Kequaduong
guest
ID 7844
10/20/2005
|
Bạn suy luận xem sao?
Tôi thấy các bác có nhiều bài toán cấp hai đem ra đố nhau quá. Chắc giải toán mệt rồi, giờ tôi đố các bác câu này, không phải giải một phép giải nào nhưng cũng đau đầu ra phết đấy nhé:
Tại sao nước Việt xưa bị đô hộ bởi giặc Tàu 1000 năm mà không bị đồng hoá?
Các bác giải thích coi. Vui thôi mà, ^!^
Alert webmaster - Báo webmaster bài viết vi phạm nội quy
|
|
minhtuantcs83
member
REF: 57950
10/20/2005
|
Rơ ràng sau hàng ngh́n năm đô hộ th́ xă hội người Việt Nam có ảnh hưởng ít nhiều về văn hoá và con người .C̣n bị "đồng hoá" th́ chắc chắn là ko rồi .Vui vẻ thôi hihihi
|
|
guest
guest
REF: 57951
10/20/2005
|
V́ nước TQ không ăn nước mắm
|
|
Tui ne...
guest
REF: 57954
10/20/2005
|
Nghe cái giọng tưởng là cấp 3 trở lên, không dè đố câu đố lăng xẹt không có cấp nào cả.
Choáng !!!!!
1000 năm nô lệ giặc Tàu
100 năm đô hộ giặc Tây.
20 năm nội chiến từng ngày...
Th́ giờ đâu mà đồng hoá nữa chứ...
|
|
cobengoc811
member
REF: 57975
10/21/2005
|
hỏi vui th́ cũng trả lời vui luôn nhé..hi`hi`hi`
Uhmm tại v́ Trung Quốc bèo hơn VN tức là không có ǵ cả nên Vn không bị "đồng hoá" ...phải nói là Trung Quốc là con số 0 to tướng trước mặt VN ..h́ hh́ h́
|
|
Chantrau
guest
REF: 57976
10/21/2005
|
Xin cho tôi can!!bạn tui nè sao lại nặng lời vậy???Bạn thất vọng là chỉ v́ bạn vững tin rằng càng học nhiều "cấp"th́ câu đố càng hay phải không??Nếu mà không học được"cấp" nào hết như tôi đây th́...chẳng ra cơm cháo ǵ hết??Thôi th́ tôi bấm gan đố bạn một câu..:Thái độ hoà nhă,nhân hậu và ḷng vị tha có đi chung với sự học vấn không???Nếu có th́ người ta phải học hêt"cấp" mấy mới hấp thụ được điều quư giá ấy????Tôi mong rằng câu hỏi mộc mạt nầy không bị coi là CHOÁNG
Thân ái
Chăn trâu
|
|
Tui ne
guest
REF: 57993
10/21/2005
|
Xin Bác Chăn Trâu đọc lại KQĐ, Tui Ne thấy dị ứng khi ḿnh nghe KQĐ chia cấp nọ cấp kia , nên TUI NE chỉ phê và tự phê chút chút thôi , chứ lkhông có ư ǵ cả.
Càng ca ḿnh th́ ḿnh càng cô lập.
Vậy nha.
|
|
hanoigib
guest
REF: 58004
10/21/2005
|
Chào tất cả các bạn!
Đây là câu hỏi tuy chưa được chính xác nhưng rất hay và có ư nghĩa, một vấn đề lớn về lịch sử và văn hoá Việt Nam ta. Tôi đề nghị các bạn nên nghiêm túc khi hỏi và trả lời những câu hỏi như thế này, nhằm mục đích nâng cao trí thức, không đùa cợt và cũng không để cho vui.
Việt Nam bị nhà Hán đô hộ 1024 năm, cụ thể:
- Từ năm 207TCN-39
- Từ năm 43-543
- Từ năm 603-938
- Từ năm 1414-1427
Bị đô hộ lâu như vậy, tất nhiên không tránh khỏi sự ảnh hưởng về tất cả mọi phương diện, nhưng không bị đồng hoá v́ đặc điểm, tính chất của môi trường sống phương nam + văn minh lúa nước đă tạo nên những nét khác biệt không thể phủ nhận:
- Văn minh + văn hoá Việt Nam thiên về tĩnh, tín ngưỡng đa thần = lúa nước.
- Văn minh + văn hoá Phương Bắc thiên về động, theo tôn giáo = du mục.
Để hiểu sâu thêm các bạn t́m đọc các sách:
- Đại Việt Sử Kư Toàn Thư của Ngô Sỹ Liên, Phan Phù Tiên...
- Việt Nam Sử Lược của Trần Trọng Kim
- T́m về bản sắc văn hoá Việt Nam của Trần Ngọc Thêm
- Văn hoá Việt Nam t́m ṭi và suy ngẫm của Trần Quốc Vượng
.....
Rất vui ḷng trả lời tất cả các câu hỏi về lịch sử Việt Nam của các bạn.
Thân mến.
|
|
Ông Trẻ
guest
REF: 58006
10/21/2005
|
Tôi rất đồng ư với nhận định cuả hanoigib, về thái độ cuả người tham gia đối với câu hỏi như cuả KẻQuaĐường.
Trở lại chuyện nước ta bị Tàu đô hộ hàng 1000 năm, mà không bị đồng hoá, tôi thấy đây cũng là một cách nói để khơi dậy tinh thần dân tộc, nhiều hơn là một khẳng định mang tính tuyệt đối.
Theo tôi, ḿnh không bị đồng hoá, ở đây có nghiă là ḿnh không nói tiếng Tầu, không viết chữ Tầu, (như tại bất cứ phần nào trên đất Tầu cuả ngày hôm nay), và vẫn giữ lại một số lớn những phong tục cuả ḿnh, một cách tương đối.
Nổi bật nhất là ta hăy so sánh với nhiều nước tại châu Á, châu Phi, Trung Mỹ, Nam Mỹ, bị thực dân Anh, Pháp, Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha, Hoà Lan đô hộ, đâu tới 1000 năm, mà ngôn ngữ đă mất sạch!
Thân ái
|
|
chantrau
guest
REF: 58013
10/21/2005
|
Cho tôi xin lỗi nhe bạn tui ne.Tôi hiểu lầm bạn
chân t́nh.
Chăn trâu.
|
|
Kequaduong
guest
REF: 58016
10/21/2005
|
Kakakaka,
Thế mới biết ḷng tự trọng của dân Việt ta cao phết đấy nhỉ. Có lẽ đây là lí do mà dân Việt ta không bị đồng hoá chăng-ai biết được. Tôi chỉ có nhắc lại lời của rất nhiều cao thủ ra câu đố thôi; nào là bài này bài toán lớp 7, lớp 4... Tại sao lúc nghe như thế không thấy ai phản ứng, cắm đầu cắm cổ vào giải toán; vậy mà lại phản ứng với tôi nhỉ?
