hatlinh
member
ID 81278
01/26/2016
|
Ai là Việt Kiều ? Ai ‘đẻ ra’ những ông sư hổ mang?
Mời Cả Nhà cùng đọc bài mới ở phần góp ư, xin cám ơn.
-
Ai là Việt kiều?
Trên truyền thông Việt ngữ, càng ngày hai chữ “Việt kiều” càng thấy xuất hiện nhiều hơn. Chúng ta nên hiểu và sử dụng danh xưng này như thế nào để được chỉnh về chính trị (politically correct)?
“Kiều” có nghĩa là ở hải ngoại, được dùng làm tĩnh tự cho các danh tự, như: “Kiều dân” là người dân sống ở bên ngoài ranh giới quốc gia mà người ấy được sinh ra (native land); “Kiều hối” là tiền bạc ở ngoại quốc; “Kiều vận” là vận động dân ḿnh ở ngoại quốc.
Chữ “kiều” đă được dùng trong các chữ “Pháp kiều”, “Hoa kiều”, “Mỹ kiều”, và “Việt kiều yêu nước”. Dưới thời Đệ Nhất Cộng Hoà, người Hoa sinh sống ở nam Việt Nam được chính thức gọi là Hoa kiều. Suốt trong cuộc chiến Bắc-Nam Việt Nam (1954-1975), nhà cầm quyền Hà Nội gọi các thành phần người Việt ở hải ngoại có những sinh hoạt phản chiến, hỗ trợ, hay có lợi cho cộng sản Việt Nam là "Việt kiều yêu nước”.
Tương tự, người Thái sinh sống ở ngoài Thái Lan là Thái kiều, và người Phi không ở nước Phi là Phi kiều. Trong hoàn cảnh chính trị quốc gia b́nh thường, liên hệ giữa chính phủ một nước với kiều dân của họ tốt đẹp, và không có vấn đề ǵ làm hai bên phải bận tâm: Khi những viên chức của chính phủ một quốc gia xuất ngoại công cán ở nơi xa có kiều dân của họ sinh sống, các viên chức cao cấp thuờng được kiều dân tiếp đón tưng bừng như các h́nh ảnh thấy trên các bản tin thời sự. Ngược lại, khi các kiều dân có dịp về thăm nơi “chôn rau, cắt rốn” của ḿnh, họ thường được đối xử b́nh thường - có khi c̣n được biệt đăi - bởi các viên chức chính phủ, nhất là ở các cơ quan liên hệ đến hải quan, du lịch, hay thông hành.
Chữ “kiều” sẽ trở nên khúc mắc hơn khi một quốc gia bị các biến cố chính trị đưa đến các cuộc di dân có khi là ngoài ư muốn tự nguyện của một số các công dân ra khỏi biên giới quốc gia, hay khi quốc gia bị chia thành các chế độ chính trị đối nghịch. Thí dụ: Hiện có hai nước Hàn quốc: Bắc Hàn, và Nam Hàn, cùng là hội viên của Liên Hiệp Quốc. Như vậy, nếu xét đến liên hệ giữa các Hàn kiều, và hai chính phủ đối nghịch chính trị, cũng như khác biệt về luật lệ quốc tịch, và di dân của Nam và Bắc Hàn, cần phải phân biệt có hai loại Hàn kiều: Nam Hàn kiều, và Bắc Hàn kiều
Cũng tương tự như Hàn kiều, trường hợp các Hoa kiều của Trung Cộng, và Đài Loan cũng cần phải được phân biệt cho rơ ràng, để có thể tránh được những hiểu nhầm vô t́nh, hay “vơ đũa cả nắm”, có thể đưa đến những hậu quả chết người: Một Nam Hàn kiều trên đất Mỹ vi phạm những điều kiện của luật lệ di trú nếu bị trục xuất về Bắc Hàn th́ khác ǵ như bị án tử h́nh?
So với các quốc gia trên thế giới, Việt Nam là một trường hợp khúc mắc liên hệ đến hai chữ “Việt kiều”. Lư do là v́ Việt Nam là quốc gia độc nhất trên thế giới có tỉ lệ dân Việt ở hải ngoại tương đối cao (khoảng 3 triệu, so với hơn 84 triệu trong nước), mà hầu hết thành phần này lại là nạn nhân của chính phủ đang cầm quyền ở Việt Nam, hậu quả của biến cố 1975. Vốn là tị nạn chính trị chế độ cộng sản, người Việt ở hải ngoại luôn luôn t́m mọi cách để biểu lộ cho người dân trong nước, dân bản xứ, cũng như cộng đồng thế giới biết họ không chấp nhận những ngưới cầm quyền ở Hà Nội là đại diện chính thức, và hợp pháp cho quốc gia Việt Nam. Các viên chức của Hà Nội khi đi công cán ở hải ngoại thường bị các kiều dân “dàn chào”, biểu t́nh phản đối, làm cho bĩ mặt trước truyền thông quốc tế. Ngược lại, khi về thăm Việt Nam, người Việt ở hải ngoại thường bị các viên chức có thẩm quyền ở hải quan, liên hệ đến thông hành, và du lịch cố ư ấn định giá vé, lệ phí cao hơn gấp hai, gấp ba so với cho người trong nước, làm khó khăn để ḅn tiền trà nước, để ư bằng con mắt nghi ngờ, cùng các biện pháp kỳ thị khác.
