bathua
member
ID 33943
12/13/2007
|
BIỂN ĐÔNG DẬY SÓNG ( Ngô Thế Vinh )
BIỂN ĐÔNG DẬY SÓNG
Ngô Thế Vinh
Cửu Long cạn ḍng , Biển Đông dậy sóng , cuốn “dữ kiện tiểu thuyết” dày hơn 700 trang của nhà văn Ngô Thế Vinh, do Văn Nghệ xuất bản năm 2000, tái bản 2001, dự trù sẽ được tái bản trên T. ở dạng eBook vào đầu năm 2008. Nhưng với “sự kiện Hoàng Sa - Trường Sa” đang nóng hổi, chúng tôi cho đưa lên mạng sớm chương XV “Biển Đông dậy sóng”, tuy được viết từ trước năm 2000 nhưng vẫn c̣n nguyên tính thời sự.
T.
Nam quốc sơn hà Nam đế cư
Tiệt nhiên định phận tại thiên thư
Như hà nghịch lỗ lai xâm phạm
Nhữ đẳng hành khan thủ bại hư
(Lư Thường Kiệt)
Giữa lúc biến cố Hoàng Sa 1974 và Trường Sa 1988 đang gây xúc động sâu xa cho mọi con tim Việt Nam, Cao bắt liên lạc với Kham để hẹn gặp ở Berkerley trong buổi hội thảo “Địa lư Biển Đông với Hoàng Sa và Trường Sa”. Đang từ mối quan tâm về Đồng bằng Sông Cửu Long với con sông Mekong với 14 con đập bậc thềm Vân Nam Trung Hoa gây lo ngại hạn hán và hủy hoại môi sinh nơi các quốc gia hạ nguồn mà Việt Nam sẽ phải chịu hậu quả nặng nề nhất và chưa biết phải ứng xử ra sao, nay Cao lại bị cuốn hút ra xa thềm lục địa với các nhóm hải đảo ngoài khơi Biển Đông.
Chuyến đi lên Thung lũng Hoa vàng lần này sẽ giúp Cao bổ sung phần home work của anh trong cái nh́n thoáng và toàn cảnh về con sông Mekong với Biển Đông và mối liên hệ các quốc gia trong khu vực Thái B́nh Dương đặc biệt là với nước lớn Trung Hoa và cũng là quốc gia hung hăn nhất.
Là đại dương lớn nhất chiếm hết gần một phần ba diện tích của cả hành tinh này, tên Thái B́nh Dương - Pacific Ocean do nhà thám hiểm Ferdinand Magellan đặt vào năm 1519 gốc từ chữ Tây Ban Nha “Pacifico” có nghĩa là ḥa b́nh nhưng bước sang đầu thế kỷ 21 vùng biển ḥa b́nh ấy rất có nguy cơ biến thành “Biển Lửa” bằng một trận “Armageddon Đông phương”.
H́nh như trong suốt ḍng lịch sử, hai yếu tố vừa phá hủy vừa tạo dựng xă hội Việt Nam đó là: đối đầu với cường địch phương Bắc và chống chỏi với khắc nghiệt của thiên nhiên. SarDesai khi nghiên cứu về Việt Nam cũng đưa ra ư kiến tương tự như vậy.
Giá trị chiến lược của Hoàng Sa - Trường Sa trên Biển Đông không phải là điều mới mẻ, rất sớm ngay từ thời Pháp thuộc, Gustave Salé trong bài “Les Iles Paracels et la securité d'Extrême-Orient” báo Avenir du Tonkin (1931) đă viết: “Không ai có thể phủ nhận tầm quan trọng có tính cách chiến lược của quần đảo Hoàng Sa... Cho dù trước 1816 thực sự chẳng ai biết tới, năm 1816 vua Gia Long long trọng cho dựng cờ trên đảo, việc này c̣n ghi rơ trong văn khố triều đ́nh và v́ thế cho dù Trung Hoa có muốn tranh giành th́ chánh phủ Pháp phải lên tiếng xác định chủ quyền các đảo ấy”.
Chỉ mấy thập niên gần đây thôi, do hứa hẹn về dầu mỏ trên vùng biển quanh các quần đảo này mới là nguyên nhân tranh chấp gay gắt giữa nước lớn Trung Hoa và các nước quanh Biển Đông nhất là với Việt Nam. Hoàng Sa - Trường Sa đang có nguy cơ trở thành ḷ thuốc súng.
Nói về dầu khí trên Biển Đông, vào những năm 60, một giáo sư khoa địa chất đă quả quyết theo kiến thức chuyên môn của ông th́ Việt Nam và Biển Đông không có dầu lửa, cho dù lúc đó đă có những tường tŕnh sơ khởi của các đoàn thăm ḍ Liên Hiệp Quốc xác nhận về sự hiện hữu các túi dầu khí.
Cho tới cả đầu thập niên 70 , vẫn ông giáo sư địa chất ấy quả quyết là ông không tin có dầu lửa như kết quả của các cuộc thăm ḍ. Ông c̣n đưa ra h́nh ảnh ví von: dầu hỏa nếu có th́ cũng chỉ như những hạt sương buổi mai đọng trên những ngọn cỏ lá cây ngoài đồng ruộng nên nói tới kỹ nghệ khai thác dầu ở Biển Đông là “chuyện không tưởng” v́ làm sao mà thu nhặt được những giọt dầu rải rác ấy mà đem ra thị trường thương mại.
Nhưng rồi chỉ một tháng sau ngày Sài G̣n giải phóng, tại hội trường số 4 Duy Tân, trong một đại hội bừng bừng khí thế của Hội Trí thức Yêu nước và Tổng hội Sinh viên Giải phóng, cũng lại vẫn ông giáo sư địa chất khi được hỏi về tương lai dầu khí Việt Nam, bằng một giọng giảo hoạt, ông dơng dạc tuyên bố:
“Chúng ta không những có dầu mà có rất nhiều nữa, không những ngoài Biển Đông trên thềm lục địa mà có khả năng có túi dầu khí ngay trong vùng Đồng bằng Sông Cửu Long nữa ḱa!”
