nvdtdnguyen
member
ID 14951
08/27/2006
|
Thảm hoạ sóng thần Ấn Độ Dương
Thảm hoạ Sóng thần Ấn Độ Dương năm 2004, được biết đến trong cộng đồng khoa học như là Cơn địa chấn Sumatra-Andaman, là một trận động đất xảy ra dưới đáy biển lúc 00:58:53 UTC (07:58:53 giờ địa phương) ngày 26 tháng 12 năm 2004. Trận động đất kích hoạt một chuỗi các đợt sóng thần chết người lan toả khắp Ấn Độ Dương, cướp sinh mạng một số lượng lớn cư dân và tàn phá các cộng đồng dân cư sinh sống ven biển ở Indonesia, Sri Lanka, Ấn Độ, Thái Lan và những nơi khác. Từ những ước tính ban đầu, người ta cho rằng hơn 283.100 người chết, nhưng những phân tích mới đây cho thấy con số tử vong chính xác là 186.983, với 42.883 trường hợp mất tích, trong tổng số 229.886 nạn nhân. Cho đến nay, thiên tai này là thảm hoạ gây nhiều tử vong nhất trong lịch sử. Các phương tiện truyền thông quốc tế và người dân châu Á gọi nó là Sóng thần Á châu, trong khi tại Úc, Tân Tây Lan, Canada và Anh người ta gọi nó là Sóng thần ngày lễ Từ thiện (Boxing Day) bởi v́ nó xảy ra ngay vào ngày lễ này.
Cường độ của trận động đất lúc đầu đo được 9.0 (trên thang Richter), nhưng sau tăng lên ở khoảng giữa 9.1 và 9.3. Với cường độ này, đây là trận động đất lớn thứ hai từng được ghi nhận bởi địa chấn kế, chỉ đứng sau trận động đất lớn ở Chile ngày 22 tháng 5 năm 1960 có cường độ 9.5. Cơn địa chấn Ấn Độ Dương làm rung chuyển mặt đất với cường độ 100 lần mạnh hơn trận động đất Loma Prieta xảy ra năm 1989. Nó có thời gian kéo dài lâu nhất mà người ta có thể ghi nhận được, từ 500 đến 600 giây. Độ lan toả của nó đủ lớn để có thể khiến tinh cầu của chúng ta dịch chuyển ít nhất là nửa inch, tức là hơn một centimeter. Nó cũng kích hoạt các trận động đất ở những khu vực khác, đến tận Alaska.
Cơn địa chấn khủng khiếp này khởi phát ở Ấn Độ Dương ngay phía bắc đảo Simeulue, ngoài khơi bờ biển phía tây của miền bắc Sumatra, Indonesia. Những đợt sóng thần sản sinh từ nó đă tàn phá vùng duyên hải Indonesia, Sri Lanka, Nam Phi, Thái Lan và những quốc gia khác với những con sóng cao đến 30 m (100 ft), gây thiệt hại nghiêm trọng và mang chết chóc đến tận bờ biển phía đông châu Phi, nơi xa nhất có ghi nhận tử vong do sóng thần là ở Cảng Elizabeth, Nam Phi, 8000 km (5.000 ml) cách xa tâm chấn.
Hoàn cảnh nguy ngập của dân chúng tại những quốc gia bị ảnh hưởng đă khiến dấy lên làn sóng trợ giúp nhân đạo trên toàn cầu.
______________Đặc điểm của sóng thần______________________
Sự dâng cao đột ngột của đáy biển lên đến vài mét, xảy ra suốt trong cơn địa chấn, làm dịch chuyển những cột nước khổng lồ, tạo ra những đợt sóng thần đánh vào bờ biển Ấn Độ Dương. Sóng thần gây thiệt hại ở những khu vực xa nguồn của nó thường được gọi là “sóng thần xa” (teletsunami), h́nh thành bởi chuyển động thẳng đứng của đáy biển hơn là bởi chuyển động ngang (Earthquakes and tsunamis, Lorca et al.).