Trong thời chiến, trước khi chiếm được miền Nam, cộng sản Hà Nội đă dùng một số “Việt kiều yêu nước” để tuyên truyền cho chiêu bài “Chống Mỹ, cứu nước” của họ. Thật ra, “Việt kiều yêu nước” chỉ là “người Việt thân cộng ở hải ngoại”.
Ngày nay, Hà Nội lại muốn tiếp tục “mập mờ đánh lận con đen” muốn lợi dụng nguồn tài nguyên (như ngoại tệ, và kiến thức kỹ thuật) càng ngày càng gia tăng của người Việt ở hải ngoại để duy tŕ chế độ. Họ dùng chữ “Việt kiều” để gọi chung tất cả 3 triệu người Việt ở hải ngoại, với tà ư “xập xí, xập ngầu” với đồng bào ở trong nước, cũng như cộng đồng thế giới rằng 3 triệu người Việt ở hải ngoại vẫn là “Khúc ruột ở xa ngàn dặm”, ám chỉ họ được sự công nhận, và hỗ trợ của 3 triệu “Việt kiều”. Những ai c̣n nghi ngờ ư đồ của Hà Nội xin hăy t́m đọc kỹ nội dung bộ luật hiện hành về quốc tịch của Hà Nội để thấy rằng: Cộng sản Hà Nội không nhượng bộ một ly nào đối với người Việt trong cũng như ngoài nước. Bộ luật quốc tịch Việt Nam cộng sản vẫn khăng khăng qui định: Người Việt nào chưa được giấy phép của Chủ tịch Nước từ bỏ quốc tịch Việt Nam vẫn là công dân Việt Nam, dù đă vào quốc tịch bất cứ nước nào. Hà Nội không chấp nhận song tịch, mà xác quyết người Việt có quốc tịch nước ngoài vẫn là người c̣n quốc tịch Việt Nam, nên vẫn bị luật lệ Việt Nam chi phối. Hà Nội c̣n triệt để hơn nữa khi áp dụng luật này cho các con cháu thế hệ thứ hai sanh tại ngoại quốc của người Việt ở hải ngoại: Những thiếu niên Việt sanh tại Mỹ, Pháp, Úc, v.v., con cái của cha mẹ có quốc tịch của các nước ấy, vẫn bị nhận vơ là “con dân” của cộng sản Hà Nội! Trên thế giới thử hỏi có chính phủ nào vừa vô lư, vừa trâng tráo, và nham hiểm như vậy không?
Trong khi đó, mỗi khi người Việt ở hải ngoại có vấn đề với các cơ quan thẩm quyền sở tại – thí dụ như về giấy tờ cư trú, di dân, hay mỗi khi bị dân bản xứ kỳ thị ở các quốc gia Đông Âu – các viên chức ở sứ quán của Hà Nội lại hoặc bất lực, hoặc cố ư quay mặt làm lơ, không hành xử nhiệm vụ thuộc phạm vi công vụ của ḿnh.
Để tránh sự lợi dụng của nhà cầm quyền Hà Nội, cũng như những thành phần thân cộng ở hải ngoại, chúng ta, nhất là những người Việt đă có quốc tịch của nước sở tại (như Pháp, Đức, Anh, Úc, Mỹ), nên minh xác rơ ràng rằng chúng ta là “người Pháp (hay Đức, hoặc Anh, hay Úc, hoặc Mỹ) gốc Việt, cựu tị nạn cộng sản (nếu thích hợp)”, chứ không phải là Việt kiều ǵ hết! Con em của chúng ta được sinh ra ở hải ngoại là “người Pháp (hay Đức, hoặc Anh, hay Úc, hoặc Mỹ) gốc Việt”, tự động có quốc tịch, và là công dân của nước mà chúng đă được sanh ra. Không kể một thiểu số thân cộng, hầu hết người Việt ở hải ngoại không những không là “Việt kiều”, mà c̣n công khai cương quyết chống lại các kế hoạch kiều vận của bạo quyền Hà Nội, đồng thời tiếp tay hỗ trợ cho các chiến sĩ tranh đấu cho tự do, nhân quyền, và dân chủ ở trong nước.
Cũng đừng quên rằng, v́ có quốc tịch của nước mà chúng ta sinh sống, đổi lại những quyền lợi đáng kể mà tất cả các công dân của nước đó đều được hưởng hàng ngày, chúng ta có bổn phận thực thi những nghĩa vụ công dân như đóng thuế, đi bầu, tôn trọng hiến pháp cũng như luật lệ, và phục vụ quyền lợi dân tộc và quốc gia sở tại.
Tóm lại, vô t́nh chấp nhận không đúng nghiă những từ ngữ Hà Nội láu cá sử dụng – như hai chữ “Việt kiều” - chẳng khác ǵ như để ḿnh rơi vào bẫy xập tuyên truyền của bạo quyền gian manh.
Nguyên Giao
San Diego, Hoa Kỳ
-
Alert webmaster - Báo webmaster bài viết vi phạm nội quy
|
|
hatlinh
member
REF: 703693
01/26/2016
|
Lời Thề Khi Bỏ Nước Ra Đi:
"Tôi hănh diện là Người Mỹ gốc Việt Không Cộng Sản", tôi đă bỏ Hà Nội sau ngày 20 tháng 7 năm 1954 vào Sài g̣n, và dứt khoát bỏ Sài g̣n đúng ngày 30 tháng 4 năm 1975 để tị nạn Cộng Sản tại Hoa Kỳ.
