Vietnam Single Tim Ban Bon Phuong  


HOME  -  FORUM  -  REGISTER  -  MY ACCOUNT  -  NEW  PHOTOS  -  BROWSE  -  SEARCH  -  POEM  -  ECARD  -  FAQ  -  NCTT  -  CONTACT



Diễn Đàn
 Những chủ đề mới nhất
 Những góp ý mới nhất
 Những chủ đề chưa góp ý

 
NCTT Những chủ đề mới nhất

NCTT Những góp ý mới nhất
NCTT Website


Who is Online
 

 

Forum > Tiếu lâm, truyện cười >> Phố cổ Hội An - thành phố quyến rũ nhất Việt Nam.

 Bấm vào đây để góp ý kiến

1

 Minhxotxa
 member

 ID 38768
 03/21/2008



Phố cổ Hội An - thành phố quyến rũ nhất Việt Nam.
profile - trang ca nhan  posts - bai da dang  email -goi thu   Thong bao bai viet spam den webmaster  edit -sua doi, thay doi edit -sua doi, thay doi  post reply - goy y kien
Những chiếc đèn lồng lung linh, sắc nâu của nhà cổ và cả những đôi dép cói là hình ảnh đặc trưng của phố cổ Hội An (tỉnh Quảng Nam). Đi dạo trên xe đạp, trong sớm mai hay những buổi chiều tà, bạn sẽ có cảm giác bình yên.


Photobucket

Đèn lồng và xe đạp là hình ảnh quen thuộc ở Hội An.


Photobucket

Sắc nâu của nhà cổ, sắc đỏ của đèn lồng và màu xanh miên man của bầu trời.


Photobucket

Du khách có thể tự tay làm một món quà tặng người thân.



Photobucket

Ban ngày, đèn lồng rực rỡ khắp nơi...



Photobucket

... và lung linh khắp những con phố nhỏ xinh xắn.



Photobucket

Dạo phố bằng xe đạp cũng đem lại những niềm vui riêng.



Photobucket

Góc phố này đã xuất hiện trong phim: "Dòng máu anh hùng".



Photobucket

Bạn có thể ngồi bên bến cảng Hội An, ngắm nhìn những con thuyền lững lờ lướt qua.



Photobucket


Hình ảnh con người Hội An được thể hiện ở những bức tranh bán tại các gallery ở Hội An.



Photobucket

Ngoài đèn lồng, những đôi dép cói cũng được du khách chọn làm quà cho người thân.


Photobucket

Chùa Cầu.

Chiếc cầu này được các thương nhân người Nhật Bản xây dựng vào khoảng thế kỷ 17, nên đôi khi người ta còn gọi là cầu Nhật Bản. Theo truyền thuyết, ngôi chùa được coi như là một thanh kiếm đâm xuống lưng con quái vật mamazu, khiến nó không quẫy đuôi, gây ra những trận động đất. Năm 1653, người ta dựng thêm phần chùa, nối liền vào lan can phía Bắc, nhô ra giữa cầu, từ đó người địa phương gọi là Chùa Cầu.

Năm 1719, chúa Nguyễn Phúc Chu thăm Hội An, đặt tên cho chiếc cầu là Lai Viễn, với ý nghĩa là "bạn phương xa đến".

Theo niên đại được ghi lại ở xà nóc và văn bia còn lại ở đầu cầu thì chiếc cầu đã được dựng lại vào năm 1817. Ngôi chùa có lẽ cũng được dựng lại vào thời gian này.

Chùa được trùng tu vào các năm 1817, 1865, 1915, 1986.

Ai đi phố Hội Chùa Cầu
Để thương để nhớ để sầu cho ai
Để sầu cho khách vãng lai
Để thương để nhớ cho ai chịu sầu.


Photobucket
Chùa Phúc Kiến.

Photobucket
Lụa Hội An.