C̣n câu hỏi của tôi là nghiêm túc đấy. Quả thực tôi đă suy nghĩ về điều này từ rất lâu mà vẫn không hiểu được. Một dân tộc đứng vững được qua bao nhiêu thử thách như thế phải có một nền tảng ǵ chứ. Theo tôi đấy là nền tảng về văn hoá và triết học. Nhưng có bằng chứng nào chứng minh cho suy nghĩ của tôi không nhỉ? Chắc một ai đó trong các bạn biết điều đó. Xin hăy chia xẻ!
"Dân ta phải biết sử ta"- Hồ Chí Minh
|
|
lang thang
guest
REF: 58027
10/21/2005
|
lịch sử nước ta th́ phải nói rằng rất tự hào không chưa đủ, nhưng lả phải rất tự hào, rất... rất..., tuy nhiên, không ít th́ nhiều, lịch sử VN sau 75 đă có phần nào bị bóp méo sự thật. buồn lắm thay.
|
|
hanoigib
guest
REF: 58045
10/21/2005
|
Thưa các bạn!
Tôi KHÔNG có ư định tranh luận hay khơi gợi ḷng tự hào dân tộc trên diễn đàn này, v́ diễn đàn này không thích hợp lắm cho những việc "đao to búa lớn" đó.
Tôi chỉ muốn tất cả mọi người nh́n nhận ĐÚNG vấn đề và có trách nhiệm với những phát ngôn của ḿnh.
Đó chính là văn hoá, ḷng tự tôn của mỗi người Việt Nam
Thân mến
|
|
langtu123
member
REF: 58046
10/21/2005
|
Đă trả lời Kequaduong về truyện Kiều; tôi xin mạo muội trả lời nốt câu hỏi này của bạn. Như một sự t́nh cờ, tôi đă đọc được bài viết về nguồn gốc Kinh Dịch từ đâu và rất ngỡ ngàng khi tác giả của bài viết cho rằng Kinh Dịch có nguồn gốc từ dân tộc Lạc Việt cổ xưa và đưa ra những chứng cứ khá thuyết phục. Sau khi bài viết được đăng, đă có bài phản hồi nói rằng có những nhân sĩ trong dân gian nói với họ rằng Kinh Dịch là của người Việt nam, người phương Bắc khi xâm chiếm đă học được và phát triển nó thành một hệ thống. Một ngàn năm Bắc thuộc mà không bị đồng hoá, không những thế lại sản sinh ra chữ Nôm. Một ngàn năm sau chinh chiến liên miên với giặc Tàu nhưng chưa bao giờ chịu khuất phục. Chúng ta cũng biết rằng vơ học của Trung Quốc rất tinh thâm và ít nhiều chúng ta cũng hiểu nền tảng của nó cũng dựa vào Kinh Dịch và Ngũ hành. Nhưng khi sang Việt nam lại bị những anh hùng như Phạm Ngũ Lăo, Yết Kiêu, Dă Tượng; các danh tướng nhà Tây Sơn đánh bại. Những vị anh hùng áo vải ở thôn quê này phải chăng thuộc những ḍng vơ Việt được xây dựng trên nền tảng của Kinh Dịch Việt? Phải chăng suốt chặng đường dựng nước và giữ nước của Việt nam là do có nền tảng Triết học Kinh Dịch dẫn đường? Nếu quả thực vậy, th́ dân tộc đó sẽ không chịu một thế lực nào đứng trên đầu trên cổ cả. Pháp lấy cớ khai hoá thuộc địa cũng chẳng thể ở lại lâu. Mỹ lấy tiếng ǵn giữ tự do cho cả thế giới cũng chẳng thể ở lại mà chỉ mang thêm tiếng xấu là đă dùng quá nhiều bom đạn ở Việt nam, đă thải quá nhiều chất độc da cam xuống đất nước Việt nam. Hàng trăm ngàn người dân Việt đang phải chịu hậu quả của chất độc da cam; chắc các bạn không quên chứ? Những nước khác như Nhật, Hàn Quốc, Philippin chịu để Mỹ đóng quân một thời gian đă hiểu rằng đất nước của họ không thể để quân nước ngoài chiếm đóng như vậy. Họ hiểu ra muộn hơn nhân dân Việt nam rất nhiều.
Vài ư kiến mạo muội, rất mong được sự góp ư của các bạn có hiểu biết sâu sắc về vấn đề này.
Mời các bạn đọc bài về nguồn gốc Kinh Dịch dưới đây:
Kinh Dịch - di sản sáng tạo của Việt Nam?
16:40:40, 06/07/2004
Đă có khá nhiều công tŕnh nghiên cứu của các học giả Việt Nam về Kinh Dịch, trong số đó có một công tŕnh đặt lại vấn đề " tác quyền" của bộ Kinh này. Đó là học giả Nguyễn Thiếu Dũng, qua nhiều t́m ṭi và nghiên cứu, ông đă nêu ra một số chứng lư để minh chứng rằng Kinh Dịch là sáng tạo của người Việt Nam. Với sự thận trọng cần thiết, Thanhnien Online xin giới thiệu bài viết sau đây của học giả Nguyễn Thiếu Dũng để rộng đường tham khảo.
Từ hai ngh́n năm trước khi chúng ta bị phong kiến phương Bắc đô hộ, tổ tiên chúng ta ở thời đại Hùng Vương đă sáng tạo Kinh Dịch và dùng học thuyết này xây dựng nền tảng cơ bản cho văn hoá Việt Nam, nhờ thế trong suốt một ngh́n năm lệ thuộc Trung Hoa, chúng ta vẫn đứng vững không bị đồng hoá như các dân tộc ở Hoa Nam.