Khi được hỏi về ư kiến khác biệt của ông trước đây, ông giáo sư như tự kể công với cách mạng và cười nói thích thú:
“Đúng là tôi đă đưa ra nhận định đó, nhưng cần phải đặt lời tuyên bố ấy trong bối cảnh lịch sử của nó (rất giống với xă luận của báo Nhân dân). Sở dĩ trước đây tôi nói dzậy là để tránh không cho Mỹ Ngụy biết mà khai thác sớm.”
Rồi ông giáo sư mau mắn đưa ra ngay lời trích dẫn:
“Bác Hồ kính yêu đă dạy: ‘Các vua Hùng đă có công dựng nước, Bác cháu ta phải cùng nhau giữ nước’, mà giữ nước là phải bảo vệ cả nguồn tài nguyên thiên nhiên không có chi quư bằng dầu khí ở thời đại công nghiệp... Ngày nay nước nhà thống nhất, th́ đây chính là tin vui tôi muốn được chánh thức thông báo cho tất cả anh em và bà con.”
Thêm một câu chuyện bên lề, cũng trong buổi hội thảo đầy hưng phấn ấy, một ông giáo sư tiến sĩ khác tốt nghiệp ở Mỹ đă phát biểu về phi thuyền Apollo như sau:
“Không làm ǵ có chuyện Mỹ có khả năng đưa người lên cung trăng khi mà khoa học không gian của họ c̣n thua Liên Xô tới hơn một thế hệ.”
Châu thổ phù sa sông Cửu Long không phải chỉ sản xuất toàn trái ngọt, hậu duệ của thế hệ tiên phong khai phá ấy cũng không tránh được một hai đứa con với nhiễm sắc thể suy thoái (defective gene), lại vẫn nói theo ngôn từ của bác sĩ Duy.
Để rồi sự thể ngày nay, câu chuyện Biển Đông có những túi dầu không những là hiển nhiên mà c̣n có dấu hiệu trữ lượng dầu khí có thể lên tới con số bảy tỷ thùng hoặc nhiều hơn nữa.
Chưa một lần gặp mặt, tôi chỉ được biết Kham khi đọc xong cuốn sách mới nhất của anh. Cao nghĩ chắc anh ta là con người đă đạt hoặc nếu không th́ cũng cực kỳ khiêm tốn nên trong suốt cả cuốn sách người ta không thấy được cái tôi đáng trân trọng của anh.
Anh nguyên là hạm trưởng của một trong 4 chiến hạm cũ kỹ của Mỹ để lại từ thời Thế chiến thứ Hai, tham dự trận hải chiến tại Hoàng Sa năm 1974 với một hạm đội đông đảo của Trung Quốc với những phóng pháo hạm Kronstadt có trang bị hỏa tiễn tầm xa, lại có cả phản lực cơ Mig 21 yểm trợ trên không. Chính anh là nhân chứng máu và nước mắt của những con tàu Việt Nam chiến đấu đơn độc trên Biển Đông, chứng kiến ḷng yêu nước vô hạn ư chí quyết tử cũng như sự hy sinh dũng cảm vô bờ của các đồng đội, nhất là của thủy thủ đoàn trên con tàu Nhật Tảo ở những giờ phút cuối cùng ư chí sắt thép vẫn không chịu buông tay súng để rời con tàu đắm. Họ đă là những thủy thủ tận trung với nước mà vị quốc vong thân.
Cho dù đă bao năm rời xa con tàu xa biển nhưng trong ánh mắt Kham như c̣n vương vấn những áng mây hải đảo những con sóng bạc của trùng dương và trong chiều sâu đáy mắt ấy luôn luôn có ánh lửa của nhiệt tâm với cả nỗi khắc khoải khôn nguôi về tấn thảm kịch đă lùi xa đến gần một phần tư thế kỷ và chắc hẳn Kham đă không bao giờ quên.
Chuyện 25 năm trước mà vẫn như mới hôm qua, Kham và những người lính đă đánh một trận đánh hết sức ḿnh, với nỗi uất hận của cả ngàn năm nô lệ: họ đă trút hết hỏa lực vào đầu địch, đă bắn đến viên đạn cuối cùng cho tới khi tất cả các giàn đại pháo bất khiển dụng. Họ chỉ c̣n chờ lệnh cho các con tàu hướng về Hoàng Sa chuẩn bị ủi lên đảo, dùng xác tàu và xác ḿnh để làm chứng tích chủ quyền. Nếu có một lệnh như vậy, cho dù đă mang đầy thương tích - riêng con tàu của Kham đă bị nghiêng sang trái 15 độ, các chiến hạm c̣n lại cũng sẽ mở hết tốc lực hướng về Hoàng Sa hướng về cơi chết tất cả chuẩn bị lên cạn để phơi xác ḿnh. Nhưng rồi cuối cùng là một lệnh khác bắt các chiến hạm phải rời bỏ Hoàng Sa đă rơi vào tay địch, bỏ lại phía sau trận địa là hộ tống hạm Nhật Tảo với hạm trưởng Ngụy Văn Thà và các thủy thủ đă cùng con tàu vùi thân dưới biển sâu, bỏ rơi luôn cả những đồng đội c̣n sống sót trên những chiếc phao trôi rạt giữa đại dương với ngày nắng cháy da với đêm lạnh cắt thịt trong đói và khát. Mặc cảm phạm tội luôn luôn đeo đẳng Kham cho dù chẳng ai trách cứ anh, lại c̣n có người choàng hoa cho anh một ṿng hoa cho người chiến bại. Kham chỉ c̣n một an ủi ḿnh là một quân nhân kỷ luật, anh chỉ biết nghe theo lệnh.
Tôi cũng được biết thêm về Ngụy Văn Thà, từng mang biệt danh “người chiến thắng trên ḍng nước nâu Cửu Long” khi anh c̣n là hạm trưởng pháo hạm HQ331 bởi v́ chính ông Khắc khi c̣n là phóng viên chiến tranh đă từng theo Thà trong chuyến hộ tống đầy bất trắc cho các đoàn voi tiếp tế cứu nguy thủ đô Nam Vang lúc ấy đang bị Khmer Đỏ bao vây.