===========================================================
ĐÔ THỊ CỔ HỘI AN
( Di sản văn hóa thế giới )


Hội An cách thành phố Đà Nẵng khoảng 25 về phía Km về phía đông-nam, nằm trên bờ bắc Sài Giang (còn Giang (còn gọi là sông Chợ Củi-vùng hạ lưu sông Thu Bồn), nơi nhiều con sông lớn Quảng Nam hội tụ và đổ ra biển Đông ở Cửa Đại. Vùng đất này có nhiều bến sông, là nơi thuận tiện vận chuyển và tập trung các loại sản vật của đất Quảng để trao đổi, buôn bán với các nơi khác bằng đường thuỷ.
Theo các nhà khảo cổ học, cách nay khoảng 2000 năm đã có một cảng thị sơ khai ở vùng đất Hội An, nhiều di vật được tìm thấy trong các mộ chum và khu cư trú cổ của người Sa Huỳnh, cho thấy dân cư ở đây đã có quan hệ mua bán trao đổi với các nơi khác trong vùng Đông Nam Á từ lâu đời. Dần dần cảng thị này phát triển thành Đại Chiêm Hải Khẩu dưới thời vương quốc Champa, kết quả khảo sát, khai quật khảo cổ học cho thấy dấu vết các bến thuyền của Chiêm cảng xưa còn để lại ở hai bên bờ hạ lưu sông Thu Bồn.
Năm 1570, Nguyễn Hoàng vào trấn thủ Quảng Nam, đã tích cực khai phá vùng đất Đàng Trong, xây dựng làng xóm, phát triển nông - thương nghiệp. Năm 1613, chúa Nguyễn Phúc Nguyên cải cách xã hội, tăng cường việc mua bán với các nước, chuẩn bị lực lượng để đối phó với chúa Trịnh ở Đàng Ngoài.
Trong các thế kỷ XVI-XVII là thời kỳ ở vùng Đông Nam Á có nhiều chuyển biến quan trọng, chính sách ngoại thương của Trung Hoa và Nhật Bản đã ảnh hưởng không ít đến sự phát triển của vùng này, Hội An cũng chịu tác động mạnh mẽ bởi những yếu tố bên ngoài đó.
Nếu căn cứ vào những đồng tiền Ngũ Thù, Vương mãn và một số di vật khác mang yếu tố Trung Hoa được tìm thấy trong các mộ chum ở Hậu Xá và An Bang (1), thì có lẽ người Hoa đã có quan hệ mua bán với những cư dân Sa Huỳnh ở Hội An cách nay khoảng 2.000 năm. Thời kỳ vùng đất này còn thuộc vương quốc Champa, Đại Chiêm Hải Khẩu đã đón tiếp các thương thuyền Trung Hoa vào buôn bán, trao đổi các sản vật, họ thường mua tơ lụa, trầm hương, quế, tiêu..., hoặc lấy thêm lương thực, nước ngọt để đi tiếp đến các nước khác ở Nam Á. Thế nhưng vào giai đoạn trước thế kỷ XVII, người Hoa chỉ dừng chân mua bán chứ không lưu trú, lập nhà phố ở Hội An.
Năm 1649, ở Trung Quốc nhà Thanh diệt nhà Minh, lập ra triều Mãn Thanh, đã dẫn đến sự di cư ồ ạt của người Hoa xuống vùng Đông Nam Á, nhiều người đã định cư ở Hội An.
Vào khoảng cuối thế kỷ XVI - đầu thế kỷ XVII, thương truyền Nhật Bản đã đến buôn bán với Đàng Trong, nhiều thương gia Nhật mở thương quán ở Hội An để buôn bán giao dịch, một số người còn lấy vợ Việt, tuy nhiên thời gian cư trú của người Nhật ở Hội An chỉ kéo dài đến nửa cuối thế kỷ XVII, hầu hết phải trở về Nhật Bản vì chính sách đóng cửa của Nhật Hoàng thời bấy giờ.
Thương thuyền của các nước Bồ Đào Nha, Hà Lan, Anh, Pháp... cũng cập bến buôn bán ở Hội An.