Người Trung Hoa không biết từ thời điểm nào đă tiếp thu được Kinh Dịch của Việt Nam và họ cũng đă dùng Kinh Dịch để góp phần xây dựng nền tảng văn hoá của họ. Cho nên trong sinh hoạt, chúng ta có nhiều điểm giống họ, sau một ngh́n năm mất chủ quyền, ta mất luôn tác quyền Kinh Dịch và những ǵ ta nghĩ, ta làm thấy giống Trung Hoa ta đều tự nhận ḿnh học của Trung Hoa. Kỳ thật không phải như vậy. Người Trung Hoa rất trọng hướng Đông, khi họ tiếp khách, chủ nhà ngồi quay mặt về hướng Đông để tỏ chủ quyền. Trong thời lập quốc họ luôn luôn hướng về biển Đông, không kể Nam Kinh những Kinh đô danh tiếng của Trung Quốc đều lần lượt nối nhau tiến dần từ Tây Bắc sang Đông. Ngày nay những thành phố lớn của họ cũng đều tập trung ở bờ Đông. Thế mà trong Kinh Dịch họ phải công nhận hướng Nam là hướng văn minh, mặc dầu trong sử sách họ vẫn cho Hoa Nam là xứ man di. Mỗi khi cần bói Dịch họ đặt Kinh Dịch trên bàn thờ cho quay mặt về hướng Nam như hướng ngồi của Hoàng đế, rồi lạy bái cầu xin. Cử chỉ này cho thấy trong tiềm thức họ không quên nguồn gốc Kinh Dịch đến từ phương Nam, từ đất nước của các vua Hùng.
Trong ṿng 60 năm trở lại đây một số nhà nghiên cứu Việt Nam đă trực giác thấy rằng Kinh Dịch là tài sản của Việt Nam nhưng khi nói như thế họ vẫn chưa thoát khỏi sự ràng buộc của truyền thuyết nên vẫn thừa nhận Phục Hy là nhân vật sáng tạo Kinh Dịch. Cho nên không tránh được mâu thuẫn.
Ngày nay chúng ta có đầy đủ chứng lư để nói ngay rằng Kinh Dịch là sản phẩm của Việt Nam, do chính tổ tiên người Việt sáng tạo, trên chính quê hương Việt Nam với nhiều bằng chứng vật thể c̣n lưu dấu trên đồ gốm Phùng Nguyên, đồ đồng Đông Sơn. Phục Hy, Văn Vương chưa từng làm ra Dịch.
1) Chứng lư vật thể: Kinh Dịch xuất hiện tại Việt Nam một ngh́n năm trước khi có mặt tại Trung Quốc:
Tại di chỉ xóm Rền, thuộc nền Văn hoá khảo cổ Phùng Nguyên, các nhà khảo cổ đă đào được một chiếc nồi bằng đất nung (11, tr 642) trên có trang trí bốn băng hoa văn, mỗi băng nầy tương đương với một hào trong quẻ Dịch, theo phép đọc Hổ thể th́ đây chính là h́nh khắc của quẻ Lôi Thuỷ Giải. Đây có thể xem là chứng tích xưa nhất trên toàn thế giới hiện chúng ta đang có được về Kinh Dịch. Chiếc nồi báu vật vô giá này mang trên ḿnh nó lời cầu nguyện của tổ tiên chúng ta về cảnh mưa thuận gió ḥa, mong sao được sống một đời an b́nh không có họa thuỷ tai. Lôi Thuỷ Giải là mong được giải nạn nước quá tràn ngập (lũ lụt), hay nước quá khô cạn (hạn hán). Niên đại của Văn hoá Phùng Nguyên được Hà Văn Tấn xác định: ”Phùng Nguyên và Xóm Rền đều là các di chỉ thuộc giai đoạn giữa của văn hoá Phùng Nguyên. Hiện tại chưa có niên đại C14 cho giai đoạn này. Nhưng hiện nay chúng ta đă có một niên đại C14 của di chỉ Đồng Chỗ là di chỉ mà tôi cho là thuộc giai đoạn sớm của Văn hoá Phùng Nguyên: 3800 + 60 BP (Bln-3081) tức 1850 + 60BC (Hà Văn Tấn 1986: 181-182). Như vậy, các di chỉ Phùng Nguyên và Xóm Rền phải muộn hơn niên đại này. Nhưng Phùng Nguyên và Xóm Rền lại sớm hơn các niên đại C14 của lớp dưới di chỉ Đồng Đậu. Hiện nay lớp này có các niên đại: 3330 + 100BP (Bln-830), 3050 + 80BP (Bln-3711); 3015 + 65BP (HCMV 05/93); 3100 + 50BP (HCMV 06/93).
Nếu tin vào các niên đại C14 này th́ giai đoạn giữa của văn hoá Phùng Nguyên nằm vào khoảng giữa thế kỷ 17 và thế kỷ 14 trước Công Nguyên... tương đương với văn hoá Thương ở Trung Quốc, thậm chí với giai đoạn sớm của văn hoá này (1, tr 578-579).
Về phía Trung Quốc, tuy theo truyền thuyết cho là Kinh Dịch do Phục Hy thời đại tối cổ Trung Quốc tạo ra nhưng trên thực tế không có chứng cứ nào để xác nhận chuyện này. Triết gia đầy uy tín của Trung Quốc Phùng Hữu Lan đă khẳng định trong Trung Quốc Triết học sử: ’’Suốt thời nhà Thương chưa có Bát Quái” (bản Hồng Kông 1950, tr 457). Chưa có Bát Quái nghĩa là chưa có Kinh Dịch. Quẻ Dịch xuất hiện sớm nhất ở Trung Quốc là trên sách Tả Truyện thời Xuân Thu-Chiến Quốc (772-221 BC). Vào thời kỳ này trên một số lớn các trống đồng Đông Sơn ở Việt Nam đă có khắc h́nh quẻ Lôi Thuỷ Giải bằng 6 dải băng nghĩa là đầy đủ 6 hào. Vậy là rơ ràng Kinh Dịch đă có ở Việt Nam từ thời các Vua Hùng, so với chứng cứ cụ thể của Trung Quốc Kinh Dịch đă có ở nước ta trước Trung Quốc cả ngh́n năm. Chuyện này chẳng khác chi chuyện tổ tiên ta đă biết trồng lúa nước ngh́n năm trước Trung Hoa mà Trần Trọng Kim vẫn viết trong Việt Nam sử lược là người Trung Hoa có công dạy dân ta làm ruộng.
2) Chứng lư ngôn ngữ học: Một số tên quẻ Dịch là tên tiếng Việt không phải tiếng Trung Quốc:
Người ta thường gọi Kinh Dịch hay Kinh Diệc và cứ đinh ninh Diệc là do Dịch đọc chệch đi, kỳ thật tổ tiên ta nói Kinh Diệc và người Trung Hoa đă đọc chệch đi thành Dịch. Tiếng Trung Hoa Dịch c̣n có thể đọc là Diệc(Xem Khang Hy Từ Điển). Diệc là một loài chim nước, có họ với loài c̣. Đây là những loài chim quen thuộc với đồng ruộng, với văn minh nông nghiệp, văn minh Văn Lang. Kinh Dịch là kết tinh của văn minh nông nghiệp, các nhà sáng tạo kinh Dịch Việt Nam lấy h́nh ảnh con diệc, con c̣ làm tiêu biểu cho hệ thống triết học của ḿnh là hợp lư, nhưng người Trung Quốc muốn làm biến dạng cho khác đi, cho rằng chữ Dịch là h́nh ảnh con tích dịch - một loại thằn lằn hay biến đổi màu sắc theo thời gian chẳng thân thiết gần gũi ǵ với người nông dân cả. Điều này đă được ghi chú rất rơ trên trống đồng Đông Sơn về sau sẽ giải rơ.