Tôi quyết tâm chống bọn Trung cộng xâm lược cùng Đảng và Nhà Nước Cộng Sản XHCN Việt Nam đă rứơc Tầu Cộng vào Đất Nước Việt .
"Đảng và Nhà Nước CSVN " đă đưa rất nhiều đảng viên và hầu hết Công An sang Trung quốc huấn luyện??
"Đảng và Nhà Nước CSVN" đă im lặng trước chính sách đồng hóa nhân dân và Đất Nưóc Việt của Tầu Cộng??
"Đảng và Nhà Nước CSVN" phải hoàn toàn chịu trách nhiệm v́ đă dâng hiến Đất Nước cho Trung Cộng.
"Đảng và Nhà Nước XHCN CSVN" chỉ là Đảng Cướp tiếp nối độc tài bóc lột Nhân dân và Đất Nước Việt cho bản thân chúng và làm tay sai cho Tầu Cộng.
Cương quyết chống bọn Tầu Phiệt và Tay Sai của chúng ở Quốc Nội cũng như tại Hải Ngoại.
Cương quyết diệt trừ Đảng và Nhà Nưóc Việt Gian Cộng Sản đến hơi thở cuối cùng.
Thề "không đội chung trời" với chế độ Cộng Sản Việt Nam và Cộng Sản Trung Quốc!!
— Nghê Lữ and Toàn Thiện --
|
|
tuantran20
member
REF: 703700
01/26/2016
|
Lúc người Việt bỏ nước ra đi, bọn chúng cho là phản quốc, sau đó là khúc ruột ngàn dặm, rồi bây giờ là Việt kiểu yêu nước.
Hehehe
|
|
aka47
member
REF: 703702
01/26/2016
|
1/ Người Việt bỏ nước ra đi v́ không chấp nhận chế độ Cộng Sản.
Nước thứ hai nhận ta v́ ta là người TỊ NẠN CHÍNH TRỊ. (nhớ là TỊ NẠN nha).
Vậy chúng ta là NGƯỜI VIỆT HẢI NGOẠI , khi vô công dân Mỹ th́ ta được gọi là Người Mỹ gốc Việt .
Vậy ta KHÔNG PHẢI VIỆT KIỀU.
2/ Người Việt sau này đi theo diện đoàn tụ gia đ́nh , học sinh du học , ra nước ngoài làm ăn , đi một cách hợp pháp , có visa Cộng Sản cấp đàng hoàng , lên máy bay bay đến các nước trên thế giới để sống, không phải TỊ NẠN CHÍNH TRỊ,... Thành phần này có thể gọi họ là VIỆT KIỀU.
Rơ ràng như vậy , nhưng hầu hết người Việt ḿnh thích gắn 2 chữ VIỆT KIỀU để về VN lấy le.
Việt Gian...Việt Cộng ...Việt Kiều.
Cả 3 thứ đó tiêu điều Việt Nam.
hihii
|
|
hatlinh
member
REF: 705028
02/12/2016
|
NÓI VỚI VIỆT KIỀU
Việt Kiều con ra tới phi trường th́ mừng lắm, chúng nhảy cỡn lên múa máy tay chân rồi la to: - Thoát khỏi Việt Nam rồi! Thoát Việt Nam rồi! Vậy th́ tôi c̣n mong ǵ khi chúng to lên, học hành thành tài rồi về giúp đỡ quê hương?
Hồi sau 75 tôi có dịp tiếp xúc với cán bộ hay người miền Bắc mới vô, nghe họ nói tôi buồn cười lắm mà không dám cười, sau đó nhái chơi, rồi dần dần nó ngấm vào giọng nói lúc nào không hay, bây giờ có những chữ mà loay hoay măi không nhớ ra chữ cũ để thay thế.
NÓI VỚI VIỆT KIỀU
Tác giả Chung Mốc hiện đang cư trú tại Thủ Đức, Việt Nam, gửi bài qua một thân hữu chuyển đến. Trước 1975, tại miền Nam, ông là một nhà giáo, một huynh trưởng hướng đạo sáng giá. Bài viết của ông, như tựa đề, viết theo cách nh́n của bà con quê nhà nh́n những Việt kiều Mỹ khi họ về thăm lại quê quán.
Tháng Năm, nóng toé khói.
Ai đă từng đi xa quê hương đều ước mong có dịp trở về, hoài niệm làm người ta xao xuyến đến cháy ḷng. T́m về từ vật chất đến tinh thần, để thấy những cái tưởng mất đi vĩnh viễn nay lại t́m gặp, cái xưa tầm thường nay trở nên quí giá.
Tôi may mắn thường có dịp đón tiếp thân nhân cùng bạn bè về thăm nhà, nhận thấy song song với nỗi vui mừng khi tái ngộ, c̣n có vài điều tưởng giữa chúng ta, TA và TÂY tự điều chỉnh, để ngày sum họp niềm vui thêm trọn vẹn.