Nhờ vị trí thuận tiện trên đường hàng hải, sự phát triển của kinh tế hàng hóa, chính sách mở cửa của các chúa Nguyễn, sự có mặt của các thương nhân ngoại quốc, nhất là những thương gia Nhật Bản và Trung Hoa định cư ở đây, khiến Hội An trở thành một đô thị - thương cảng quan trọng nhất của xứ Đàng Trong.
Đến đầu thế kỷ XIX, Hội An vẫn còn là nơi buôn bán tấp nập, sách Quốc Triều chánh biên của Quốc sử quán triều Nguyễn ghi: "...Cửa Đại Chiêm thuyền bè xum họp, chợ phố Hội An hàng hóa nhóm đầy, thực là nơi đô hội lớn..."(1).
Cuối thế kỷ XIX, sông Thu Bồn đổi dòng ở vùng cửa sông, Cửa Đại bị phù sa bồi lấp, làm cho thuyền bè đi lại khó khăn, trong khi đó Đà Nẵng trở thành nhượng địa của Pháp, thương thuyền nước ngoài chỉ vào cửa Hàn, từ đó công việc buôn bán ở Hội An dần dần sa sút.
Hơn 3 thế kỷ tụ cư ở Hội An, dấu ấn của văn minh Trung Hoa để lại ở đây khá rõ nét, về tín ngưỡng, có tục lệ thờ Thiên Hậu Thánh Mẫu, Quang Thánh Đế Quân, Thập Nhị Tiên Nương, Thái Thượng Lão Quân, Thần Phục Ba... nhiều công trình kiến trúc được làm theo phong cách Trung Hoa, thậm chí có những bộ phận kiến trúc được chở từ Trung Quốc sang, các đề tài trang trí điêu khắc như Thập Bát La Hán, Bát Tiên, cuốn thư, bát bửu, mặt hổ phù, dơi, chữ thọ...
Sự hiện diện của người Nhật Bản ở Hội An thật rõ ràng, nhưng cho đến nay, chưa thể xác định vị trí cũng như quy mô của "phố Nhật", bởi lẽ, ngoài những mộ người Nhật nằm ở vùng ven thị xã, và Chùa Cầu, còn gọi là cầu Nhật Bản, những kiến trúc mang phong cách Nhật Bản quá mờ nhạt. Tuy nhiên, một số nhà nghiên cứu cho rằng khu phố Nhật xưa kia nằm trên đường Trần Phú (2). Theo Chihara Daigoro thì những ngôi nhà Nhật Bản ở Hội An vẽ trong "Giao Chỉ quốc mậu dịch độ hải đồ" cùng một dạng với kiến trúc cùng thời tại Nagasaki (1).
Nếu so sánh với một số đô thị và thương cảng cổ của Việt Nam, thì Hội An không phải là cổ xưa nhất, về quy mô cũng không phải là lớn nhất, thời gian thịnh đạt của nó chỉ khoảng hơn 2 thế kỷ, nhưng trong quá trình giao lưu và hội nhập văn hóa, Hội An đã hình thành một sắc thái riêng: vừa có những nét chung của một đô thị - thương cảng cổ Việt Nam, vừa có những nét riêng biệt độc đáo, thể hiện qua phong tục tập quán, kiến trúc điêu khắc. Đặc biệt là dù trải qua bao biến đổi của lịch sử, sự tàn phá của thiên nhiên và chiến tranh, vẫn không làm mất đi dáng vẻ của một đô thị - thương cảng cổ, vẫn còn đó những bến tàu, đình, chùa, hội quán, nhà ở...hợp thành một quần thể kiến trúc cổ tương đối nguyên vẹn ở Hội An.
+ Nhà ở: Trong các loại hình kiến trúc tại Hội An, trước hết phải nói đến nhà ở, là những đơn vị cơ bản để hình thành một đô thị. Có 2 dạng nhà phổ biến là "Nhà Phố" và "Nhà Rường".
- Nhà Phố: Nằm san sát nhau thành từng dãy dài, chiều ngang mỗi ngôi nhà chỉ 5-6m, nhưng chiều sâu có thể lên đến 30-40m, phần lớn những ngôi nhà này phân bố ở các trục đường Trần Phú, Nguyễn Thái học, Bạch Đằng, Nguyễn Thị Minh Khai,...hình thành nên khu phố cổ.