Tên tám quẻ đơn Càn, Khảm, Cấn, Chấn, Tốn, Ly, Khôn, Đoài đều là tiếng Việt không phải là tiếng Trung Quốc. Các học giả Trung Hoa rất lúng túng khi giải nghĩa nguồn gốc tên những quẻ này v́ họ cứ cho đó là tiếng Hoa nên t́m măi vẫn không lư giải được. Ở đây chỉ dẫn một quẻ để minh chứng. Quẻ Ly không có nguồn gốc Trung Hoa, đây chỉ là chữ ghi âm tiếng Việt, một dạng chữ Nôm loại giả tá. Kinh Dịch bản thông hành ghi là Ly, âm Bắc Kinh đọc là Lĩ, nhưng bản Bạch Thư Chu Dịch đào được ở Mă Vương Đôi th́ lại ghi là La, âm Bắc Kinh đọc là lúo (đọc như lủa). Rơ ràng đây là cách ghi của hai người Trung Hoa ở hai nơi hoặc hai thời điểm nghe người Việt Nam nói là quẻ Lửa, một người bèn ghi là lĩ (Ly), một người lại ghi là lủa (La). C̣n người Việt Nam viết chữ Nôm Lửa th́ lại dùng chữ lă làm âm. Cả ba âm Ly, La, Lă đều là cận âm với âm lửa, dùng để ghi âm âm lửa. Như vậy quẻ Ly không phải là quẻ có nghĩa là ĺa hay là dựa như người Trung Hoa nghĩ mà chính là quẻ Lửa tức là quẻ Hoả như về sau họ đă dịch đúng nghĩa của nó.
3) Chứng lư đồ tượng: Kinh Dịch Trung Hoa thiếu một h́nh đồ trọng yếu, trong khi h́nh đồ này đang được cất giấu tại Việt Nam. Chứng tỏ Việt Nam mới là nước sáng tạo Kinh Dịch.
Đồ tượng và quái tượng (quẻ) là những h́nh tượng cơ bản cấu tạo nên Kinh Dịch. Cả hai đều có những giá trị bổ túc cho nhau để h́nh thành Kinh Dịch. Đọc Dịch mà chỉ chú trọng đến quẻ không chú ư đến Đồ là một thiếu sót đáng tiếc v́ như thế là đă bỏ qua quá nửa phần tinh tuư của Dịch. Những ứng dụng quan trọng của Dịch đa phần đều căn cứ trên đồ, như thuyết trọng nam khinh nữ chi phối sâu đậm nhân sinh quan Trung Quốc thời kỳ phong kiến là ảnh hưởng Càn trọng Khôn khinh của Tiên Thiên Đồ, xem phong thuỷ, coi tử vi, học thuyết Độn Giáp, Thái Ất phát sinh ở Trung Hoa là do ảnh hưởng của Hậu Thiên Đồ. Y học, Vơ thuật, Binh Thư Đồ trận lừng danh của Trung Quốc đều từ các Thiên Đồ mà ra. Theo thuyết Tam tài, cơ sở để xây nên toà lâu đài Kinh Dịch th́ phải có ba Đồ chính là Tiên Thiên Đồ, Hậu Thiên Đồ và Trung Thiên Đồ nhưng suốt cả hai ngh́n năm nay, Trung Quốc chỉ lưu hành hai Đồ Tiên Thiên và Hậu Thiên. Người Trung Hoa tuyệt nhiên không t́m ra Trung Thiên Đồ, cuối cùng họ đành bó tay, rồi thản nhiên kết luận, không cần có Trung Thiên Đồ. Đă có Tiên Thiên Đồ làm thể và Hậu Thiên Đồ làm dụng là đủ lắm rồi. Đây chính là khuyết điểm lớn nhất của Dịch học Trung Quốc mà cũng là cái may lớn nhất cho ta để từ chỗ sơ hở này ta t́m ra chứng lư quan trọng nhất, quyết định nhất để xác nhận tác quyền của Việt Nam. Trung Quốc không có Trung Thiên Đồ, một Đồ quan trọng bậc nhất dùng làm la bàn để viết nên kinh văn các lời hào, Việt Nam lại cất giữ Trung Thiên Đồ! Vậy th́ ai là chủ nhân Kinh Dịch? Câu hỏi đă được trả lời, bí ẩn hai ngh́n năm đă được trưng ra ánh sáng.
Tác giả bài này có may mắn là đă thiết lập được Trung Thiên Đồ. Đồ này quẻ Càn ở phương Nam, quẻ Đoài ở phương Đông Nam, quẻ Tốn ở phương Đông, quẻ Khảm ở phương Đông Bắc, quẻ Ly ở phương Bắc, quẻ Cấn ở Tây Bắc, quẻ Chấn ở Tây và quẻ Khôn ở phương Tây Nam.