Sau trận chiến Hoàng Sa, bản thân Kham đă phải qua một chặng đường đau khổ. Trong nhiều tháng như vậy nếu không là những đêm dài mất ngủ th́ là sự lặp lại của những cơn ác mộng khác nhau của tấn thảm kịch Hoàng Sa: cũng vẫn anh là cấp chỉ huy của con tàu ấy với thủy thủ đoàn dũng cảm ấy mà anh biết rơ từng người như đường chỉ trên bàn tay của ḿnh... lần nào cũng vậy, c̣n rất xa trận địa chưa thấy địch quân chưa được nổ một phát súng th́ con tàu của anh đă bị rockets tầm xa của Trung cộng bắn ch́m, tiếp theo đó là tấm thảm kịch của chính anh và những thủy thủ trong một con tàu ngập nước. Không mấy xa nơi con tàu đắm anh vẫn thấy rơ dấu hiệu HQ10 của hộ tống hạm Nhật Tảo thấy rơ cả Ngụy Văn Thà và Trí Voi hạm phó và đủ 80 thủy thủ, họ vẫn an nhiên tự tại làm nhiệm vụ tuần tiễu trên Biển Đông nước xanh, trong cơn quẫn bách Kham đưa cánh tay vẫy gọi nhưng họ không thấy anh. Trong giấc mơ đầy lửa đạn và tức tưởi ấy, th́ Nhật Tảo như từ bao giờ vẫn là một con tàu vững chăi hiên ngang lừng lững và như không bao giờ có thể bị đánh ch́m / unsinkable ship...
Người bác sĩ tâm thần giải thích là Kham đang mang nỗi ám ảnh thường xuyên của người đàn ông bị hoạn / castration: trên con tàu anh là cấp chỉ huy bị giải giới, trong gia đ́nh anh đóng vai người đàn ông bất lực... Không chỉ bằng thuốc anh c̣n được giúp cho trở lại thăm một nơi giống như chiến trường cũ, ném xuống những ṿng hoa nơi vùng biển sâu nơi con ḱnh ngư Ngụy Văn Thà và đồng đội đă chọn ở lại. Điều trị bằng catharsis _ cách sổ ấy anh đă ra khỏi cái Hội Chứng Sau Chấn Thương _ PTSD, anh t́m lại được sức mạnh tiềm tàng của bản thân, của đời sống gia đ́nh và anh thực sự bắt đầu làm việc trở lại.
Trong suốt bấy nhiêu năm như mệnh lệnh của trái tim anh đă không ngừng thu thập những dữ kiện phong phú về Biển Đông và hai quần đảo Hoàng Sa Trường Sa mà anh biết rơ là đang tuột dần ra khỏi chủ quyền của Việt Nam không biết tới bao giờ. Anh ngẫu nhiên và cũng là bất đắc dĩ trở thành một học giả, thứ danh xưng quá lớn chạm tới ḷng khiêm tốn mà người ta cứ gán cho anh và anh được coi là tiếng nói có thẩm quyền về các vấn đề liên quan tới Biển Đông.
Kham cũng biết rất rơ rằng một quốc gia như Việt Nam để được công nhận quyền sở hữu các đảo anh phải trưng ra được các bằng cớ: về vị trí địa dư và tính chất địa chất của đảo, lịch sử và các di tích trên đảo, tổ chức hành chánh và sắc dân chính trên đảo.
Cuốn sách của Kham được kể như bước đầu đáp ứng những yêu cầu ấy. Anh c̣n nuôi ao ước giới trẻ Việt Nam hải ngoại cũng như trong nước không những chỉ quan tâm mà c̣n dấn thân vào những cuộc nghiên cứu sâu rộng để tương lai trong các thư viện đại học lớn sẽ có những luận án tiến sĩ về những đề tài đa dạng liên quan tới Biển Đông, cũng giống như nỗi ao ước của Cao bấy lâu về con sông Mekong.
Giở tấm bản đồ Asia Pacific mới nhất của National Geographic Society, một cơ sở mà trước đây Kham vẫn tin là có uy tín với tính khoa học vô tư nhưng Kham đă không nén được sự bực bội. Khi vẽ vùng Biển Đông, cả khu vực mà họ gọi là South China Sea gần như hoàn toàn giống với ranh giới lịch sử lưỡi rồng của Trung Hoa với ôm trọn cả hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Và Kham cũng đă không ngạc nhiên khi thấy cũng trên tấm bản đồ ấy cả ranh giới xứ Tây Tạng bị xóa nḥa trong cái trật tự mênh mông của lục địa nước Trung Hoa.
Rơ ràng sẽ là một sai lầm về chánh trị / politically incorrect và cả đưa tới những ngộ nhận nếu cứ xử dụng dễ dăi các bản đồ ngoại quốc với cách phân định ranh giới và các địa danh Trung Hoa như Tây Sa, Nam Sa, Nam Hải, biển Trung Hoa như hiện nay.
Bởi v́, như một bất hạnh lịch sử, cũng là điều bi thảm khi dân tộc Việt Nam đă bị người Tàu đô hộ cả ngàn năm đă chịu ảnh hưởng của họ sâu xa về mọi phương diện ngay cả khi lấy lại được nền tự chủ th́ chữ Hán vẫn là văn tự chính thức kết quả là hầu hết các địa danh Việt Nam là những từ Hán. Lại thêm bao nhiêu sách lịch sử địa lư của tiền nhân nếu không bị chiến tranh phá hủy th́ cũng bị người Tàu tịch thu đem về Trung Hoa. Phải có hùng tâm khởi sự từ bước đầu để t́m lại những tác phẩm bị thất truyền hay c̣n lưu trữ đâu đó trong những kho sách xưa của Trung Hoa.
Do đó Kham đă thật chí lư khi nói tới nhu cầu thiết lập một bản đồ về Biển Đông với thềm lục địa và cả xác định rơ các thành phần đâu là đảo, đá, băi nông hay băi ngầm với các địa danh thuần Việt. Điều ấy th́ Kham đang làm. Đó sẽ là phần tài liệu pháp lư khi Việt Nam lên tiếng xác nhận chủ quyền trên biển Đông.