Mặt bằng Nhà phố được chia thành 2 phần: phía trước dùng làm nơi buôn bán, giao dịch, phía sau là nơi ở và kho chứa hàng, sân sau có cổng thông ra ngoài . Kết cấu nhà khung gỗ, có từ 2 đến 4 gian, bộ vì kèo thông thường theo kiểu "chồng rường giả thủ" và "cột trốn kẽ chuyền", mái lợp ngói âm dương, tường được xây bằng gạch nhưng ở 2 bên tường vẫn có vách gỗ. Nhà xây cao nhất là 2 tầng hoặc một tầng có gác lửng, cửa ra vào các ngôi nhà cổ ở Hội An đều có gắn bộ phận "Mắt cửa", đó là phần chốt gỗ được chạm trổ những hình Bát quái; hoa 8 cánh có nhụy là vòng tròn lưỡng nghi..."Mắt cửa" là một nét độc đáo của nghệ thuật Hội An.
- Nhà rường: phân bố rải rác ở các vùng lân cận khu phố cổ (ở các xã Cẩm Châu, Cẩm Nam, Cẩm Hà...), về mặt bằng, kết cấu bộ khung gỗ giống như các ngôi nhà cổ truyền khác của Việt Nam. Nhà 3 gian 2 chái hoặc 1 gian 2 chái, phía trước là sân rộng, xung quanh có vườn cây.
+ Nhà thờ tộc: có mặt bằng hình chữ nhật, với 3 gian 2 chái hoặc 5 gian 2 chái. Bộ khung gỗ của ngôi nhà kết cấu kiểu nhà rường, vì kèo chủ yếu là "cột trốn kẽ chuyền" có nơi kết hợp thêm "chồng rường giả thủ". Tuy về kết cấu và mặt bằng giống như nhà để ở, nhưng nội thất nhà thờ tộc bài trí bàn thờ ở cả 3 gian chính. Trong số các nhà thờ tộc ở Hội An có thể kể đến nhà thờ tộc Nguyễn ở Cẩm Hà, tộc Trần Thanh ở Cẩm phô, tộc Trần ở đường Lê Lợi, tộc Trương ở đường Phan Châu Trinh, tộc Phạm ở đường Trần Phú...Các nhà thờ tộc ở Hội An đều có nguồn gốc xây dựng từ lâu đời, nhưng qua nhiều lần tu sửa hoặc xây lại, các công trình tồn tại đến nay có niên đại khoảng thế kỷ XIX-đầu thế kỷ XX.
+ Đình: Phần lớn các ngôi đình ở Hội An là nơi thờ Tiền hiền, có nơi kết hợp thờ Thành Hoàng và Tiền hiền. Đình được xây dựng trong khu dân cư, phía trước thường có sông hoặc lạch nước. Đình có mặt bằng hình chữ nhật, kết cấu khung gỗ, mái lợp ngói âm dương, trên bờ đắp nổi hình "lưỡng long tranh châu" hoặc "song phụng triều nguyệt".
- Đình Xuân Mỹ: là ngôi đình có niên đại sớm nhất ở Hội An, theo tấm bia của đình và một số văn tự, địa bạ của làng Xuân Mỹ có thể biết được đình được xây dựng vào khoảng giữa thế kỷ XVII, được trùng tu nhiều lần nhưng vẫn giữ được những nét truyền thống của đình cổ Việt Nam. Đình thờ Thành Hoàng bổn xứ và Tiền hiền như phái tộc trong làng.
- Đình Ông Voi: (Hội An đình) Căn cứ vào các di vật của đình, có thể xác định đây là đình làng Hội An, một trong những ngôi đình xuất hiện sớm trong vùng, chưa rõ năm xây dựng, chỉ biết đình được trùng tu vào năm Đinh Mùi, triều vua Thành Thái (1970).
- Đình Cẩm Phô: được xây dựng rất sớm nhưng chưa rõ niên đại, năm trùng tu sớm nhất là 1818 (Gia Long thứ 17). Phía trước chính điện là tiền đình (phương đình) có 4 mái, mỗi đầu kèo chạm hình lồng đèn, chính điện có 5 gian. Trước đây thờ Bà Đại Càn và các vị thần sông nước, về sau kết hợp thờ Tiền hiền của làng.
- Đình Tiền hiền Cẩm Kim: gắn liền với quá trình hình thành và phát triển của làng mộc Kim Bồng, được xây dựng vào khoảng cuối thế kỷ XVI, đình được trùng tu nhiều lần. Các cấu kiện gỗ trong công trình được chạm trổ tinh tế bởi tài năng của các nghệ nhân làng mộc Kim Bồng.