Tôi nhận thấy có mấy dạng Việt Kiều:
1. Người giàu (Có lẽ là giàu thật) quan niệm đi 5 về 10, xênh xang áo gấm về làng, họ hàng cũng được thơm lây. Hàng xóm có ḷng đố kỵ cho là nổ : Hồi xưa nghèo không có đôi dép mà đi, giờ tha đi đâu cũng kè kè chai nước lọc, vô nhà ai cũng không dám uống nước dù là nước trà; nước giếng, nước mưa th́ chê hôi. Họ đâu c̣n nhớ tới những ngày kinh tế mới, những ngày đi đào kinh thuỷ lợi nghiêng nón múc một ít nước đục ngầu mà uống. Bây giờ cứ đ̣i vào nhà hàng máy lạnh sang thiệt là sang để ăn uống cho an toàn khỏi sợ đau bụng, nhưng nếu họ chịu quá bộ ra chỗ đang rửa chén tô, nơi nhà bếp đang lặt rau, làm cá băm thịt, th́ tưởng chưa có nơi nào mất vệ sinh hơn thế nữa !. Tôi lấy làm ngạc nhiên và hănh diện khi người ḿnh mới qua tới xứ người, người lâu th́ vài ba chục năm, người mới th́ chỉ năm hay mười năm mà nay ai cũng là bác sĩ, kỹ sư, chủ hăng chủ tiệm, tiếng Tây tiếng Mỹ phun phèo phèo, mà h́nh như không có ai làm thợ hết cả (?). Nếu quả thực như thế th́ Mỹ trắng Mỹ đen quá kém, nay họ lại phải xin đi làm công cho người ḿnh nhiều quá, chứ như ở VN mà mấy anh Campuchia qua đây lập nghiệp, không chịu làm cu ly khuân vác từ đời cha tới đời con th́ cũng c̣n khuya mới ngóc đầu lên nổi. Có người qua Mỹ đă lâu nhưng c̣n e ngại v́ tài chánh eo hẹp chưa muốn về thăm quê, v́ ngoài tiền vé máy bay ra, c̣n tiền quà cáp, xe cộ tiêu xài. Nhưng họ đâu biết rằng có tiền cho thân nhân đă quí, nhưng gặp lại người thân sau bao nhiêu năm xa cách c̣n quí hơn nhiều lắm. Vẫn biết rằng trong đám thân nhân "yêu vấu" kia thế nào cũng có người nói xấu sau lưng: "Việt Kiều về quê mà Trùm Ṣ thế th́ về làm quái ǵ". Cũng may số người này không nhiều.
2. Người nghèo (Có thể là nghèo giả) than van quá trời v́ sợ người nhà ṿi tiền, mà có người ṿi tiền thật, mè nheo đủ thứ. Họ không chờ cho đến khi gặp mặt mà thư, điện tới tấp khiến mẹ cha, anh em con cái phát chán, v́ người ta biết tiền gửi về sẽ bị tiêu pha một cách lăng nhách bởi những người chuyên vô công rỗi nghề, từ sáng tới tối xách xe chạy ṿng ṿng. Thái độ và cử chỉ bên TÂY th́ lịch sự nhă nhặn, cưng chiều vợ con hết mức (theo kiểu nịnh nghề bà lắm nạc) khiến phe TA ở quê nhà xốn con mắt lắm. Nhưng khốn nỗi TA lại cộc cằn thô lỗ, gia trưởng y như xưa, y như cách đây hàng thế kỷ. Hôm nay nhà có cơm khách, khách hỏi:
- C̣n các cháu đâu, không ra dùng cơm luôn thể?
- Các bác cứ xơi tự nhiên, các cháu đă có rồi.
Các bác đang xơi, các cháu thập tḥ ở cửa, Bố quát:
- Xuống bếp ăn với mẹ!
Đứa con giơ tay lên trời:
- Xin thề là dưới bếp hết cả nước lẫn cái rồi bố ạ!!!
*
Bên TÂY gặp nhau ôm hôn chùn chụt, bên TA mà làm thế có ngày chả c̣n răng ăn cháo. Hôm anh tôi về, thấy mấy trự Việt Kiều gặp người đi đón ở phi trường, lợi dụng cơ hội ôm hôn tùm lum, ảnh nói có nhiều người làm tṛ khỉ quá.
Rồi sau đó ít hôm ảnh lại nói sao Việt Kiều về cứ phải chứng tỏ ḿnh là Việt Kiều cho oai, lúc nào cũng thấy đeo cái túi mề gà trước bụng, đàn ông lại c̣n mang quần có dây đeo vai cứ như mấy anh bồi nhà hàng. Họ nói chuyện với nhau hay với con cái cứ xổ tiếng Mỹ làm người nhà phải nghệt mặt ra. Mà làm như thế nghĩ cũng chả ích lợi ǵ, chỉ tổ cho nhà hàng chém thẳng tay.
Việt Kiều thường phê b́nh người trong nước đổ đốn, không chịu làm ǵ cả chỉ ăn nhậu. Nói của đáng tội, cái đó cũng có nhưng v́ họ chưa có cơ hội tiếp xúc với những Giám Đốc trẻ không rượu bia thuốc lá; có trách nhiệm, năng lực và ḷng tự trọng; những người thợ quần quật với công việc nặng nề; những nông dân chân lấm tay bùn đă làm nên những thay đổi và ấm no hơn những ngày cũ.