Đây chính là Đồ thứ ba trong số ba Thiên Đồ trọng yếu của Kinh Dịch mà người Trung Hoa không t́m ra. Nếu Tiên Thiên Đồ là Thiên Đồ, Hậu Thiên Đồ là Địa Đồ th́ Trung Thiên Đồ là Nhân Đồ nghĩa là Đồ nói về con người. Có một danh hoạ tài ba nào chỉ trong một h́nh vẽ có thể biểu đạt ba h́nh thái khác nhau về con người? Điều này chưa ai làm được, ngay cả máy móc tân tiến nhất, hiện đại nhất cũng không thể làm việc này. Thế mà Trung Thiên Đồ cùng một lúc có thể diễn tả ba trạng thái khác nhau đó: Trung Thiên Đồ có mục đích nói về những vấn đề liên quan đến con người cho nên h́nh đồ Trung Thiên có thể biểu thị ba khía cạnh khác nhau của con người về mặt sinh lư, về mặt siêu lư và về mặt đạo lư:
a) Con người sinh lư: Quẻ Càn tượng cho bán cầu năo phải, Quẻ Khôn tượng cho bán cầu năo trái. Khi một người bị tai biến mạch máu năo ở bán cầu phải th́ tay chân bên trái thường bị liệt, ngược lại cũng thế. V́ Càn thuộc dương nên liên quan đến tay trái gồm hai quẻ Chấn dương và Cấn dương và v́ tay trái đă dương th́ chân trái lại thuộc về âm nên chân có quẻ Ly âm. Trái lại, bán cầu năo trái Khôn âm sẽ ảnh hưởng đến tay phải Trạch âm và Tốn âm cùng với chân Khảm dương. Điều này tương đồng với kết quả thực nghiệm của Leokadia Podhorecka (1986), tŕnh bày năm 1986 tại hội nghị quốc tế về Trường sinh học tại Zagrev về tính bất đối xứng phải - trái trong nhân thể (2, tr 117). H́nh đồ cũng thể hiện được y lư Đông Phương cho rằng Thiên khí tả truyền: Dương khí đi từ bên phải (Càn dương) sang bên trái (Cấn, Chấn dương), Địa khí hữu truyền: Âm khí đi từ bên trái (Khôn âm) sang bên phải (Đoài, Tốn âm). Con người muốn sống cần phải thở (Càn phế, chủ khí), sau đó phải được nuôi dưỡng bằng thức ăn (Khôn, tỳ vị). Con người khoẻ mạnh khi tâm (Ly) giao hoà với thận (Khảm), nếu tâm thận bất giao sẽ sinh tật bệnh, vị y tổ Việt Nam Lê Hữu Trác đă phát triển học thuyết này để chữa bệnh rất hiệu quả.
Con người siêu lư
b) Con người siêu lư: Theo trăi nghiệm của các hành giả Yoga hoặc Khí công, Thiền, th́ cơ thể có bảy trung tâm năng lượng tác động chi phối sự sống của con người, gọi là bảy đại huyệt hay là bảy luân xa. Trung Thiên Đồ chính là biểu đồ hệ thống bảy luân xa đó, theo thứ tự từ dưới lên: luân xa 1 là Hoả xà Kundalinê chính là quẻ Ly hoả, Luân xa 2 là Mệnh môn quan chính là quẻ Khảm (thận thuỷ), Luân xa 3 là Đơn điền Ngũ Hành Sơn chính là quẻ Cấn sơn, Luân xa 4 là Luân xa tâm gồm hai quẻ Tốn (tâm âm) và Chấn (tâm dương), luân xa 5 là trung tâm Ấn đường chính là quẻ Đoài, luân xa 6 nằm ở chân mi tóc hay huyệt Thượng tinh mà Đạo giáo thường gọi là Kim mẫu chính là quẻ Khôn (Địa mẫu), Luân xa 7 là huyệt Thiên môn Bách hội chính là quẻ Càn Thiên.
Con người đạo lư
c) Con người đạo lư: Trung Thiên Đồ c̣n biểu đạt một mẫu người đạo lư tâm linh: quẻ Sơn Tượng cho tính người tham lam muốn tích luỹ như núi (Tham), quẻ Ly Hoả tượng cho người có tính sân như lửa (Sân), quẻ Khảm Thuỷ tượng cho người có tính si như nước đổ dồn về chỗ thấp (Si), ba thói xấu đó sẽ dẫn con người đến chỗ ác tượng trưng bằng quẻ Tốn (tâm âm, nhục tâm, vọng tâm), (như thuyết Tam Độc của Phật Giáo). Nhưng nếu con người biết phát triển tâm từ bi như t́nh yêu của mẹ tượng bằng quẻ Khôn (Địa Mẫu - Từ Bi), khiến tâm thanh tịnh an lạc tượng bằng quẻ Đoài (Vui, Hỉ), lúc nào cũng sẵn ḷng cảm thông tha thứ cho người, tượng bằng quẻ Càn (Xả) th́ con người sẽ đạt được cơi phúc, tượng bằng quẻ Chấn (Tâm dương, Chân tâm, Đạo tâm), (như thuyết Tứ vô lượng tâm của Phật giáo).
4) Phát hiện Trung Thiên Đồ trong truyền thuyết
Kinh Dịch có tám quẻ đơn: Càn c̣n gọi là Thiên có tượng là trời, là vua, là cha. Khôn c̣n gọi là Địa có tượng là đất, là hoàng hậu, là mẹ. Khảm c̣n gọi là Thuỷ có tượng là nước, là cá (ngư). Ly c̣n gọi là Hoả có tượng là lửa. Cấn c̣n gọi là Sơn có tượng là núi. Đoài c̣n gọi là Trạch có tượng là đầm (hồ). Chấn c̣n gọi là Lôi có tượng là sấm, là con trai trưởng. Tốn c̣n gọi là Phong có tuợng là gió, là cây (mộc).
Khi tám quẻ đơn chồng lên nhau ta được 64 quẻ kép, nhưng khi tám quẻ đơn được đặt trên ṿng tṛn ta sẽ được ba thiên đồ căn bản: Tiên Thiên Đồ thường được người Trung Hoa gọi là Tiên Thiên Đồ Phục Hy v́ cho là do Phục Hy chế ra, Hậu Thiên Đồ cũng được người Trung Hoa gọi là Hậu Thiên Đồ Văn Vương v́ cho là do Văn Vương thiết lập, ở đây chúng tôi chỉ gọi là Tiên Thiên Đồ và Hậu Thiên Đồ v́ đă chứng minh được Kinh Dịch do người Việt Nam sáng chế nên Phục Hy, Văn Vương chẳng can dự ǵ vào việc sáng tạo các thiên đồ. Dịch đồ thứ ba chính là Trung Thiên Đồ đă được tổ tiên Việt Nam cất giấu trong truyền thuyết Lạc Long Quân - Âu Cơ.