+ Chùa: Hội An là một trung tâm Phật giáo lớn ở miền Trung. Đa số các chùa ở Hội An thuộc dòng Lâm Tế của Tịnh Độ Tông, từ Trung Hoa truyền sang vào thế kỷ XVII.
- Chùa Chúc Thánh: nằm ở xã Cẩm Hà. Chùa có bố cục mặt bằng kiểu "Tiền công hậu quốc", là sự kết hợp hài hòa hai phong cách kiến trúc Việt Nam và Trung Hoa, với nhiều đồ án trang trí được chạm trổ công phu. Thiền sư Minh Hải thuộc dòng Phật giáo Lâm Tế đã dựng ngôi chùa vào năm 1684, ban đầu chỉ là một thảo am đơn giản, về sau các đệ tử của ông đã xây dựng lại bề thế cho phù hợp với vị trí là chùa Tổ của một môn phái. Quanh chùa có 16 ngôi mộ tháp của các vị Trụ trì đã viên tịch, nổi bật là ngôi bảo tháp của tổ sư Minh Hải.
- Chùa Vạn Đức: nằm ở thôn 2 xã Cẩm Hà, Ban đầu ngôi chùa chỉ là một thảo am tranh tre, do thiền sư Minh Lượng trụ trì, được dựng vào khoảng cuối thế kỷ XVII (Sư Minh Lượng là đệ tử đời thứ 33 của dòng Lâm Tế, sư đệ của thiền sư Minh Hải). Ngôi chùa được mở rộng và xây dựng bằng vôi gạch vào đầu thế kỷ XVIII, đã qua nhiều lần trùng tu nhưng ngôi chùa vẫn giữ vẻ trang nghiêm cổ kính.
- Chùa Phước Lâm: thuộc thôn 2 xã Cẩm Hà. Chùa được xây dựng vào đầu thế kỷ XVIII, do thiền sư Minh giác - đệ tử đời thứ 35 dòng Lâm Tế làm trụ trì. Mặt bằng công trình được bố trí kiểu chữ "môn", do người làng mộc Kim Bồng xây dựng. Công trình chính có gác chuông ở hai đầu, mái chồng diềm, bờ nóc hình thuyền, lợp ngói âm dương, trên bờ nắp đắp nổi hình " lưỡng long tranh châu".
- Chùa Viên Giác: tọa lạc tại phường Cẩm Phô. Nguyên trước kia, ngôi chùa được dựng tại Xuyên Trung gọi là chùa Cẩm Lý, nằm sát bờ sông, khu đất này bị nước sông làm xoá lở, do đó dân làng đã dời chùa về vị trí hiện nay vào năm 1841 và đổi tên là Viên Giác Tự. Ban đầu là chùa làng, năm 1950 chùa được Giáo hội Phật giáo địa phương quản lý.
- Chùa Kim Bửu: thuộc bộ phận làng Kim Bồng (thôn 3, xã Cẩm Kim). Hiện chưa biết chính xác năm xây dựng chùa, đây là một ngôi chùa làng, gắn liền với sự hình thành và phát triển của làng mộc Kim Bồng, do đó có thể chùa được xây dựng vào thế kỷ XVII. Công trình chính gồm 3 gian 2 chái, bộ vì kèo kiểu "cột trốn kẽ chuyền", các cấu kiện gỗ được chạm trổ rất tinh tế bởi tài năng của người làng mộc Kim Bồng.
- Chùa Bà: (Quan Âm Phật Tự) nằm ở góc đường Nguyễn Huệ - Trần Phú. Chưa biết chính xác năm xây dựng, tuy nhiên theo tấm bia trùng tu năm Qúi Dậu (1753) có ghi: "...Quan Thánh đế miếu và Quan Âm Phật Tự bổn xã được xây dựng 100 năm trước...". Chùa có mặt bằng theo chữ " nhất ", tam quan nằm ở bên phải chùa. Kết cấu bộ vì kèo chính kiểu "chồng rường giả thủ", ngoài hiên sát mép ngói có cấu kiện gỗ " lồng đèn " chạm hoa sen, rồng, lân... Chùa có 7 bộ cửa gỗ kiểu "thượng song hạ bảng" phần bảng chạm nổi hình "tứ linh" (Long, Ly, Quy, Phụng), chim, thú... Hiện nay mặt bằng chùa được tận dụng để trưng bày một số hiện vật có liên quan đến lịch sử - văn hóa Hội An.