Sóng thần chuyển động trong nước sâu khác với trong vùng cạn. Ở vùng nước sâu ngoài đại dương, sóng thần chỉ là những đợt sóng nhấp nhô, khó nhận biết và vô hại, di chuyển với tốc độ rất cao từ 500 đến 1.000 km/h (310 đến 620 mph); ở vùng nước cạn gần bờ, vận tốc của nó chỉ c̣n 10 km/h nhưng đó là lúc bắt đầu h́nh thành những đợt sóng lớn có sức công phá khủng khiếp. Các nhà khoa học điều tra thiệt hại ở Aceh t́m ra chứng cớ cho thấy sóng thần ở đây lên đến độ cao 24 m (80 ft) khi đến gần bờ và di chuyển dọc theo những dải đất rộng; tại một vài khu vực, khi vào đến đất liền độ cao của chúng nâng lên 30 m (100 ft).
Vệ tinh radar đă ghi nhận được chiều cao của sóng thần trong biển sâu: hai giờ sau cơn địa chấn, độ cao tối đa là 60 cm (2ft). Đây là những quan sát đầu tiên được ghi nhận, mặc dù chúng không được dùng để đưa ra cảnh báo, bởi v́ người ta không sử dụng các vệ tinh cho mục đích cảnh báo và v́ những dữ liệu này cần có thời gian để phân tích.
Theo Tad Murty, Phó chủ tịch Hiệp hội Sóng thần, tổng năng lượng của những đợt sóng thần là xấp xỉ 5 megaton TNT (20 petajoule), gấp hai lần năng lượng của toàn bộ chất nổ được sử dụng trong Đệ Nhị Thế chiến (kể cả hai quả bom nguyên tử), nhưng chỉ là hai bậc trên thang đo lường thấp hơn cường độ năng lượng phóng ra bởi cơn địa chấn. Tại nhiều nơi, các đợt sóng thần đă tiến sâu vào đất liền đến 2 km.
Bởi v́ có đến 1.200 km (745.6 ml) đường phay bị ảnh hưởng bởi trận động đất hầu như trải dài theo hướng nam-bắc, nên cường độ lớn nhất của sóng thần đi theo hướng đông-tây. Do vậy, Bangladesh, ở cuối phía bắc của Vịnh Bengal, ít bị thiệt hại mặc dù xứ sở vùng đất thấp này tương đối gần tâm chấn. Cũng hưởng lợi nhờ yếu tố này là cơn địa chấn di chuyển chậm hơn trong vùng găy phía bắc, làm giảm đáng kể sức tàn phá của nước khi dịch chuyển trong vùng.
Những bờ biển có các vùng đất rộng chắn giữa chúng và vị trí ban đầu của sóng thần thường được an toàn; dù vậy, đôi khi sóng thần t́m cách đi ṿng qua vùng đất rộng, điển h́nh là bang Kerala của Ấn Độ, dù là vùng duyên hải phía tây Ấn Độ, vẫn bị tấn công bởi những đợt sóng thần; bờ biển phía tây của Sri Lanka cũng chịu ảnh hưởng tương tự. Ở xa tâm chấn cũng không đồng nghĩa với an toàn, Somalia bị tàn phá nặng nề hơn Bangladesh mặc dù ở xa hơn rất nhiều.
V́ phải di chuyển trong một địa bàn rất rộng, sóng thần mất từ 15 phút đến 7 giờ (trường hợp của Somalia) để đến các bờ biển khác nhau. Sóng thần tiến rất nhanh đến đảo Sumatra, nhưng nó phải mất 90 phút đến hai giờ đồng hồ để t́m thấy Sri Lanka và bờ biển phía đông Ấn Độ. Trong khi đó, nó chỉ đến được Thái Lan sau khoảng hai giờ đồng hồ mặc dù đất nước này ở gần tâm chấn hơn, v́ phải di chuyển chậm qua vùng biển cạn ngoài khơi bờ biển phía tây Biển Andaman.
