộng lớn.
Bị sa mạc thiêu đốt, nhiều lính của ông đă chết khát nhưng họ vẫn chắt những giọt nước cuối cùng từ những cái bi đông đựng nước của ḿnh để cứu chủ nhân. Nhận một nắp đầy nước từ tay những người lính của ḿnh, ông hắt xuống cát và nói: "Ta sẽ chia sẻ số phận với các người". Thật kỳ diệu, Alaxander đă vượt được sa mạc cùng với rất nhiều người lính trung thành của ḿnh.
---> Bài học lănh đạo: Ḷng trung thành chính là động cơ để giành được thắng lợi, thậm chí c̣n có thể thay đổi cả thế giới.
* Alexander Đại đế bị ốm ở Babylon năm 323, và qua đời ở tuổi 33
====================
Sưu tầm.
|
1
|
Kí hiệu:
:
trang cá nhân :chủ
để đă đăng
:
gởi thư
:
thay đổi bài
:ư kiến |
|
|
|
|