- Chùa Ông: (Quan Công Miếu) là miếu thờ Quan Vân Trường (Quan Công) một võ tướng nổi tiếng Trung nghĩa thời Tam Quốc (Trung Hoa), được tôn thờ là Quan Thánh Đế Quân. Cũng như chùa Bà, Quan Công Miếu được xây dựng vào thời gian trước năm 1653. Kiến trúc được trùng tu nhiều lần, bố cục mặt bằng theo chữ "Quốc", bộ vì kèo "chồng rường giả thủ", ở hành lang kết cấu vì "vỏ cua", các cấu kiện gỗ chạm trổ hoa sen, lá lật, mây cuộn... Mái lợp ngói ống tráng men.
- Chùa Cầu: còn gọi là "Cầu Nhật Bản", "Lai Viễn Kiều". Cầu được xây dựng vào khoảng đầu thế kỷ XVII, bắt ngang qua một con lạch, nối liền hai khu dân cư. Các thương nhân Nhật Bản đã cấp kinh phí và vẽ thiết kế để thợ Việt Nam thi công. Cầu được làm theo kiểu "thượng gia, hạ kiều", bộ vì kèo kiểu "chồng dấu con sơn", hai gian đầu cầu được xây nhô ra rộng hơn mặt cầu, 2 gian này hợp với 7 gian giữa thành chữ "công", bộ vì kèo của hai gian đầu thuộc loại vì "vỏ cua". Mái lợp ngói âm dương, bờ nắp đắp nổi hình "lưỡng long tranh châu" cách điệu. Hai đầu cầu thờ 2 cặp tượng khỉ và chó bằng gỗ, trên vách gắn 4 tấm bia ghi lại những lần trùng tu.
Năm 1653, người ta dựng thêm phần chùa, nối liền vào lan can phía bắc, nhô ra ở giữa cầu, từ đó người địa phương gọi là Chùa Cầu. Bộ vì kèo của chùa theo kiểu "cột trốn kẻ suốt". Trên cửa gắn bức hoành chạm nổi 3 chữ Hán "Lai Viễn Kiều", được làm từ năm 1719. Trong chùa không thờ Phật mà thờ Bắc Đế Trấn Võ. Chùa Cầu đã được trùng tu nhiều lần nhưng vẫn giữ được những yếu tố gốc và dáng vẻ cổ kính.
- Hội quán: là loại hình kiến trúc mang tính cộng đồng của người Hoa, là nơi thờ các vị thần, tiền hiền và sinh hoạt đồng hương. Mặt bằng chung của các hội quán gồm: phía trước có một khoảng sân, hai bên có nhà phục vụ, "phương đình" là nơi tiến hành các nghi lễ, sau cùng là nơi bài trí các bàn thờ. Bộ khung gỗ của kiến trúc được chạm trổ công phu, cầu kỳ, sơn son thép vàng, mái lợp ngói âm dương. Các hội quán ở Hội An đã được tu sửa nhiều lần, nhưng bộ khung gỗ vẫn bảo lưu được những yếu tố gốc.
- Hội An có 5 bộ phận người Hoa, thường gọi là Ngũ Bang: Phúc Kiến, Triều Châu, Quảng Đông, Hải Nam, Gia Ứng.
- Phúc Kiến Hội Quán; còn gọi là chùa Phúc Kiến, nằm trên đường Trần Phú. Ban đầu là Kim Sơn Tự, năm 1757 Bang Phúc Kiến tu bổ và mở rộng thành Hội quán của Bang, thờ Quan Thế Âm Bồ Tát và Thiên Hậu Thánh Mẫu, hai bên thờ Thiên Lý Nhãn và Thuận Phong Nhĩ, ở chính điện trưng bày mô hình một chiếc thuyền của các thương nhân Trung Hoa dùng để đi biển trước đây. Hậu điện thờ Lục Tánh (6 vị thần bảo hộ của người Phúc Kiến), Thần tài, ba Bà Chúa Sanh thai và 12 Bà Mụ.
So với các hội quán khác ở Hội an, Phúc Kiến hội quán có không gian rộng và sâu nhất, bố cục mặt bằng kiểu "nội công ngoại quốc". Bộ vì kèo tiền điện của 'chồng ruờng giả thủ", nhiều bức chạm lộng, chạm nổi hoa lá, điểu thú rất sinh động.