Sóng thần đến tận Struisbaai thuộc Nam Phi, tức là phải vượt qua khoảng cách 8.500 km (5.300 ml), ở đây nó mang đến những đợt triều cường cao 1,5 m (5 ft) năm giờ sau cơn địa chấn. Nó phải tiêu tốn khá nhiều thời gian để đến điểm cực nam này của châu Phi, có lẽ bởi v́ thềm lục địa rộng lớn của Nam Phi và bởi v́ sóng thần phải đi dọc bờ biển Nam Phi từ đông sang tây.
Một phần năng lượng của sóng thần được phân phối vào Thái B́nh Dương, ở đây nó tạo ra những đợt sóng nhỏ dọc theo bờ tây của Bắc và Nam Mỹ, trung b́nh chỉ cao khoảng 20 đến 40 cm (7.9 đến 15.7 in).
________________Dấu hiệu và cảnh báo_____________________
Mặc dù khoảng cách thời gian giữa lúc khởi phát cơn địa chấn và thời điểm sóng thần tiếp cận đất liền lên đến vài tiếng đồng hồ, hầu hết nạn nhân đều hoàn toàn bất ngờ khi đột nhiên thấy ḿnh bị chụp bắt bởi thảm hoạ; không hề có hệ thống cảnh báo sóng thần nào trên Ấn Độ Dương để phát hiện sóng thần, hoặc quan trọng không kém, để cảnh báo cư dân đang sống trên bờ. Không dễ dàng ǵ để ḍ t́m sóng thần trong khi chúng đang c̣n ở biển sâu, v́ vậy cần có một mạng lưới các thiết bị cảm ứng để phát hiện chúng. Lắp đặt một cấu trúc hạ tầng các thiết bị truyền thông để có thể đưa ra những cảnh báo kịp thời là một vấn đề c̣n khó khăn hơn, nhất là ở những khu vực chưa phát triển của thế giới.
Sóng thần xảy ra c̣n thường xuyên hơn trong vùng biển Thái B́nh Dương do ảnh hưởng của các cơn địa chấn thuộc “Vành đai lửa”, nhưng khu vực này từ lâu đă được lắp đặt hệ thống cảnh báo sóng thần. Mặc dù mép phía tây của “Vành đai lửa” kéo dài đến Ấn Độ Dương, không hề có bất cứ hệ thống cảnh báo sóng thần nào hiện diện tại đây. Khu vực này tương đối ít có sóng thần, mặc dù động đất vẫn thường xảy ra tại Indonesia. Cơn sóng thần quan trọng lần cuối cùng được ghi nhận vào năm 1883 khi núi lửa Krakatoa thức giấc. Cũng nên biết rằng không phải hễ có động đất là có sóng thần; Ngày 28 tháng 3 năm 2005, một cơn địa chấn 8.7 độ richter đánh vào ngay khu vực này của Ấn Độ Dương nhưng không tạo ra một đợt sóng thần nào.
Sau khi xảy ra thảm hoạ, người ta bắt đầu quan tâm đến nhu cầu lắp đặt một hệ thống cảnh báo sóng thần cho vùng biển Ấn Độ Dương. Liên Hiệp Quốc khởi xướng vận động cho hệ thống cảnh báo này và tiến hành những bước đầu tiên vào cuối năm 2005. Có một số đề nghị thiết lập hệ thống cảnh báo sóng thần liên kết toàn cầu, bao gồm cả khu vực Đại Tây Dương và vùng biển Caribbean.
Chưa quen với dấu hiệu cảnh báo
Dấu hiệu cảnh báo đầu tiên về sóng thần chính là trận động đất. Dù vậy, sóng thần có thể đánh vào một khu vực cách xa đó hàng vạn dặm, dù tại đây chỉ có thể cảm nhận được địa chấn rất yếu hoặc ngay cả không có ǵ hết. Tương tự, trong ít phút trước khi sóng thần đánh vào bờ, nước biển thường rút ra xa. Cư dân ven Thái B́nh Dương đă quen với sóng thần và thường nhận ra hiện tượng này để chạy vội lên các vùng đất cao. Ngược lại, ở vùng ven Ấn Độ Dương hiện tượng hiếm hoi này đă khiến nhiều người, kể cả trẻ em, ṭ ṃ t́m đến để quan sát và lượm bắt cá bị trôi dạt vào một bờ biển dài 2,5 km (1,6 ml) mà không biết tai hoạ chết người đă gần kề.