Là một đất nước vĩ đại với hơn một tỉ dân, vừa ra khỏi những năm tháng đắng cay nhục nhă v́ bị liệt cường Tây Phương sâu xé, ngày nay Trung Hoa không những phát triển rất nhanh về kinh tế mà con gia tăng gấp bội về sức mạnh quân sự và cả tham vọng bành trướng, trở thành đối thủ hàng đầu của Hoa Kỳ bước vào thế kỷ 21. Bắc Kinh đă nói không úp mở Á châu phải là khu vực ảnh hưởng của Trung Hoa, và chính thức cảnh cáo Mỹ không được phép can thiệp vào cuộc tranh chấp chủ quyền quần đảo Trường Sa giữa Hoa lục và các quốc gia vùng Đông Nam Á. Không những thế Trung cộng c̣n công khai kêu gọi sự triệt thoái toàn bộ quân đội Hoa Kỳ ra khỏi khu vực Thái B́nh Dương - một sự kiện chưa hề có từ trước tới nay - đồng thời Trung Quốc đă thử thành công loại hỏa tiễn tầm xa bắn tới tận Hoa Kỳ. Trường Sa không chỉ là ḷ thuốc súng mà xa hơn thế nữa, theo phóng viên AFP, việc lôi kéo Hoa Kỳ can dự vào nỗ lực đi t́m một giải pháp cho cuộc tranh chấp c̣n có nguy cơ dẫn đến một cuộc chiến tranh nguyên tử. Điều mà chắc chắn Hoa Kỳ không bao giờ muốn và cũng không dám liều lĩnh nếu như chưa đụng tới quyền lợi sinh tử của Mỹ.
Tư lệnh Hải quân Trung Hoa đă từng công khai tuyên bố: để sinh tồn Trung Hoa rất cần dầu khí và ngư nghiệp của Nam Hải, cá sẽ là nguồn protein cho hơn một tỷ người Trung Hoa.
Trung Hoa đang có biểu lộ muốn dùng sức mạnh để thực hiện chánh sách bá quyền trong khu vực Đông Nam Á. Điển h́nh là vụ tranh giành Biển Đông với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, trong đó Việt Nam và Trung Hoa bề ngoài là hai nước anh em nhưng bên trong lại có nhiều mâu thuẫn tranh tụng nhất và cũng là một cuộc tranh chấp kiểu châu chấu đá xe hoàn toàn không cân sức.
Giữa t́nh thế cực đoan ấy, hiện nay lại đang manh nha một quan niệm nguy hiểm phát xuất từ chính những người Việt, không ai khác hơn là mấy ông trí thức khoa bảng ở Paris, ở Bắc Mỹ như những nhà mộng du uyên bác, cho rằng “có một hiện tượng xuống cấp toàn cầu của ư niệm quốc gia dân tộc”, rồi họ nói tới “sự kết hợp lưu vực, liên minh kinh tế” hứa hẹn một không gian hoạt động lớn hơn vượt biên giới quốc gia, “trong đó bản thể dân tộc không c̣n một ư nghĩa quan trọng nào nữa” [sic]. Chờ đợi cho được giàu có kiểu sung rụng và chấp nhận một kết hợp kiểu chó sói và cừu th́ cái cộng đồng mất bản thể ấy đương nhiên trở thành một thứ công dân hạng hai / second class citizen, không khác chi một h́nh thái nô lệ tự nguyện cho dù có mang danh xưng mĩ miều như Pax Sinica trong khối thịnh vượng của một nước Trung Hoa.
Tuy không c̣n trẻ nữa, nhưng mấy năm gần đây Kham lại bắt đầu chuyển trọng tâm nghiên cứu sang các đề tài rộng lớn về nền văn minh nước, về hải dương học và những nét văn hóa đặc thù thiên về hải dương của dân tộc Việt Nam mà theo anh khác hẳn với người Trung Hoa là giống dân lục địa với thói quen và cách suy nghĩ của những người sống trên đất liền và kiến thức của họ về biển thật ít ỏi.
Như một giấc mơ không thể được - impossible dream - trong cuối phần cuộc đời c̣n lại Kham nuôi hoài băo noi gương tổ tiên trước cả các đời vua Hùng Vương thực hiện một cuộc hải hành bằng bè từ châu thổ sông Hồng băng qua đại dương tới lục địa Mỹ Châu bằng các ḍng hải lưu.
H́nh như Kham vẫn không ngừng t́m cho được một cơ hội lớn để được chết, điều mà anh ân hận đă để lỡ trong trận Hoàng Sa. Phải chăng đây là phương cách chọn lựa để cuối cùng thân xác anh cũng được trở về với tịch mịch của ḷng biển sâu.
Kham được mời làm diễn giả chính trong buổi hội thảo với sinh viên ở Berkeley, và điều đáng nói là thành phần tham dự, ngoài đa số là sinh viên Việt Nam c̣n có cả mấy sinh viên Trung Hoa được mời tới như những quan sát viên. Tuy không phải là nhà hùng biện, lại có accent của người ngoại quốc nói tiếng Anh, nhưng Kham có lối nói đi thẳng vào trái tim mọi người. Anh đă từng ví von một cách thơ mộng Biển Đông như cái sân trước của căn nhà Việt Nam và những hải đảo thân yêu là những cây cối ở trong vườn với những cánh hải âu ríu rít là đám chim muông.
V́ là một đề tài quá mới lạ đối với các thành phần tham dự nên cuộc hội thảo mang tính chất giải đáp thay v́ tranh biện. Đến phần “Làm ǵ?” Kham đă động viên lớp người trẻ không phải là xung vào đội quân chí nguyện cầm súng ra trấn giữ các hải đảo mà là chuẩn bị một đội ngũ trí tuệ trong mọi lănh vực khoa học đặc biệt là các ngành hải dương học, địa chất, môi sinh và cả về Luật biển và Quốc tế Công pháp. Họ sẽ là những thành viên không thể thiếu trên các bàn hội nghị hay trước Ṭa án Quốc tế trong tương lai. Với sự kiên nhẫn Kham tin rằng “yếu tố thời gian sẽ đứng về phía chúng ta”.
Cùng với nhiều học giả Việt Nam trong Nhóm Sử Địa, Kham đă không ngừng vận động đem ngay vấn đề Hoàng Sa - Trường Sa và Biển Đông vào chương tŕnh giáo dục ngơ hầu mọi người Việt đều có sự hiểu biết cơ bản và mối quan tâm về vùng đất, vùng biển, vùng trời của tổ quốc.