*
Việt kiều lớn đă thế c̣n Việt Kiều con, tụi nhỏ về đây gặp khí hậu, thời tiết khác lạ, ăn ngủ trái múi giờ dễ sinh ra dị ứng ốm đau, làm ông bà cha mẹ lo sốt vó.
Thái độ tụi nó cũng kỳ dị lắm, h́nh như nó không thích được nâng niu âu yếm, đụng vào người là nó co rúm lại, mà người ḿnh có thương th́ mới rờ rẫm bóp mông, bóp đít khen nó mập, trắng hồng coi dễ thương hết sức. Ban đầu tôi tưởng tụi nó chê ḿnh ở bẩn, nhưng sau này mới biết là làm vậy không nên, nếu là ở Mỹ có thể bị kết tội child abuse ǵ đó.
Tụi nhỏ nói tiếng Việt không rành, nó ú ớ bảo là đau bụng, đưa thuốc cho uống cả tiếng sau mới nói là nó "wrong", nó bị đau cổ họng cơ. Có nhiều đứa lư sự và phá trời thần, trẻ con VN mà nói tay đôi với người lớn thế th́ có mà nát đít, c̣n trẻ Việt Kiều nó được tự do tranh luận nếu nó nhận thấy người lớn nói sai. Về VN mà nó làm cứ như ở nhà nó, cái máy quay phim, dàn máy hát ở quê nhà quí lắm, dành dụm biết bao lâu mới mua được, nhưng con cháu Việt Kiều về xài rồi nó quăng vất tứ tung, chọc ghẹo nhau chạy tới chạy lui làm đổ dàn am-pli, cả nhà thấy xót quá mà không ai dám nói ǵ!
Nói sang cái ăn mới ngộ, đăi Việt Kiều ở nhà hàng, TA ép TÂY ăn thịt.
TÂY than thở: "Tại sao lại ép chúng tôi những thứ mà hàng ngày phải ăn mấy chục năm nay?". Không lẽ kêu măng luộc, rau đay cua rốc, cà pháo mắm tôm, rau muống xào đập tỏi v.v...Những thứ đó quê tôi có đầy ra, bước ra đàng sau vườn loáng một cái có cả rổ, bây giờ thường để cho heo ăn mà thôi, ai nỡ ḷng nào đem ra đăi Việt Kiều.
Việt Kiều con th́ khác hẳn, vào bàn nó ngồi im như tượng, mặt buồn như Đức Mẹ Sầu Bi ngồi dưới chân thánh giá, hỏi ăn ǵ th́ chỉ lắc đầu. Thấy mấy ông kêu đồ nhậu rắn rùa, chim chuột ... đặc sản, nó chỉ con thạch sùng (thằn lằn) trên tường mà hỏi: "Con đó có ăn không ?"
Người lớn thích ăn tiết canh, mua con heo, con vịt về cắt tiết hay thọc huyết, nh́n thấy cảnh đó nó kinh hăi ôm nhau khóc thét lên. C̣n về thịt cầy, nó dặn là đừng bao giờ đánh lừa nó ăn một miếng, bởi v́ ăn thịt chó, tim sẽ đau đớn như phạm tội vậy. Về tới SG thả tụi nó vào khu siêu thị th́ như cá gặp nước, tụi nó hoạt bát hẳn lên, nói líu lo v́ trong đó có bán đồ ăn khoái khẩu của nó.
Ở quê tôi c̣n có một thứ mà mỗi nhà có Việt Kiều về thăm th́ phải lo trước, đó là cái bàn cầu ngồi theo lối Mỹ, nhà cầu kiểu cũ trẻ con ngồi không quen cứ ngă bổ chửng ra. Nhớ hồi cách đây hơn 10 năm, cầu cá dồ chưa bị cấm, có ông Việt Kiều đang ngồi th́ bị cầu sập, ông đứng giữa đ́a khóc ầm lên kêu Trời kêu Phật, kêu cả thánh quan thầy.
Một cái đáng sợ nữa cho Việt Kiều là muỗi. Xưa kia muỗi chỉ có mùa, bây giờ nhờ kinh tế thị trường nên có quanh năm, nó lại theo trào lưu khủng bố của thế giới nên không kêu vo ve nữa mà chuyên âm thầm đánh du kích, cắn xong một phát là chỗ đó ngứa không chịu nổi. Đối với người trong nước không hiểu v́ đă chịu muỗi chích hoài nên cơ thể quen nọc ngứa, hay là tại v́ thịt Việt Kiều thơm (tắm bằng xà bông Dove), hay tại muỗi vẫn c̣n thù dai đối với Đế Quốc, mà cho dù là ban ngày sáng sủa đàn muỗi không cắn ai, lại cứ xà quần bên Việt Kiều như đàn trực thăng sắp đổ quân vậy.
Đi với Việt Kiều nhí th́ thật là thê thảm, cho dù bôi thuốc chống muỗi rồi đó, nhưng dính mũi nào là làm độc mũi đó, có khi mưng mủ sưng to như trái chùm ruột. Tôi có đứa cháu kiên nhẫn ngồi đếm được 108 mụn trên một cái chân nhỏ bé !!!
C̣n trục trặc ngôn ngữ Việt giữa người trong và ngoài nước nữa chứ. Có nhiều Việt Kiều nghe không hiểu được những từ ngữ "mới". Hồi sau 75 tôi có dịp tiếp xúc với cán bộ hay người miền Bắc mới vô, nghe họ nói tôi buồn cười lắm mà không dám cười, sau đó nhái chơi, rồi dần dần nó ngấm vào giọng nói lúc nào không hay, bây giờ có những chữ mà loay hoay măi không nhớ ra chữ cũ để thay thế.