Một trong những vùng duyên hải mà cư dân đă kịp di tản trước khi sóng thần đánh vào là đảo Simeulue thuộc Indonesia, rất gần với tâm chấn. Những bài dân ca trên đảo đă kể lại câu chuyện động đất và sóng thần xảy ra năm 1907, và cư dân trên đảo vội chạy lên vùng đồi ngay sau đợt rung chuyển đầu tiên, kịp lúc trước khi sóng thần đánh vào. Trên băi tắm Maikhao phía bắc Phuket, Thái Lan, một bé gái mười tuổi người Anh tên Tilly Smith, vốn đă nghiên cứu về sóng thần trong lớp địa lư ở trường, nhận ra dấu hiệu bất tường của biển khi nước đang rút ra xa và sủi bọt. Cô bé cùng cha mẹ cảnh báo những người đang có mặt tại băi tắm, tất cả đă t́m được chỗ trú ẩn an toàn. John Chroston, một giáo viên sinh học đến từ Tô Cách Lan, cũng nhận ra những dấu hiệu của sóng thần tại Vịnh Kamala, bắc Phuket, vội lấy một chiếc xe buưt chất đầy du khách và dân địa phương và kịp đưa họ đến nơi an toàn ở nơi cao.
Chu kỳ sóng thần
Sóng thần là một chuỗi các con sóng, xảy ra theo chu kỳ triệt thoái và dâng cao trong một giai đoạn kéo dài hơn 30 phút giữa hai con sóng lớn. Con sóng thứ ba là mạnh nhất và cao nhất xảy ra khoảng một giờ rưỡi sau con sóng thứ nhất, sau đó những đợt sóng thần nhỏ tiếp tục xuất hiện cho đến hết ngày.
______________Thiệt hại và thương vong_________________
Vụ Khảo sát Địa chất Hoa Kỳ lúc đầu đưa ra con số tổn thất nhân mạng là 283.100 người, 14.100 người mất tích và 1.126.900 người phải di tản. Những bản tin ban đầu đưa ra con số thương vong là hàng trăm, nhưng dần dà con số này tiếp tục gia tăng trong những tuần lễ kế tiếp. Tuy vậy, số liệu gần đây cho thấy số người thiệt mạng là 186.983, có 42.883 trường hợp mất tích trong tổng số 229.886 nạn nhân, một con số lớn hơn rất nhiều những người sống sót mất chỗ ngụ cư.
Theo tường tŕnh của các tổ chức cứu trợ, một phần ba số người chết là trẻ em, một phần là do trẻ em chiếm tỷ trọng cao trong tổng số cư dân tại những khu vực bị ảnh hưởng, phần khác là do trẻ em là những nạn nhân không có khả năng tự vệ trước những đợt sóng dữ. Tổ chức Oxfam c̣n thêm rằng, trong một vài khu vực, số phụ nữ thiệt mạng cao gấp bốn lần số đàn ông, bởi v́ lúc ấy họ đang có mặt trên băi biển, chờ đợi các ngư phủ trở về và trông chừng con cái trong nhà.
Ngoài số lượng lớn nạn nhân là cư dân trong vùng, có đến 9.000 du khách (phần lớn đến từ Âu châu, nhất là từ vùng Scandinavia) đang vui hưởng kỳ nghỉ, bị thiệt mạng hoặc mất tích. Quốc gia Âu châu có số nạn nhân cao nhất là Thụy Điển với 428 người chết và 116 người mất tích.