Anh có niềm tin sắt đá là cho dù vùng biển vùng đảo đă bị Trung cộng dùng vơ lực cưỡng chiếm tới bao lâu và phải mất bao nhiêu năm đi nữa th́ sớm muộn cũng “Châu về Hiệp phố”.
Với cái giá của bao nhiêu sinh mạng đồng đội, và của cả những người bạn chí thân như Thà như Trí, Kham luôn luôn khắc khoải với những câu hỏi: học được ǵ sau biến cố máu và nước mắt Hoàng Sa? Xa hơn nữa là học được ǵ qua kinh nghiệm giữ nước của tiền nhân khi mà địch có trường trận lại dùng cả kế tàm thực như tầm ăn dâu?
Am tường lịch sử, Kham hiểu rằng không c̣n cái dễ dàng của chín năm kháng chiến chống Pháp hay hai mươi năm chống Mỹ, một khi để mất chủ quyền vào tay Trung Hoa có nghĩa là phải chấp nhận cuộc chiến cả trăm năm với một đối thủ đầy mưu lược thâm hiểm kiểu Đông phương lại có thêm cả biển người và chưa bao giờ có mối quan tâm về những tổn thất nhân mạng - như trong trận chiến tranh Triều Tiên và trận chiến biên giới Việt - Hoa 1979 mới đây.
Đă không có sức mạnh kháng địch th́ phải dùng kế sách, phải lập kế sao cho sâu rễ bền gốc. Không có hỏa tiễn tầm xa th́ ta có vũ khí trí tuệ có tầm xa thời gian của “tam bách dư niện hậu” th́ sớm hay muộn đất ta cũng lại trở về với tổ quốc ta.
Nhưng Kham cũng không hoàn toàn là con người viễn mơ, anh vẫn kêu gọi mọi người Việt bên trong cũng như ngoài tiết kiệm để có tiền xây dựng một lực lượng quốc pḥng nhất là hải quân hùng mạnh đủ sức bảo vệ vùng biển vùng trời khi cần đến chứ đâu có bó tay nhục nhă như hiện nay để hàng ngày phải chứng kiến các hạm đội Trung Quốc nghênh ngang ra vào các vùng lănh hải Việt Nam như chốn không người.
Thúc đẩy bởi ḷng yêu nước nồng nàn nhưng Kham lại rất tiết chế và chừng mực. Anh chưa hề có mảy may biểu lộ tinh thần bài ngoại, theo đuổi chủ nghĩa yêu nước cực đoan bài Hoa. Mà bảo anh bài Hoa sao được khi chính bản thân anh vẫn cứ măi yêu mến vẻ đẹp của một bài thơ Đường Đỗ Phủ hay nét thanh thoát thủy mặc của những bức tranh Hạ Khuê / Hsia Kuei đời Tống và chính anh cũng đă chấp nhận với không một định kiến cho đứa con gái út của anh chọn lấy một người chồng Trung Hoa, một nhà vật lư trẻ ở Cornell cũng là nơi con gái anh đang theo học. Ở Kham là sự dứt khoát khẳng định về quyền tự chủ trong đó có chủ quyền về lănh thổ lănh hải với Hoàng Sa và Trường Sa là điều bất khả tương nhượng.
Suy luận th́ như vậy nhưng với cái tâm lành, Kham vẫn tin ở một trật tự toàn cầu khi nhân loại bước vào thiên niên kỷ mới trong đó các siêu cường sẽ biết hành sử một cách có trách nhiệm chứ không thuần chỉ dựa trên sức mạnh như hiện nay. Thêm vào đó, Kham c̣n tin vào những nhà trí thức Trung Hoa chân chính có công tâm, khi họ hiểu được thực trạng éo le của lịch sử họ sẽ cảm thông với người Việt chúng ta và cũng để thấy rằng hạnh phúc của cả hai dân tộc Hoa Việt là sống chung ḥa b́nh để cùng khai thác và chia xẻ hợp lư các nguồn tài nguyên trên Biển Đông cũng như trên con sông Mekong.
Chỉ bằng cuốn sách của Kham, người ta đă hiểu biết được khá rơ những vấn đề cơ bản liên quan tới Biển Đông. So với diện tích chỉ có 340 ngàn km2, nhưng Việt Nam lại có một bờ biển trải dài hơn 2500km, thoải ra là một thềm lục địa không sâu với trên 2500 hải đảo hoặc họp thành quần đảo hoặc là những ḥn đảo đơn độc. Trên cái nền chưa hoàn toàn ổn định ấy thỉnh thoảng vẫn c̣n những xáo trộn địa chấn: điển h́nh là vào năm 1923, ngoài khơi Phan Rí phía nam đảo Phú Quư 22 dặm, đột nhiên xuất hiện đảo Ḥn Tro cao tới 30m và cạnh đó có thêm một ḥn đảo nhỏ khác nhưng chỉ vài tháng sau cả hai đều biến mất, giả thiết rằng hai ḥn đảo ấy vừa được tạo bởi dung nham và tro bụi nên có tên Ḥn Tro, do núi lửa phun lên từ đáy biển nhưng rồi sau đó bị sóng gió và các luồng hải lưu cuốn trôi đi không c̣n để lại dấu tích nào.
Nói về sự h́nh thành thềm lục địa trên Biển Đông qua các thời kỳ địa chất, phải kể tới sự góp phần của hai con sông Hồng và sông Mekong cùng phát nguyên từ nóc cao trái đất trên cao nguyên Tây Tạng chảy qua các quốc gia cuối cùng đổ ra biển Đông bằng các cửa sông Việt Nam.
Với sông Hồng, có lẽ từ mấy triệu năm trước thời địa chất Pleistocene, con sông ấy đă liên tục đổ ra biển lượng phù sa khổng lồ, góp phần tạo thành một b́nh nguyên biển trải dài ra tới cồn Cát Vàng hay Hoàng Sa / Paracels.