Thí dụ: Hôm nay tôi tranh thủ đến thăm anh (cố gắng). TV hôm nay bị sự cố kỹ thuật (trục trặc). Nhưng đến câu "Họ có mặt bằng cho thuê" th́ tôi đành chịu không t́m ra chữ nào để thay.
Có anh về nước cầm máy chụp h́nh hay quay phim th́ thấy cái ǵ hơi lạ là bấm máy liên hồi, thấy người ta nói đi xe khách chất lượng cao (high quality); xe tham quan (tourist); cửa hàng chuyên bán ổn áp (survolter) là cười khinh khỉnh, nhưng chúng tôi thấy họ nói pha tiếng Mỹ lại càng kỳ quái hơn: Đem cái xe tới tiệm để estimate, anh thợ sửa xe dốt nát đâu biết tiếng Tây tiếng U ǵ đâu, nghe vậy bèn tháo tung chiếc xe ra; bảo tun-ấp th́ nghe giống như "ốc" nên lấy đồ nghề ra siết tất cả những con ốc lại. Đàn bà con gái ǵ mà nói giữa chốn đông người "Tôi không có khe" (care); "Vẫn c̣n ở chỗ cũ đây, chứ tôi đâu có mu (move)". Cười, bởi v́ khe và mu là những chữ dùng để chỉ cơ quan sinh dục của đàn bà.
Có lần được tháp tùng về thăm quê cũ của mẹ tôi ngoài Bắc, gặp đứa em họ đang phụ trách một đoàn thể trong xứ đạo, nó hỏi xin cái máy kích. Tôi hỏi cần đẩy hay kéo cái ǵ, nó giải thích th́ ối giời ơi! đó là cái am-pli và cặp loa để phát thanh, ở ngoài Bắc gọi là cái máy kích âm !!!. Bây giờ họ c̣n hay nói tắt. Hỏi gia đ́nh thế nào? Trả lời dạo này gia đ́nh chúng em VẤT lắm (vất vả); Món này ăn ngon CỰC (cực kỳ); Thợ xây quát phu hồ: "Lấy cho tao bao Xi (xi măng) !!!
Chữ "bị" ở thế thụ động (passive voice) lại được nói: "Ông ta hơi bị giỏi đấy" ; Món này ăn hơi bị ngon v.v... Ban đầu tôi tưởng chỉ là cách dùng chữ cho khôi hài, không ngờ có những nhà văn lớn dùng trong văn chương nghiêm túc nữa đấy. Thật quái đản !!!
Hôm xem lậu cuốn băng Thuư Nga, thấy ông Nguyễn Ngọc Ngạn nói xỏ người ở nước ngoài hay nói chữ là, thay v́ nói "Rất đẹp" th́ lại nói "Rất là đẹp". Tôi th́ tiếng Anh dốt nát, đành dịch ra là "Very is beautiful"!.
Ngày xưa c̣n đi học mà làm luận văn xài chữ: th́, là, mà, bị v.v... lung tung như kiểu này chắc thầy vă cho rách mép. Ở VN bây giờ từ quan cho tới anh cùng đinh khố rách đều nghiện chữ "Nói chung" cũng như mấy anh Việt Kiều hay dùng chữ "You know" vậy. Hỏi thăm gia đ́nh khoẻ không th́ được trả lời: "Nói chung cũng tốt. Mẹ tôi c̣n đang nằm bệnh viện c̣n vợ tôi th́ mới chết tuần rồi". Hăy nghe đài BBC phỏng vấn mấy quan chức, hay đọc trong bản báo cáo của mỗi cơ quan, đoàn thể, mỗi ngành không bao giờ thiếu chữ "Nói chung":
- T́nh h́nh chỗ nào cũng vậy, nói chung là tốt, nhưng trong đó c̣n có một vài bộ phận yếu kém tồn tại ...
Tôi tới thăm gia đ́nh người bạn mới từ nước ngoài về, bố bảo con gọi mẹ ra đây. Thằng con chạy vào trong hét toáng lên: "Momy, dady muốn momy bây giờ". Hồi lâu sau nó lại chạy ra bảo: "Momy đang rửa he". Tôi ngạc nhiên ngẫm nghĩ măi mới hiểu là má nó đang gội đầu (hair).
Tháng rồi có mấy đứa cháu từ Úc về chơi, tôi dẫn đi ăn nghêu ở Ngă Sáu, trong đĩa nghêu luộc chín há vỏ ra, có con thịt rớt ra ngoài chỉ c̣n cái vỏ không, đứa bé cầm cái vỏ ngắm nghía một hồi rồi tặc lưỡi: "Không có ai". Ôi ngôn ngữ Việt của Việt Ta và Việt Tây sao mà rắc rối, biến hoá làm vậy!
Ngày vui qua mau rồi cũng đến ngày tiễn đưa người nhà ra phi trường. Người c̣n ở VN khoái tiễn đưa lắm, lư do là lúc đó người đi rất ngậm ngùi, c̣n bao nhiêu tiền trong túi cũng móc ra cho hết, thương lắm cơ.