T́nh trạng khẩn cấp được công bố tại Sri Lanka, Indonesia, và Maldives. Liên Hiệp Quốc tuyên bố một chiến dịch cứu trợ lớn nhất chưa từng có. Tổng thư kư Liên Hiệp Quốc Kofi Annan phát biểu rằng công cuộc tái thiết phải mất từ năm đến mười năm. Các chính phủ và những tổ chức phi chính phủ quan ngại rằng con số tử vong sau cùng sẽ tăng cao do dịch bệnh, vội vàng thúc đẩy cuộc vận động cứu trợ qui mô lớn.
Nếu tính theo số người chết, th́ đây là một trong mười trận động đất tồi tệ nhất được ghi nhận trong lịch sử, cũng như là cơn sóng thần duy nhất gây thiệt hại nặng nề nhất trong lịch sử.
Những quốc gia bị ảnh hưởng
Trận động đất và sóng thần ảnh hưởng đến nhiều quốc gia trong vùng Đông Nam Á và xa hơn nữa, gồm có Indonesia, Sri Lanka, Ấn Độ, Thái Lan, Malaysia, Seychelles và các nước khác. Một số nước Âu châu và Úc có nhiều công dân đang du lịch trong vùng vào kỳ nghỉ lễ. Thụy Điển và Đức có hơn 500 công dân thiệt mạng trong thảm hoạ.
Những thảm hoạ trong lịch sử
Đây là trận động đất mạnh thứ tư kể từ năm 1900, con số tử vong được xác nhận là 229.886 người do sóng thần phát sinh từ cơn địa chấn. Những trận động đất gây thiệt hại nhân mạng lớn nhất kể từ năm 1900 gồm có trận động đất ở Tangshan, Trung Quốc năm 1976 giết hại ít nhất 255.000 người, trận động đất năm 1927 ở Xinning, Qinghai, Trung Quốc cướp mạng sống của 200.000 người, trận động đất lớn Kanto đánh vào Tokyo năm 1923 (143.000 nhân mạng), và Gansu, Trung Quốc năm 1920 (200.000 người). Trận động đất gây thiệt hại nhân mạng nhiều nhất từng được biết trong lịch sử xảy ra năm 1556 tại Shaanxi, Trung Hoa với con số tử vong ước tính là 830.000 người mặc dù sau một thời gian dài những con số như thế có thể không đáng tin cậy.
Riêng đợt sóng thần năm 2004 là thảm hoạ sóng thần giết hại nhiều người nhất trong lịch sử. Trước đây, có ghi nhận về đợt sóng thần gây tử vong cao nhất xảy ra ở Thái B́nh Dương năm 1782 khi 40.000 người thiệt mạng do sóng thần tại vùng biển Đông. Sóng thần gây ra bởi núi lửa Krakatoa năm 1883 được cho là đă cướp mạng sống của 36.000 người. Trong quăng thời gian từ năm 1900 đến 2004, đợt sóng thần đánh vào Messina, Ư, trên bờ biển Địa Trung Hải, cùng với cơn địa chấn cướp sinh mạng của 70.000 người, là sóng thần gây thiệt hại nhân mạng cao nhất trong quăng thời gian này. C̣n cơn sóng thần có số tử vong cao nhất xảy ra ở vùng biển Đại Tây Dương do trận động đất Lisbon năm 1755, tính luôn số nạn nhân hoả hoạn gây ra bởi động đất, tổng cộng hơn 100.000 nhân mạng.
Có thể xem trận động đất và sóng thần năm 2004 là thiên tai gây chết chóc nhiều nhất kể từ cơn địa chấn Tangshan hoặc trận băo xoáy Bhola năm 1970
________________Con người góp phần vào thiên tai_____________
Một bài viết trên Tạp chí Wall Street ngày 31 tháng 12 năm 2004 cho rằng việc con người huỷ phá các rặng san hô bảo vệ bờ biển là một nhân tố quan trọng góp phần làm tăng tổn thất nhân mạng và thiệt hại trong vùng. Bài báo trưng dẫn trường hợp đảo Surin ngoài khơi bờ biển Thái Lan, xem đó là một minh chứng cho tính năng bảo vệ của rặng san hô khi chưa bị con người tàn phá. Tại những nơi này, số tử vong thấp hơn nhiều; song, cũng cần biết rằng ở đây dân cư khá là thưa thớt. Người ta đă cho nổ tung những khu vực có đá ngầm bao quanh Ấn Độ Dương v́ xem chúng là chướng ngại vật cản trở tàu bè vận chuyển hàng hoá, mà đây là một phần quan trọng của nền kinh tế Nam Á.