Với sông Mekong, chỉ mới chục ngàn năm trước thôi, con sông hoang dă ấy mới bắt đầu tạo h́nh vùng đồng bằng châu thổ từ đáy biển, khoảng từ nguyên đại đệ tam, do hợp chất pyrite có chất sắt từ trầm tích phù sa kết hợp với chất sulphur trong nước biển khiến đáy biển nhô dần lên và để rồi hàng năm vẫn được các con nước lũ đổ về bồi đắp thêm tầng tầng lớp lớp phù sa ngày một dày thêm. Con sông Mekong dũng mănh ấy không ngừng trút ra Biển Đông một khối lượng phù sa lớn lao tạo nên một thềm lục địa với hai thung lũng biển tạo bởi ḍng chảy của hai con Sông Tiền Sông Hậu trải dài hơn 400km ra tới băi Tứ Chính thuộc quần đảo Trường Sa / Spratly.
Bên dưới sâu thềm lục địa ấy quanh Hoàng Sa và Trường Sa là những kết tầng thủy tra thạch nơi h́nh thành những túi dầu rất lớn, tạo thèm muốn nhất là với Trung Hoa.
Về phương diện địa chất, các cuộc khảo sát khoa học đă cho biết hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa là phần nối dài của thềm lục địa Việt Nam trên Biển Đông và cũng rất xa đối với Trung Hoa.
Giả thiết mực nước biển hạ xuống tới khi b́nh nguyên biển trồi lên th́ Hoàng Sa là một dải đất liền dính vào Việt Nam và cách biệt hẳn với Trung Hoa bằng một vùng biển sâu.
Krempf (1925) thuộc Hải Học viện Đông Dương, khi khảo sát về đáy biển Hoàng Sa đă nhận xét rằng quần đảo này là một b́nh nguyên biển nối dài ra từ rặng Trường Sơn, Trung phần Việt Nam, và ông đă đi tới kết luận “Về phương diện địa chất, quần đảo Hoàng Sa là thuộc Việt Nam”.
C̣n với quần đảo Trường Sa, theo Vũ Hữu San nếu quan sát các đường đồng thâm / depth contour, trên hải đồ người ta thấy các đảo ấy cách biệt hẳn với Trung Hoa lục địa và Đài Loan bằng rănh biển sâu hơn 3000m về phía bắc và đông bắc và cũng ngăn cách với Phi Luật Tân, Brunei và Mă Lai bằng rănh sâu Đông Palawan / East Palawan Trough.
Trong khi chánh phủ Việt Nam Cộng ḥa ở miền Nam không những quan tâm bảo vệ mà c̣n rất chú ư tới các cuộc khảo sát nghiên cứu phát triển Biển Đông, thềm lục địa, các quần đảo Hoàng Sa Trường Sa với Hải Học viện Nha Trang, các phân khoa địa chất và sinh vật của Đại học Khoa học Sài G̣n... Công tŕnh nghiên cứu NAGA được kể là quy mô nhất: trong suốt 2 năm 59-61 các nhà khoa học Việt Nam, Mỹ và Thái Lan đă khảo sát hành lang thềm lục địa dọc theo bờ biển Việt Nam qua tới vịnh Thái Lan với thu thập rất nhiều hiểu biết về địa chất, sinh vật và hải dương học của Biển Đông. Khi c̣n là một sĩ quan hải quân rất trẻ mới ra trường Kham đă may mắn có cơ hội được phục vụ trên con tàu NAGA đó.
Riêng tại miền Bắc, cấp lănh đạo Đảng Cộng sản Việt Nam chẳng những không có một tiếng nói đ̣i chủ quyền c̣n tự nguyện dâng cả hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa cho Bắc Kinh. Bức công hàm ngoại giao 14-09-58 gửi Trung Hoa của chánh phủ Việt Nam Dân chủ Cộng ḥa do Thủ tướng Phạm Văn Đồng kư với nội dung “tán thành bản tuyên bố ngày 04 tháng 9 năm 1958 của chánh phủ Cộng ḥa Nhân dân Trung Hoa quyết định về hải phận của Trung Quốc”.
Mười tám năm, sau báo Sài G̣n Giải phóng 05-76 vẫn tiếp tục bênh vực cho nội dung kỳ quái của bức công hàm ấy: “Việt Nam - Trung Quốc là hai nước anh em sông liền sông, núi liền núi. Trung Quốc vĩ đại đối với chúng ta không chỉ là người đồng chí mà c̣n là người thầy tín cẩn, đă cưu mang chúng ta nhiệt t́nh để chúng ta có được ngày hôm nay, th́ chủ quyền Hoàng Sa thuộc Trung Quốc hay thuộc ta cũng vậy thôi. Khi nào chúng ta muốn nhận lại quần đảo này Trung Quốc sẽ sẵn sàng giao lại”.
Nhưng chính người đồng chí và người thầy tín cẩn ấy 14 năm sau (14-03-1988) không những đă không trả Hoàng Sa mà c̣n dùng vơ lực cưỡng chiếm luôn các đảo Trường Sa của người đồng chí Việt Nam anh em. Chỉ trong một trận hải chiến ngắn họ đă bắn ch́m tàu hải quân Việt Nam tàn sát không nương tay ngót 100 thủy thủ Việt trên Biển Đông thuộc vùng lănh hải Việt Nam.
Bấy giờ mới thực sự tỉnh giấc chiêm bao, trong văn kiện phổ biến 25-04-88, Cộng ḥa Xă hội Chủ nghĩa Việt Nam đă phải lấy tất cả quá khứ Việt Nam Cộng ḥa ở miền Nam ra làm lư lẽ: “Nửa nước Việt Nam từ vĩ tuyến 17 theo quy định Hiệp định Geneve về Đông Dương 1954, là do chánh quyền miền Nam tạm thời quản lư trong khi chờ đợi thống nhất. Chánh quyền Sài G̣n đă tiếp quản hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa năm 1956 từ Pháp khi họ rút khỏi Đông Dương. Từ đó cho đến năm 1975, họ đă tổ chức hai quần đảo về mặt hành chánh, tổ chức khảo sát và khai thác kinh tế...”