Truyền thuyết Lạc Long Quân - Âu Cơ không chỉ là một huyền sử về nguồn gốc dân tộc "Con Rồng cháu Tiên", một thông điệp về t́nh đoàn kết, nghĩa yêu thương giữa các dân tộc anh em, đồng bào mà c̣n chứa đựng một thông tin về di sản tinh thần vô giá của dân tộc Việt Nam đă được tổ tiên chúng ta bí mật cất giữ trong đó: tôi muốn nói đến Kinh Dịch đứa con lưu lạc của Việt Nam đă được Trung Quốc nuôi dưỡng và đă thành danh ở đó. Nếu chúng ta kết hợp những thông tin nằm rải rác trong các truyền thuyết Lạc Long Quân - Âu Cơ, truyện Hồ tinh, Mộc tinh, Ngư tinh ta sẽ thiết lập được một Trung Thiên Đồ mà người Trung Quốc chưa hề biết đến. Theo Kinh Dịch, Lạc Long Quân thường được nhân dân gọi là Bố mỗi khi có việc cần giúp đỡ có thể kư hiệu bằng quẻ Càn có tượng là vua, là cha. Lạc Long Quân thường sống ở Thuỷ phủ kư hiệu là quẻ Khảm có tượng là nước. Lạc Long Quân diệt được Hồ tinh là con cáo chín đuôi sống hơn ngàn năm ở đầm Xác Cáo nay là Hồ Tây, sự kiện này có thể kư hiệu bằng quẻ Đoài tức quẻ Trạch có tượng là đầm. Đất Phong Châu thời Thượng cổ có cây Chiên đàn sống hàng ngàn năm, chim hạc thường đến đậu ở đấy nên nơi đó c̣n gọi là đất Bạch Hạc (nay thuộc tỉnh Phú Thọ), lâu ngày cây hoá thành yêu tinh dân gọi là thần xương cuồng, Kinh Dương Vương và Lạc Long Quân ra sức đánh đuổi, cứu dân thoát khỏi sự bức hại của xương cuồng. Sự kiện này có thể kư hiệu bằng quẻ Tốn c̣n gọi là quẻ Phong có tượng là mộc. Lạc Long Quân cũng có công diệt được ngư tinh, con yêu ngư xà ăn thịt người, chuyện này cũng thuộc quẻ Khảm kư hiệu ở trên. Truyền thuyết thường nói chung là Lạc Long Quân (quẻ Càn) diệt hồ tinh (quẻ Đoài), diệt mộc tinh (quẻ Tốn), diệt ngư tinh (quẻ Khảm) để cứu dân, từ đó ta đă có được một vế của Trung Thiên Đồ: Càn - Đoài - Tốn - Khảm. Theo truyền thuyết Lạc Long Quân nói với Âu Cơ (được tôn xưng là Quốc mẫu, là mẹ, kư hiệu là quẻ Khôn): (1, tr 30). Như thế là truyền thuyết đă xác định rất rơ tính cách tương phản giữa Lạc Long Quân và Âu Cơ. Long Quân thuộc quẻ Khảm (Thuỷ) th́ Âu Cơ thuộc quẻ Ly (Hoả). Truyền thuyết kể tiếp: "Âu Cơ và năm mươi con lên ở đất Phong Châu (nay là huyện Bạch Hạc) suy phục lẫn nhau, cùng tôn người con cả lên làm vua, hiệu là Hùng Vương, lấy tên nước là Văn Lang". Lên Phong Châu là lên núi kư hiệu là quẻ Cấn có tượng là núi, tôn người con cả kư hiệu là quẻ Chấn v́ Chấn có tượng người con trưởng. Ta lại có thêm vế thứ hai của Trung Thiên Đồ: Ly - Cấn - Chấn - Khôn. Đến đây ta đă khai quật được Trung Thiên Đồ từ lớp ngôn ngữ truyền thuyết, các quẻ xếp theo thứ tự Càn - Đoài - Tốn - Khảm - Ly - Cấn - Chấn - Khôn theo chiều ngược kim đồng hồ.
5) Vai tṛ Trung Thiên Đồ trong việc h́nh thành văn bản Kinh Dịch:
a) Bố cục Kinh Dịch: Kinh Dịch có 64 quẻ, 30 quẻ đầu thuộc về thượng kinh, 32 quẻ sau thuộc về hạ kinh. Nh́n vào cách sắp đặt vị trí các quẻ Dịch trong bản kinh văn thông hành ta không thể không nghĩ rằng các nhà làm Dịch đă sử dụng Trung Thiên Đồ như là la bàn để phân bố các quẻ. Mở đầu kinh văn là hai quẻ Càn số 1, Khôn số 2 đúng như vị trí Càn Khôn đứng bên nhau trên Trung Thiên Đồ, cuối thượng kinh là hai quẻ Khảm số 29 và Ly số 30 đúng như vị trí Khảm Ly dưới Trung Thiên Đồ. Mở đầu hạ kinh là hai quẻ Trạch Sơn Hàm số 31 và quẻ Lôi Phong Hằng số 32 đúng như vị trí quẻ Đoài Trạch đối qua tâm với quẻ Cấn Sơn tạo thành quẻ Trạch Sơn Hàm, quẻ Chấn Lôi đối qua tâm với quẻ Tốn Phong tạo thành quẻ Lôi Phong Hằng nằm giữa Trung Thiên Đồ. Cuối hạ kinh là hai quẻ Thuỷ Hoả Kư Tế số 63 và Hoả Thuỷ Vị Tế số 64 đúng như vị trí quẻ Khảm Thuỷ giao hoán với quẻ Ly Hoả tạo thành.
Khác hẳn với Tiên Thiên Đồ và Hậu Thiên Đồ các quẻ Càn Khôn Ly Khảm đứng đối nhau qua tâm, biểu hiện trạng thái phân ly, trên Trung Thiên Đồ các quẻ Càn Khôn Ly Khảm đứng gần nhau từng đôi một biểu hiện trạng thái giao hội. Ở tự nhiên mọi vật có thể đối nghịch, vừa tương phản vừa tương thành. Nhưng ở con người th́ khác, con người là một chỉnh thể, một thái cực, một toàn đồ âm dương phải tương hội điều hoà, nếu một bên thiên thắng con người sẽ bất ổn, phát sinh bệnh tật.