Tương tự, việc dọn sạch những rừng đước ven bờ được xem là đă làm tăng sức công phá của sóng thần tại một số khu vực. Rừng đước, thường mọc dọc theo bờ biển, bị phát quang để làm nơi sinh sống cho cư dân trong vùng, nếu được bảo vệ đầy đủ sẽ là một bức tường bảo vệ trước sóng thần. Một nhân tố khác giúp bảo vệ con người trước sự công phá của sóng thần bị con người dời bỏ là những đụn cát ven bờ biển.
_______________Ảnh hưởng nhân đạo, kinh tế và môi trường___________________
Nhân đạo
Cần có một chiến dịch rộng lớn vận động trợ giúp nhân đạo mới có thể bù đắp những thiệt hại nặng nề về hạ tầng cơ sở, thiếu thốn nước, thực phẩm và những thiệt hại về kinh tế. Dịch bệnh cũng là một quan ngại đặc biệt do mật độ dân số cao và khí hậu nhiệt đới tại những vùng bị ảnh hưởng. Mối quan tâm chính của các tổ chức nhân đạo và các cơ quan chính phủ là cung cấp các phương tiện vệ sinh và nước sạch để kiểm soát sự lây lan các loại bệnh như tiêu chảy, bệnh bạch hầu, bệnh lỵ, thương hàn và viêm gan siêu vi A & B.
Cũng có những quan ngại về việc số tử vong cao sẽ làm lây lan dịch bệnh cũng như nạn đói. Tuy nhiên, do được xử lư kịp thời, những nguy cơ này đă được giảm thiểu.
Trong những ngày sau thảm hoạ, người ta phải làm việc cật lực để chôn cất tử thi hầu tránh bùng nổ dịch bệnh. Chương tŕnh Thực phẩm Thế giới đă trợ giúp cho hơn 1,3 triệu người là nạn nhân sóng thần.
Các quốc gia trên khắp thế giới cung cấp hơn 3 tỉ USD trợ giúp những vùng bị thiệt hại; chính phủ Úc hứa hẹn 819, 9 triệu USD (trong đó có khoản viện trợ trọn gói 760,6 triệu USD cho Indonesia), chính phủ Đức 660 triệu USD, chính phủ Nhật Bản 500 triệu USD, chính phủ Canada 425 CAD, chính phủ Na Uy 170 triệu USD, chính phủ Mỹ lúc ban đầu là 35 triệu, Ngân hàng Thế giới 250 triệu. Cơ quan Phát triển Quốc tế Hoa Kỳ (USAID) cho biết Hoa Kỳ cam kết ngân quỹ bổ sung trong khuôn khổ của chương tŕnh trợ giúp dài hạn dành cho nạn nhân sóng thần xây dựng lại cuộc sống. Ngày 9 tháng 2 năm 2005, Tổng thống George W. Bush yêu cầu Quốc hội gia tăng cam kết đóng góp của Hoa Kỳ lên đến 950 triệu USD. Các viên chức ước tính phải cần đến hàng tỉ USD. Bush yêu cầu cha ông, cựu tổng thống George H. W. Bush, và cựu tổng thống Bill Clinton, cầm đầu một nỗ lực của Hoa Kỳ cung cấp những trợ giúp tư nhân cho nạn nhân sóng thần.