Việt Kiều con ra tới phi trường th́ mừng lắm, chúng nhảy cỡn lên múa máy tay chân rồi la to:
- Thoát khỏi Việt Nam rồi! Thoát Việt Nam rồi!
Vậy th́ tôi c̣n mong ǵ khi chúng to lên, học hành thành tài rồi về giúp đỡ quê hương?
tm
|
|
hatlinh
member
REF: 706484
02/28/2016
|
AI “ĐẺ RA” CÁC ÔNG SƯ HƯ HỎNG?
Ai ‘đẻ ra’ những ông sư hổ mang?
Tôi trả lời ngay nhé: Chúng ta – những người Việt đang sống trên đất nước này. Chính chúng ta, những người thành kính đi vào chùa rón rén như đi trên thảm thủy tinh. Chúng ta đă là người tạo ra họ.
Tôi chưa sống đủ lâu để so sánh thói quen kính Phật trọng sư của các thời, nhưng nghe các cụ cao niên kể th́ chùa ngày xưa đơn sơ thanh tịnh, sư hiền lành giản dị, phật tử cúng dường cũng như chia sẻ đồ ăn thức dùng cho nhà chùa, có ǵ cúng nấy: nải chuối, bó rau, túi gạo… Không có th́ khi rảnh vào chùa làm công quả, lấy phước cho ḿnh.
Sư và phật tử gần gũi như hàng xóm láng giềng, như ông nội ông ngoại, hiền từ, hiểu biết, tự thân làm gương nên khuyên răn điều phải con cháu đều nghe.
Cách đây mấy chục năm, ngôi chùa gần nhà tôi mái ngói nâu thâm rêu, những bức cửa gỗ che mờ mờ không gian thờ cúng bên trong. Sân rất rộng, vài cây bồ đề cổ thụ tỏa mát rượi.
Trẻ con xung quanh vào đó tha hồ chạy nhảy, học bài cả mùa hè. Các bà ni rất hiền, thỉnh thoảng gọi bọn trẻ con lại cho trái cây ăn
Ngôi chùa in trong tâm trí tôi một vùng an lành suốt thời thơ bé.
Mấy chục năm sau, về nhà, tôi hết hồn. Ngôi chùa cổ kính xưa đâu c̣n? Một công trường rộn rực đang tới tấp phá bỏ, dựng lên một cung điện vàng son.
Màu sắc tưng bừng phồn thực, tượng Phật ánh vàng lấp lóa, chung quanh đèn led tỏa ra muôn ngọn hào quang. Cổ thụ bị đốn sạch, thay vào những chậu hoa đỏ xanh đủ cỡ.
Sư Thích Thanh Măo ở chùa Phú Thị xă Mễ Sở huyện Văn Giang tỉnh Hưng Yên khoe dàn karaoke 450 triệu đồng “có cả bộ trộn nhạc sàn”, khoe uống rượu “nửa lít một bữa nếu ngon ngon miệng và có anh em đông vui”, “uống rượu th́ sai thật nhưng thanh niên mà không uống rượu th́ chán lắm”
Sư Thích Thanh Cường ở Hải Dương khoe điện thoại Vertu, “đập hộp” Iphone 6, mặc quần áo rằn ri cầm súng, hoặc cười phớ lớ bên bàn thức ăn mặn ngồn ngộn…
Tôi không tin họ ngớ ngẩn đến mức không biết đă vi phạm giới răn của Phật. Vậy lư do nào cho họ tự tin, thoải mái làm điều đó trên công luận và mạng xă hội?
Niềm tin vô lối
Theo tôi chính là do niềm tin vô lối và sự lạm dụng niềm tin tâm linh đến mức cuồng ngạo của không ít người Việt.
Dán tiền đầy thân Phật, khiêng hàng gánh lễ lạt lên chùa trong đó phải có heo quay vàng ươm, tiền mặt cúng dường hàng bó, phóng sinh th́ để nguyên con cá trong túi nilon vứt véo xuống sông hay đánh bẫy những con chim con đang sống tự do về thả ra mong cầu phước.
Ở cấp thấp hơn th́ gặp cục đá kỳ lạ cũng khấn vái, thấy con rắn cũng khấn vái, nh́n cái cây cũng khấn vái…
Nhiều người lừa lọc trúng quả, nghĩ đi nghĩ lại cũng run run trong bụng, bèn trích một ít mang vào chùa dập đầu lạy Phật, cúng dường hàng cục tiền, xin sư cầu kinh thắp hương muốn cháy cả cái chùa, xem như đă dàn xếp với lương tâm.
Như thế là hối lộ Phật, cố t́m cách “bịt miệng” Phật, chứ thành tâm nỗi ǵ?
Mà Phật th́ vô sắc tướng, chỉ có những con người bằng xương bằng thịt mặc áo nâu sồng ở chùa là hiển hiện.
Trong số người đó, trước của cải vật dụng ngồn ngộn tự dưng hiến đến, sao tránh khỏi có những kẻ nổi ḷng tham lam?
Chưa kể đến những kẻ khôn ngoan, tinh vi hơn, chủ động dựng chùa để thu hút bá tánh cúng dường. Chùa với họ chỉ là một phương tiện làm ăn, một “Công ty trách nhiệm hữu hạn” vốn ít mà lời lăi nứt cả tường. Việc ít, đơn giản. Học thuộc vài bài kinh, tập gơ mơ tụng niệm, bịa ra ít truyền thuyết về sự linh thiêng, thế là ung dung ngồi chùa hái tiền.