- Triều Châu Hội quán: còn được gọi là chùa Ông Bổn, nằm trên đường Nguyễn Duy Hiệu, xây dựng vào năm 1845, đã được tu sửa nhiều lần. Mặt bằng kiến trúc kiểu "nội công ngoại quốc", bộ vì kèo "chồng rường giả thủ". Các cấu kiện gỗ được chạm trổ các đề tài Tứ Linh, Long Mã, điểu thú, hoa lá. Vị thần chính được thờ là thần Phục Ba - vị thần chinh phục sóng gió, về sau được đồng hóa với Phục Ba tướng quân, do đó thờ cả bài vị Mã Viện.
- Hải Nam Hội quán: còn được gọi là chùa Hải Nam, Quỳnh Phủ Hội quán, tọa lạc trên đường Trần Phú. Hội quán được xây dựng vào thế kỷ XIX. Bố cục mặt bằng kiến trúc kiểu chữ "quốc". Bộ vì kèo gồm ba rường thượng, trung, hạ, các thanh rường được liên kết với nhau bằng các "con kê"; là bộ phận chịu lực thay cho "cột trốn". Thần chủ của hội quán này là 108 người Hoa vùng Hải Nam bị chết oan ở vùng biển Thuận Quảng, sau được vua Tự đức ban sắc giải oan.
- Dương Thương Hội quán: còn được gọi là Trung Hoa Hội quán hoặc chùa Ngũ Bang, di tích nằm trên đường Trần Phú. Người Hoa thuộc 5 bang: Phúc Kiến, Triều Châu, Quảng Đông, Hải Nam và Gia Ứng đã cùng nhau xây dựng một hội quán chung vào khoảng đầu thế kỷ XVIII. Vị thần chủ được thờ là Thiên Hậu Thánh Mẫu.
+ Lăng, Miếu: thường có quy mô không lớn. Miếu nằm trong khu dân cư, còn lăng được xây dựng trên những cồn cát, gò đất ven sông hoặc bờ biển.
- Văn Thánh Miếu: có Văn Thánh Minh An và Văn Thánh Cẩm Phô, nơi thờ đức Khổng Tử và các nho đỗ đạt cao trong vùng.
- Miếu tổ nghề: có miếu tổ nghề gạch - gốm ở Nam Diêu (Nam Diêu Tổ miếu), miếu thờ tổ nghề khai thác yến sào ở Cù Lao Chàm.
- Miếu Ngũ Hành: còn gọi là Miếu Bà, thờ Ngũ Hành Tiên Nương.
- Miếu Âm Linh: thờ các chiến sĩ trận vong, oan hồn - uổng tử.
- Lăng Bà: thường thờ các vị thần Champa được Việt hóa như Lăng Bà Lồi (Cẩm Thanh), Lăng Bà Vàng hoặc Bà Dàng (Cẩm Hà).
- Lăng Ông: là nơi cư dân vùng cửa sông - ven biển lập nên để thờ cá Voi. Các ngư dân cho rằng cá voi là loài cá hay giúp đỡ họ khi bị nạn trên biển , do đó tôn làm cá Ông.
Nhìn chung các kiến trúc gỗ còn lại ở Hội An có niên đại vào khoảng thế kỷ XVII-XIX, một số di tích vẫn lưu giữ được những cấu kiện gỗ thuộc thế kỷ trước. Những kiến trúc này hầu hết được thực hiện bởi bàn tay của những người thợ mộc làng Kim Bồng.
Sự kết hợp nghệ thuật Việt - Hoa, đã tạo nên một phong cách riêng ở Hội An.
Với giá trị lịch sử - văn hóa nổi bật, Hội An đã được Bộ Văn hóa ra quyết định công nhận di tích số 506-VH/QĐ, ngày 19-3-1985. Từ đó đến nay đã có 2 cuộc hội thảo khoa học quốc gia và quốc tế về đô thị cổ Hội An. Nhiều nhà khoa học trong và ngoài nước liên tục đến Hội An để nghiên cứu về các lĩnh vực kiến trúc, lịch sử, khảo cổ học, nghệ thuật... Nơi đây còn là điểm tham quan hấp dẫn, thu hút nhiều khách du lịch trong và ngoài nước.
Hội An có những dãy phố cổ gần như nguyên vẹn, đó là loại nhà hình ống xuyên suốt từ phố nọ sang phố kia. Trong đó có một dãy phố nằm sát ngay bờ sông Hội An. Nhà ở đây toàn bằng gỗ quý, trong nhà treo hoành phi, câu đối, cột nhà trạm trổ hoa văn rất cầu kỳ... Hội An là một bảo tàng sống, khu phố cổ đã được UNESCO công nhận là Di sản văn hoá thế giới.