Đến trung tuần tháng Ba, theo tường tŕnh của Ngân hàng Phát triển Á châu (ADB), số tiền hơn 4 tỉ USD mà các chính phủ hứa hẹn bị giải ngân chậm. Sri Lanka báo cáo rằng họ không nhận được khoản viện trợ nào từ chính phủ nước ngoài, trong khi những trợ giúp cá nhân từ hải ngoại th́ dồi dào. Các tổ chức từ thiện nhận nhiều đóng góp hào phóng từ công chúng chẳng hạn như ở Anh, số tiền quyên góp của dân chúng lên đến gần 600 triệu USD, vượt quá mức đóng góp của chính phủ, tính trung b́nh mỗi người dân Anh tặng 10 USD, trong số đó có cả người vô gia cư và trẻ em.
Kinh tế
Người ta có thể dễ dàng nhận ra những tác hại trên cộng đồng ngư dân và những người sống bằng nghề nuôi trồng thuỷ sản, một số được xem là nghèo nhất vùng, mất kế sinh nhai, mất luôn tàu thuyền và phương tiện đánh bắt. Ở những vùng duyên hải thuộc Sri Lanka, nơi mà nghề đánh bắt thủ công là nguồn cung cấp chính các loại cá cho chợ búa trong vùng và công nghiệp thuỷ hải sản là hoạt động kinh tế chính, thu hút nhân công trực tiếp khoảng 250.000 người. Trong những năm gần đây, công nghiệp này trở nên khu vực xuất khẩu năng động, tạo ra nguồn thu ngoại thương căn bản cho đất nước. Song, theo ước tính ban đầu, đến 66% đội tàu đánh bắt hải sản và cơ sở hạ tầng công nghiệp trong vùng duyên hải đă bị tàn phá bởi những đợt sóng thần, làm đảo ngược hiệu quả kinh tế của địa phương và quốc gia.
Có một số kinh tế gia cho rằng thiệt hại kinh tế của những quốc gia bị ảnh hưởng là không nghiêm trọng, v́ những tổn thất trong ngành du lịch và đánh bắt hải sản chiếm tỉ trọng tương đối nhỏ trong GDP. Nhưng có những cảnh báo về thiệt hại cơ sở hạ tầng, xem đó là một nhân tố khó lường. Trong một số khu vực, đồng ruộng và nguồn cung cấp nước uống bị ô nhiễm trong nhiều năm do nước biển tràn vào.
Động đất và sóng thần có thể ảnh hưởng đến thuỷ lộ đi qua Eo biển Malacca v́ làm thay đổi độ sâu đáy biển, làm xáo trộn các phao hoa tiêu và những xác tàu ch́m. Thiết lập hải đồ hoa tiêu mới phải mất hàng tháng hoặc hàng năm.
Các quốc gia trong vùng nỗ lực kêu gọi du khách trở lại, chỉ ra rằng hầu hết cơ sở hạ tầng du lịch vẫn c̣n nguyên vẹn. Dù vậy, du khách không mặn mà với ư tưởng trở lại những nơi ấy v́ những lư do tâm lư. Ngay cả những khu nghĩ dưỡng ven bờ Thái B́nh Dương của Thái Lan, không bị tàn phá bởi sóng thần, nhưng bị suy sụp v́ du khách huỷ bỏ kỳ nghỉ. Tuy nhiên, một năm sau thảm hoạ sóng thần, ngành du lịch bắt đầu khởi sắc trở lại, với mong đợi được phục hồi hoàn toàn vào năm 2006.
Môi trường
C̣n lớn hơn những tổn thất nhân mạng, cơn địa chấn Ấn Độ Dương gây ra những thiệt hại khổng lồ về môi trường, ảnh hưởng đến các quốc gia trong vùng trong nhiều năm tới. Có những bản tường tŕnh về sự thiệt hại nghiêm trọng tác hại đến các hệ sinh thái như rừng đước, rặng san hô, rừng cây, vùng đất ngập mặn duyên hải, hệ thực vật, đồi cát, cấu tạo đá, nguồn nước ngầm và tính đa dạng sinh học động vật và thực vật. Hơn nữa, sự phát tán chất thải rắn và lỏng cùng các loại hoá chất, t́nh trạng ô nhiễm nguồn nước, sự tàn phá hệ thống cống rănh và những nhà máy xử lư đang đe doạ môi trường theo hướng khó lường. Cần phải có nhiều thời gian và nguồn tài nguyên dồi dào mới có thể thẩm định hết những tác hại trên môi trường.