b) Đặt tên cho quẻ Dịch: Nhiều nhà chú giải Kinh Dịch Trung Quốc khi giải thích nghĩa chữ giao của hào thượng cửu quẻ Thiên Hoả Đồng nhân số 13 "Đồng nhân vu giao" thường chỉ dừng lại ở vấn đề chính trị xă hội nên hiểu giao theo một nghĩa rất hẹp, họ cho giao là vùng đất ngoại ô kinh thành nếu muốn đồng th́ nên t́m người ở xa mà liên hiệp. Hiểu như vậy th́ không sát nghĩa và không đúng với lập ư của người làm ra Kinh Dịch. Có lẽ v́ người Trung Quốc trong tay không có la bàn Trung Thiên Đồ là đồ đă bị Tổ tiên người Việt Nam cất giấu rất kỹ không truyền ra ngoài nên không hiểu rằng giao tức là giao hội, khi hoả xà Kundalinê từ lâu cuộn ḿnh ở đốt xương cùng có đủ điều kiện lên hợp nhất với thần Vishnou cư trú ở huyệt Thiên môn nghĩa là khi luân xa số 1 là quẻ Ly Hoả hoà nhập với luân xa số 7 là quẻ Càn Thiên là lúc con người đạt đến trạng thái toàn thức, hạnh phúc hoàn hảo nhất, con người đạt đến mức độ giao hội cùng vũ trụ, tha nhân, v́ thế mới đặt tên cho quẻ này là Thiên Hoả Đồng nhân. Giao nằm ở hào thượng cửu (theo Dịch lư thuộc tài thiên), tức là ở mức độ đồng nhân cao nhất, mức độ hoà đồng siêu việt, Nếu hiểu giao như nghĩa các chữ Đông giao (ngoại ô phía đông), Nam giao (ngoại ô phía Nam) th́ không phù hợp với cấu trúc quẻ Dịch, hiểu như vậy là mặc nhiên nhận giao thuộc về đất phải nằm ở hào hai, tài Địa. Cũng như quẻ Đồng Nhân, các Dịch học gia Trung Quốc cũng bị hạn chế khi hiểu quẻ Đại Hữu chỉ là sở hữu tài sản vật chất họ không ngờ rằng Đại Hữu là sở hữu tài sản tinh thần vĩ đại, quẻ này chính là ghi lại thành tựu một quá tŕnh công phu trăi nghiệm của hành giả đă hợp nhất với vũ trụ, mà mỗi hào mô tả thành quả một chặng đường liên tục từ hạ đẳng công phu đến thượng đẳng công phu.
c) Đọc lại Kinh Dịch: Nhờ có Trung Thiên Đồ ta có thể đọc lại Kinh Dịch một cách chính xác hơn, điều này nghe có vẽ nghịch lư v́ ta làm sao thông thạo ngôn ngữ Trung Hoa hơn người Trung Hoa được, nhưng v́ ta có Trung Thiên Đồ là la bàn tổ tiên ta dựa vào đấy để viết các lời hào nên chúng ta có cách đọc thuận lợi hơn. Ở đây tôi chỉ xin dẫn ra một thí dụ để minh chứng. Kinh Dịch có ba quẻ nói đến Tây Nam, quẻ Giải: "Lợi Tây Nam", quẻ Kiển: "Lợi Tây Nam, bất lợi Đông Bắc”, quẻ Khôn: "Tây Nam đắc bằng, Đông Bắc táng bằng”. Căn cứ vào Hậu Thiên Đồ, quẻ Khôn (đất) nằm ở hướng Tây Nam, quẻ Cấn (núi) nằm ở hướng Đông Bắc, Vương Bật, người thời Tam Quốc, trong Chu Dịch chú giải thích như sau: ”Tây Nam là đất bằng, Đông Bắc là núi non. Từ chỗ khó mà đi đến chỗ bằng, cho nên khó khăn sẽ hết, từ chỗ khó mà đi lên núi, th́ sẽ cùng đường”, Khổng Dĩnh Đạt trong Chu Dịch chính nghĩa viết: ”Tây Nam thuận vị là hướng bằng phẳng dễ đi, Đông Bắc hiểm vị là chỗ trắc trở khó khăn. Đường đi lắm trắc trở, tất cả đi đến chỗ bằng dễ đi th́ khó khăn sẽ hết, trái lại nếu đi vào chỗ hiểm th́ càng bế tắc cùng đường. Đi ở phải hợp lư vậy”, (3, tr 846).Trương Thiện Văn trong Từ điển Chu Dịch giải thích: ”Lợi cho việc đi về đất bằng Tây Nam, không lợi cho việc đi về phía núi non đông bắc. Tây nam tượng trưng cho đất bằng, Đông bắc tượng trưng cho núi non. Đây nói ở thời kiển nạn mọi hành động đều phải tránh khó khăn hiểm trở, phải hướng về phía bằng phẳng th́ mới có thể vượt qua kiển nạn,v́ vậy nói lợi tây nam, bất lợi đông bắc”, (3, tr 907). Nói chung lời giải thích của đa số Dịch gia Trung Quốc đều dựa vào vị trí các quẻ trên Hậu Thiên Đồ và đều cho núi là trở ngại, nhưng giải như vậy không thể khớp với Dịch lư, quẻ Kiển tức là quẻ Thuỷ Sơn Kiển, h́nh tượng nước ngập núi, trận đại hồng thuỷ. Vậy núi chỉ là trở ngại thứ yếu. Sự thật đối với người cổ đại núi tuy có khổ ải hơn nơi bằng phẳng nhưng không phải là trở ngại đáng kể. Đối với người cổ đại núi là nhà, hang hốc là nhà. Núi che chở cho họ, cung cấp thực phẩm, đùm bọc nuôi dưỡng họ. Nói cho cùng với tượng quẻ như vậy, người ta không lo về núi mà nỗi lo triền miên chính là nước. Suốt thời cổ đại, nhất là ở Việt nam, chiến tranh bất tận là chiến cuộc giữa NGƯỜI với NƯỚC. Con người khơi ḍng lấy đất canh tác, đẩy lùi biển để giành đất sống. Khi con người thắng biển nghĩa là khi Sơn tinh thắng Thuỷ tinh, Kiển nạn được giải. Vấn đề lật ngược, quẻ Thuỷ Sơn Kiển lật thành quẻ Sơn Thuỷ Mông, Thoán từ ca ngợi chiến công thần thánh này là Lợi Trinh (thắng lợi bền chặc).
Ở Hậu Thiên Đồ cũng như ở Trung Thiên Đồ, quẻ Khôn cùng ở vị trí Tây Nam nhưng ở vị trí Đông Bắc th́ quẻ của hai đồ hoàn toàn ngược nhau. Nếu Hậu Thiên Đồ là quẻ Cấn (núi) th́ ở Trung Thiên Đồ lại là quẻ Khảm (nước). Ta thấy rơ muốn hiểu nghĩa lời hào của ba quẻ đó không thể dựa vào vị trí quẻ trên Hậu Thiên Đồ, v́ không chính xác. Chỉ có thể dựa vào vị trí quẻ trên Trung Thiên Đồ mới làm sáng tỏ được nghĩa quẻ. Con người không ngại núi mà chỉ e sông, e biển. Câu lợi Tây Nam, bất lợi Đông Bắc không phù hợp với thực tiển Trung Quốc v́ con đường sống của họ luôn dịch chuyển từ Tây Bắc sang Đông Bắc, hành tŕnh các kinh đô của các triều đại Trung Hoa thường đi từ núi ra biển:Tây An - Trường An - Lạc Dương - Khai Phong - Bắc Kinh. Đó là hành tŕnh ngược với lời hào ba quẻ: Giải, Khôn, Kiển.