Và cũng để cứu văn cho một sai lầm lịch sử, người cộng sản Việt Nam bào chữa: “Đúng là đă có những tuyên bố đó. Cần phải đặt các tuyên bố này đúng trong bối cảnh lịch sử của nó... Trong cuộc chiến đấu một mất một c̣n chống kẻ thù xâm lược có sức mạnh quân sự lớn hơn ḿnh rất nhiều, Việt Nam tranh thủ được Trung Quốc gắn chặt với cuộc chiến đấu của Việt Nam càng nhiều bao nhiêu và ngăn chặn Mỹ sử dụng hai quần đảo cũng như vùng Biển Đông chống Việt Nam th́ càng tốt bấy nhiêu. Phải đứng trên tinh thần đó và trong bối cảnh đó để hiểu các tuyên bố nói trên”.
Lư luận th́ như vậy, nhưng thật ra chính những người cộng sản Việt Nam cũng hiểu rằng trong lănh vực quốc tế công pháp đă chẳng có một thứ “luân lư của hoàn cảnh” và đây hiển nhiên là một thất thế cho Việt Nam trên bàn hội nghị trong hiện tại và cả về tương lai.
Căn cứ theo Luật Quốc tế về Biển / Law of Sea Convention đă được 159 quốc gia kư kết ngày 10-12-82 tại Montejo Bay, Jamaica và đă được hơn 60 nước chuẩn y để trở thành luật kể từ 16-11-94 với ư nghĩa cao đẹp “Biển cả là tài sản chung của nhân loại” và các quốc gia Đông Nam Á đă kư kết đồng thuận thi hành th́ chỉ riêng Trung cộng đă cản trở bằng cách ban hành Luật Lănh hải 1992 với lư luận rằng Biển Đông là nội hải của Trung Hoa, theo đó họ đ̣i hỏi tàu bè kể cả tiềm thủy đĩnh và phi cơ chuyển vận trên hải và không phận ấy phải xin phép và tuân theo luật lệ của Cộng ḥa Nhân dân Trung Hoa.
Tự cho quyền hành xử như một siêu cường độc đoán và chuyên quyết, Trung Quốc trong bước đầu “Chinh phục trái đất” nói theo chủ tịch Mao Trạch Đông, chủ trương khống chế toàn Biển Đông mà không cần che giấu tham vọng bành trướng ấy. Ai cũng biết Mekong là một con sông quốc tế nhưng với 14 con đập bậc thềm Vân Nam, có bao giờ Trung Quốc quan tâm ǵ tới những điều khoản quy định trong quốc tế công pháp đâu. Đối với cộng đồng thế giới, Trung cộng chưa hề chứng tỏ là có một hồ sơ theo dơi tốt / good track records.
Theo Quang Minh Nhật báo của tỉnh Quảng Đông Trung Quốc 05-12-94 th́: “Sau một thập niên dài khảo cứu, 400 học giả và chuyên viên nổi tiếng Trung Quốc đă chứng minh rằng hiển nhiên từ thời xa xưa Trung Quốc đă nắm chủ quyền trên toàn thể quần đảo Trường Sa. Và theo lư lẽ đó Trung Quốc chẳng c̣n ǵ để phải tranh căi trên bàn thương thảo”.
Chỉ trong hai ngày 28 và 29 tháng 6 năm 1994, 10 học giả Trung Hoa lục địa đến Đài Loan dự buổi hội thảo với hàng trăm học giả địa phương, họ đưa ra bản tuyên cáo chung rằng: “Trung Hoa có chủ quyền lịch sử về vùng tranh chấp này”.
Chi tiết nổi bật cần ghi nhận là, khác xa với những người Quốc gia hay Cộng sản Việt Nam, cho dù Quốc hay Cộng, Đài Loan tỏ ra rất mau lẹ luôn luôn thống nhất với lập trường của Hoa lục, “nhân danh dân tộc Trung Hoa” về vấn đề Biển Đông, cho dù hai bên c̣n khác biệt về thể chế chánh trị và chưa thống nhất.
Nếu chỉ kể nửa thế kỷ trở lại đây thôi chúng ta đă thấy có một tiến tŕnh liên tục trong lịch sử cận đại nước Trung Hoa nhằm xâm chiếm các vùng hải đảo và lănh hải của Việt Nam trên Biển Đông.
Ngay sauThế chiến thứ Hai, khi Nhật đầu hàng Đồng minh, 06-1946 Pháp gửi chiến hạm Savorgnan de Brazza chiếm lại các đảo Hoàng Sa nhưng do trận chiến Việt - Pháp bùng nổ dữ dội 09-1946, Pháp tạm thời rút khỏi Hoàng Sa. Trung Hoa Dân quốc th́ lấy ngay cớ giải giới quân Nhật để đổ quân chiếm đảo Phú Lâm là ḥn đảo lớn nhất trong nhóm Tuyên Đức / Amphitrite Group phía đông Hoàng Sa, Pháp chỉ phản đối chiếu lệ.
Khi Trung cộng toàn chiếm Hoa lục 1949, Tưởng Giới Thạch phải chạy ra Đài Loan th́ quân Trung Hoa Dân quốc rút ra khỏi đảo Phú Lâm.
Năm 1956, khi quân Pháp bắt đầu rút khỏi Việt Nam, Trung cộng đă mau chóng cho hải quân tái chiếm đảo Phú Lâm và các đảo khác thuộc nhóm Tuyên Đức và đặt bộ chỉ huy toàn thể lực lượng trú pḥng quần đảo Hoàng Sa trên đảo Phú Lâm và cũng là căn cứ quân sự kiên cố nhất trên Biển Đông. Bằng chứng là mới đây, vệ tinh Nhật Bản đă chụp được không ảnh về căn cứ quân sự Trung cộng đă xây trên đảo Phú Lâm, trên đó có cả một phi đạo dài tới 2500 m.
Mỹ rút khỏi Nam Việt Nam 1974, Trung cộng đă xua quân chiếm luôn nhóm Nguyệt Thiềm / Crescent Group phía tây Hoàng Sa, đang thuộc quyền kiểm soát của chánh phủ Việt Nam Cộng ḥa, sau một trận hải chiến ngắn với lực lượng Hải quân Nam Việt Nam. Hoàn toàn làm chủ quần đảo Hoàng Sa, chuẩn bị cho kế hoạch lâu dài, Trung Quốc thiết lập căn cứ hải quân, cả xây dựng phi trường và đồng thời tung các con tàu ra khơi t́m kiếm dầu hỏa.