Theo các chuyên gia, tác hại lớn nhất là ô nhiễm nguồn nước và ô nhiễm đất do nước mặn từ biển thâm nhập vào đất liền, cấu tạo một lớp muối trên bề mặt đất trồng trọt. Tại Maldives, có từ 16 đến 17 đảo san hô ṿng (coral reef atoll) bị tràn ngập bởi sóng biển nên hoàn toàn không c̣n nước ngọt và được xem là không thể phục hồi trong vài thập niên tới. Vô số giếng nước phục vụ các cộng đồng dân cư bị vùi lấp bởi đất, cát và nước biển; những tầng nước ngầm (aquifer) bị đá tàng ong xâm lấn. Đất bị ngập nước biển trở nên cằn cỗi, không dễ dàng ǵ mà lại tốn kém nếu muốn phục hồi chúng thành đất nông nghiệp. Nước biển làm chết cây cối và huỷ diệt các loại vi sinh vật rất cần cho đất. Hàng ngàn cánh đồng trồng lúa và nông trang trồng xoài và chuối ở Sri Lanka bị huỷ hoại hoàn toàn và phải mất nhiều năm để phục hồi chúng.
Chương tŕnh Môi trường Liên Hiệp Quốc (UNEP) đang hợp tác với các chính phủ trong vùng xác định độ nghiêm trọng của những tác hại sinh thái và t́m cách định danh (để xử lư) chúng. UNEP đă dành 1 triệu USD cho quỹ khẩn cấp và thành lập một lực lượng đặc nhiệm cho mục đích này. Theo yêu cầu của chính phủ Maldives, chính phủ Úc gởi những chuyên gia sinh thái đến giúp phục hồi môi trường biển và những rặng san hô – là huyết mạch của công nghiệp du lịch Maldives. Phần lớn kiến thức chuyên ngành sinh thái được thu thập từ các hoạt động tại rặng san hô Great Barrier thuộc lănh hải đông bắc Úc.
Những ảnh hưởng khác
Nhiều chuyên gia y tế và nhân viên viện trợ báo cáo về những sang chấn tâm lư sau thảm hoạ sóng thần. Niềm tin lâu đời của cư dân trong vùng đ̣i hỏi họ có bổn phận chôn cất tử tế người chết; điều này trở nên một sự dằn vặt liên lỉ và dần dà h́nh thành những chấn thương tâm lư.
Aceh, vùng gánh chịu sự tàn phá lớn nhất của thảm hoạ, là một xă hội Hồi giáo bảo thủ; ở đây không có du lịch, cũng không có sự hiện diện của người phương Tây trong những năm gần đây v́ sự xung đột vũ trang giữa chính phủ Indonesia và phiến quân ly khai. Nhiều người tin rằng thảm hoạ sóng thần là sự trừng phạt v́ cớ những người Hồi giáo trốn tránh lễ cầu nguyện hằng ngày cũng như theo đuổi một cuộc sống chuộng vật chất, trong khi những người khác tin rằng ấy là do Allah nổi cơn thịnh nộ đối với việc người Hồi giáo tàn sát lẫn nhau.
Chỉ có một điều duy nhất được xem là hệ quả tích cực của sóng thần là nước đă cuốn trôi cát lưu cữu hàng thế kỷ trên những phế tích của thành phố cổ 1.200 năm tuổi tại Mahabalipuram ở bờ biển phía nam Ấn Độ. Phế tích này có những kiến trúc quan trọng như tượng sư tử bằng đá granite chôn nửa thân người, nằm kế cận đền thờ Mahablipuram có từ thế kỷ thứ bảy, và những tượng đắp nổi h́nh một con voi, đây là một phần trong điều mà các nhà khảo cổ tin là một thành phố cảng cổ đại đă bị ch́m sâu dưới đáy biển hàng trăm năm trước.
Alert webmaster - Báo webmaster bài viết vi phạm nội quy
|