Một cô bạn tôi kể: Ở làng hồi ấy có anh mang biệt danh Ba Búa. Nghe nickname biết anh không phải hiền lành ǵ rồi. Ảnh bỏ làng đi ít lâu, ngày nọ về tự dựng nên cái chùa.
Thiên hạ đồn linh thiêng lắm, cúng dường rầm rập. Có chị làng trên thường xuyên đến làm công quả. Rồi một hôm tự dưng thấy sư Ba Búa lại bỏ đi. Chị nọ đến chùa la làng quá trời đất. Té ra đă ôm cái bụng bầu mấy tháng.
Dân Việt Nam ḿnh dễ tin lắm. Cứ thấy chùa là cúng vái bất kể chùa thật hay chùa giả. Ở những nơi xa xôi hẻo lánh có khi càng dễ nữa. Cứ dựng lên một mái chùa, ê a niệm phật, thế nào cũng có người lặn lội mang của đến nuôi.
Những “chùa” này nhiều phần được dựng lên tự phát, không do Giáo hội Phật giáo cấp phép và quản lư.
Vô số chùa giả ở Việt Nam đă từng bị truyền thông phát hiện.
Nhưng bây giờ nhiều người cúng dường nặng tay lắm. Tôi có người bạn từng tu hành ở chùa nọ trước khi đi nước ngoài. Bạn kể có người cúng cả một mảnh đất lớn trên đường đi Đà Lạt: “Có rừng, có suối. Thầy làm am đẹp lắm”. Cúng xe hơi là chuyện thường.
Trong câu chuyện với báo Lao động, sư Thích Thanh Măo cũng nhắc đến món cúng dường 10 tỉ mà “anh H. nào đó, Cục phó, hứa cho để xây lại chùa”. Chi tiết này không kiểm chứng được, nhưng so với những câu chuyện thực tế tôi biết, nó cũng không khó tin.
Nhưng Phật dạy, việc ác hay lành, gặp điều cầu được hay không là do nhân quả của chính ḿnh. Do những việc chính ḿnh đă làm, gieo lành gặt lành, gieo ác th́ gặt ác.
Phật không cân đong vật phẩm người đời mang đi hối lộ, v́ với Phật sắc cũng là không. Thích Ca đă từ bỏ cả hoàng cung để đi t́m sự an lạc trong thân tâm th́ sá ǵ mấy con heo quay, mà đem nó lấy ḷng ngài cho được?
Lư do nào giải thích cho hiện trạng cuồng tín của nhiều người Việt Nam bây giờ?
“Lung lay niềm tin vào xă hội” có vẻ là một câu trả lời chưa hoàn toàn thấu đáo.
Tôi cho rằng chùa, sư ở Việt Nam bây giờ (trong phạm vi những hiện tượng đang đề cập), cũng như những hiện tượng tương tự trong các lĩnh vực khác, chỉ là phản ánh b́nh thường của một xă hội hỗn độn, quá nhiều dối trá, lừa lọc, vị kỷ và tham lam.
Tách riêng chúng ra th́ không thể lư giải và t́m ra nguyên nhân chính xác được.
Chọn thái độ nào với chúng?
Khác với thời vượt biên để t́m sự sống trong cái chết, bây giờ nhiều người Việt Nam có công ăn việc làm ổn định, có nhiều tiền, đang sống rất “tầng lớp trên” tại Việt Nam, lại đă và đang ráo riết t́m cách đi định cư ở những nước khác-những nước có nền luật pháp đáng tin cậy hơn, có xă hội trong lành hơn.
“Đi để con ḿnh được sống tử tế”, đấy là mục đích và mơ ước của họ.
Với những người ở lại, nhiều khi cách duy nhất để đỡ bị bức xúc, đứt gân máu mà chết, là bưng tai bịt mắt. Mặc kệ sự đời.
Hoàng Xuân
Gửi đến BBC từ Sài G̣n
|
|
aka47
member
REF: 706500
02/29/2016
|
Đă gọi là Sư quốc Doanh th́ Sư ăn thịt chó ngủ với gái uống bia ruwowujn là chuyện b́nh thường.
Giáo lư Phật giáo Quốc Doanh nói rằng:
Tu là phải diệt dục , bỏ tham sân si , nếu chỉ đọc kinh tụng niệm th́ không thể diệt được cái tâm sinh lư của cơ thể con người.
Vậy muốn diệt dục ta phải xả bớt cái dục , xả tức là diệt.. đừng để nó ứ lên cổ họng , rồi không chú tâm tụng niệm.
Tham sân si cũng vậy , khi có nhu cầu cần trong người ta phải t́m cách làm sao cho tâm sinh lư ta hả dạ , lúc đó trong ḷng thanh thản và tu mau đắc đạo.
A di đà Phật.
hihii
|
|
taolao
member
REF: 706946
03/11/2016
|
Một số thôi chớ đâu có hết cả? hy vọng họ sẻ thây tâm đổi tánh khi đọc những bài viết như thế này.
|
1
|
Kí hiệu:
:
trang cá nhân :chủ
để đă đăng
:
gởi thư
:
thay đổi bài
:ư kiến |
|
|
|
|