Trong khi đó lời hào ba quẻ trên lại hoàn toàn phù hợp với thực tiển Việt Nam. Đối với Việt Nam, Đông Bắc mới thực là bất lợi, đó là biển cả là cửa ngỏ cho phong kiến phương bắc xâm lược. Việt Nam chỉ có con đường sống là mở nước về phương Nam và Tây nam. Lịch sử Việt Nam đă chứng thực lời đó, đă hai lần chúng ta tiến về hướng Tây Nam, đợt đầu tiến về đồng bằng Thanh Nghệ Tĩnh, đợt sau tiến về vựa lúa châu thổ sông Cửu Long. Lời hào trên vẫn c̣n là lời dự báo ứng nghiệm với Việt Nam ngày nay: Tây Nam đắc bằng khi gia nhập khối Đông Nam Á, con đường Tây nam đang ở thế thuận lợi.
6/ Kết luận:
Chúng ta c̣n nhiều chứng lư từ vật thể đến phi vật thể, từ ngôn ngữ đến văn bản, nhưng mấu chốt hơn hết để chứng minh Kinh Dịch do Tổ tiên người Việt Nam sáng tạo vẫn là vai tṛ của Trung Thiên Đồ. Khi một người muốn chứng minh một vật là sản phẩm do chính ḿnh đúc ra th́ ngườI đó phải trưng ra khuôn đúc, ở đây cũng vậy Trung Quốc không có Trung Thiên Đồ giống như không có khuôn đúc th́ làm sao bảo rằng Trung Quốc đă sáng chế ra Kinh Dịch. Thật ra Trung Quốc chỉ có công phát huy Kinh Dịch nhờ đó Kinh Dịch mới có bộ mặt vĩ đại như ngày nay, cũng như họ đă làm rạng rỡ cho Thiền nhưng không ai có thể quên Thiền có nguồn gốc từ Phật giáo Ấn Độ. Đă đến lúc cái ǵ của César phải trả lại cho César. Khi chúng ta nhận ra rằng Kinh Dịch là di sản của Tổ tiên ta sáng tạo, ta sẽ hiểu được do đâu ta cũng cùng giải đất với các dân tộc vùng Hoa Nam, núi liền núi, sông liền sông mà họ bị đồng hoá c̣n chúng ta th́ không. Kinh Dịch chính là cuốn Cổ văn hoá sử của Việt Nam mà Tổ tiên chúng ta c̣n lưu lại ngày nay, tuy có bị sửa đổi nhuận sắc nhiều lần nhưng những vết tích của nền văn minh thời các vua Hùng dựng nước vẫn c̣n đậm nét trong nhiều quẻ Dịch.
Người sáng tạo Kinh Dịch đă dựa vào Trung Thiên Đồ để bố cục vị trí các quẻ đúng như bản thông hành hiện đang phổ biến. Các Dịch học gia Trung Quốc căn cứ vào vị trí các quẻ theo Hậu Thiên Đồ nên có nhiều câu trong Kinh văn bị họ giảng sai với ư nguyên tác, muốn giảng cho đúng phải dựa vào Trung Thiên Đồ, không thể làm khác được.
Trung Thiên Đồ giữ một vị trí quan trọng và quyết định như vậy đă được Tổ tiên Việt Nam cất giấu rất kĩ trong truyền thuyết Lạc Long Quân Âu Cơ. Từ truyền thuyết này có thể t́m lại Trung Thiên Đồ. Trung Thiên Đồ c̣n được khắc ghi cẩn trọng trên Trống đồng Đông Sơn có điều kiện tác giả bài này sẽ công bố sau.
Chúng tôi c̣n nhiều minh chứng khác để kiện toàn chứng lư cho kỳ án này. Không c̣n nghi ngờ ǵ nữa, Kinh Dịch chính là sáng tạo của Tổ tiên Việt Nam. Muốn hiểu đúng bản chất văn hoá Việt Nam không thể không khảo sát Kinh Dịch, như là sáng tạo của Việt Nam.
Sách tham khảo
* Vũ Quỳnh - Kiều Phú: Lĩnh Nam chích quái, Văn học, Hà Nội, 1990.
* Nguyễn Hoàng Phương: Tích hợp đa văn hoá Đông Tây cho một chiến lược giáo dục tương lai, Giáo Dục, Hà Nội, 1995.
* Trương Thiện Văn: Từ Điển Chu Dịch, bản dịch, Khoa học Xă Hội, Hà Nội, 1997.
* Nguyễn Thiếu Dũng: Một phát hiện mới về Kinh Dịch: Trung Thiên Đồ,Thông tin khoa học ĐH DL Duy Tân tháng 05/1999
* Nguyễn Thiếu Dũng: Con đường Tây Nam, Thông tin khoa học Đại Học DL Duy Tân, tháng11/1999.
* Nguyễn Thiếu Dũng: Chúng ta có một di sản hàng đầu thế giới Báo Lao Động, Trang miền Trung & Tây Nguyên số 32/99, ngày 13/12/1999.
* Nguyễn Thiếu Dũng: Văn Lang cội nguồn Kinh Dịch, Khoa học & phát triển số 67, năm 2000.
* Nguyễn Thiếu Dũng: Những con số ở vùng đất Tổ, Xưa & Nay,73b, tháng 03/2000.
* Hồ Trung Tú: Dịch học sáng tạo của người Việt cổ, Tia Sáng, Xuân Nhâm Ngọ 2000.
* Nguyễn Thiếu Dũng: Nh́n qua chữ số, Khoa học & phát triển số 74, tháng 3/01.
* Hà Văn Tấn: Theo dấu các văn hoá cổ, NXB Khoa Học Xă Hội, Hà Nội 1998.
Nguyễn Thiếu Dũng
|
|
langtu123
member
REF: 58047
10/22/2005
|
Xin lỗi các bạn v́ bài viết quá dài; chỉ v́ tôi muốn đưa ra một bằng chứng có sức thuyết phục thôi. Mong không ai giận cả.
|
|
guest
guest
REF: 58048
10/22/2005
|
ừa, bài dài thiệt
|
|
guest
guest
REF: 58168
10/23/2005
|
H́ h́...Việt Nam bây giờ có 80 triệu dân, ai cũng bằng xương bằng thịt cả, có ai bằng đồng đâu...^_^
|
1
|
Kí hiệu:
:
trang cá nhân :chủ
để đă đăng
:
gởi thư
:
thay đổi bài
:ư kiến |
|
|
|
|