Alert webmaster - Báo webmaster bài viết vi phạm nội quy
 

 sauvanco
 member

 REF: 319434
 03/21/2008

  profile - trang ca nhan  posts - bai da dang  email - goi thu  Thong bao cam nhan spam den webmaster  edit - sua bai, thay doi  edit - sua bai, thay doi post reply - goy y kien, dang bai
hoi an la khu pho co nhung khong nhu ban da pho truong dau, biet do la di tich pho cu hoi an, nhung tren the gioi con rat nhieu khu pho co, va cung la kho tang lich su cua nhan loai tao nen, mong rang hoi an nhan duoc tien cua lien hiep quoc tai tro roi dung bo tui rieng so tien tai tro do ma mai mai de so tien do trung tu lai di tich su cua nhan loai con de lai cho hau the biet den khu pho co hoi an
sauvanco


 
  góp ý kiến

 
   

  Kí hiệu: : trang cá nhân :chủ để đã đăng  : gởi thư  : thay đổi bài  :ý kiến

 
 

 


Nhà | Ghi danh Thành Viên | Thơ | Hình ảnh | Danh Sách | Tìm | Diễn đàn | Liên lạc | Điều lệ | Music | Link | Advertise

Copyright © 2024 Vietnam Single & Tim ban bon phuong All rights reserved.
Hoc Tieng Anh - Submit Website Today - Ecard Thiep - Hot Deal Network