Vẫn không dừng ở đó, Trung Quốc tiếp tục chính sách bành trướng xa hơn về phương nam, 14 năm sau 1988 Trung cộng lại dùng vơ lực bắn ch́m tàu Việt Nam và cưỡng chiếm thêm 8 đảo của Trường Sa và dựng ngay bảng chủ quyền trên mỗi đảo - nơi mà Việt Nam thực sự có chủ quyền về mọi phương diện lịch sử địa dư và công pháp quốc tế. T́nh h́nh lại càng phức tạp hơn - ngoài mâu thuẫn giữa Việt Nam Trung Hoa c̣n có thêm sự tranh chấp với các nước Mă Lai, Brunei, Nam Dương và Phi Luật Tân để giành giật những mỏ khí đốt cũng trên thềm Biển Đông ấy.
Tưởng cũng nên nhắc lại ở đây, không phải chỉ có Trung cộng mà Đài Loan cũng đă hiện diện xen kẽ ở Trường Sa. Đài Loan đă kiểm soát ḥn đảo lớn nhất trong quần đảo Trường Sa, đó là đảo Ba B́nh - Itu Aba - nơi mà trước Thế chiến thứ Hai Việt Nam và Pháp đă từng đặt đài khí tượng và hoạt động rất hữu hiệu. Ba B́nh ngày nay trở thành một công sự vô cùng kiên cố của Đài Loan với cả hải cảng, sân bay, đài kiểm thám, các ụ súng lớn với cả một tiểu đoàn thủy quân lục chiến là lực lượng trú pḥng thường trực có trang bị cả các đoàn xe lội nước.
Hai lần hải quân Trung Quốc ra tay hai lần họ tàn sát người Việt trên Biển Đông trước con mắt thờ ơ của những đồng minh và cả quốc tế.
Chiến trận Hoàng Sa 1974, có sự hiện diện Đệ thất Hạm đội Mỹ trên Thái B́nh Dương, nhưng Hoa Kỳ không những cho biết sẽ dứt khoát đứng ngoài cuộc tranh chấp mà c̣n cô lập hải quân Việt Nam bằng cách phong tỏa việc sử dụng ngư lôi đĩnh, rút Đệ thất Hạm đội ra khỏi khu vực Biển Đông và c̣n quyết liệt từ chối cả nghĩa vụ nhân đạo là việc cấp cứu những thủy thủ Việt Nam bị trôi dạt trên biển sau trận hải chiến với hạm đội Trung cộng.
Trận chiến ngày 14 tháng 3 năm 1988, lúc đó có cả một hạm đội Liên xô đóng ở Cam Ranh và họ cũng án binh bất động.
Thế giới đă bỏ mặc cho Việt Nam phải đương đầu đơn độc với một siêu cường Trung cộng khổng lồ có cả vơ khí nguyên tử.
Rơ ràng là Trung cộng, bằng vô số phương cách trước sau vẫn quyết tâm đi hết tiến tŕnh đă vạch sẵn, khi th́ ngang nhiên dùng vơ lực khi th́ lợi dụng danh nghĩa khảo sát khoa học - cả mạo nhận danh nghĩa Liên Hiệp Quốc để âm thầm lấn chiếm các đảo cho đến khi hoàn toàn nuốt trọn Trường Sa.
Do không đủ sức đương cự với Trung cộng, các nước nhỏ quanh Biển Đông vận động t́m cách đưa nội vụ ra Ṭa án Quốc tế nhưng Trung cộng luôn luôn rêu rao cho rằng Ṭa án La Haye chỉ là tṛ chơi của đế quốc tư bản, nên hoàn toàn đứng ngoài như một vô can. Khi mà lẽ phải chỉ dành cho kẻ mạnh với tiềm thủy đĩnh, phóng pháo cơ và chiến hạm th́ rơ ràng t́nh h́nh Biển Đông cực kỳ căng thẳng và sẽ chẳng có một nước nào được yên, nhất là Việt Nam, nếu không chịu khuất phục trong trật tự nước Trung Hoa. “Bởi vậy lấy sức mạnh mà nói th́ lẽ phải ở về phía Trung Quốc”.
Trong một pḥng hội thuộc Khu Nghiên cứu Đông Nam Á Đại học Berkeley, nơi từng nổi tiếng về các phong trào phản chiến trong suốt cuộc Chiến tranh Việt Nam, Kham dáng đứng vững chăi trước một màn ảnh lớn với tấm bản đồ Biển Đông và các địa danh thuần Việt do chính anh đă dầy công sưu tầm và thiết kế trên máy điện toán. Kham giọng phân tích:
“Do nằm ngay trên ngă tư đường hải hành của Thái B́nh Dương, từ bắc xuống nam và từ tây sang đông, hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa nghiễm nhiên trở thành những địa điểm chiến lược trọng yếu của toàn vùng Đông Nam Á. Trong t́nh huống cho dù Việt Nam có bị phong tỏa hết biên giới lục địa phía bắc và phía tây, quốc gia ta cũng không bị bóp nghẹt về kinh tế. Nhưng nếu bị phong tỏa hết bờ biển phía đông th́ chẳng những không c̣n ngoại thương mà ngay cả chuyển vận đường biển bắc nam để điều ḥa nhu yếu phẩm trong cả nước cũng hết.”
Và Kham đưa ra tiếp một cái nh́n tiên tri:
“Trung cộng ngày nay dư khả năng thực hiện một cuộc phong tỏa như vậy khi mà họ đă sở hữu được hỏa tiễn tầm xa, các đội oanh tạc cơ chiến lược và lực lượng hải quân với hàng không mẫu hạm và các hạm đội viễn duyên để khống chế toàn Biển Đông, lúc đó kẻ thù truyền kiếp của chúng ta lại hiện nguyên h́nh lừng lững trở lại, áp đặt ách thống trị lên đầu lên cổ dân tộc Việt Nam nhưng với những thủ đoạn ngàn lần tinh vi hơn.”
Giọng Kham càng trở nên thiết tha:
“Thà rằng chúng ta sống tiết kiệm để tăng cường quốc pḥng nhất là hải quân với đầy đủ khả năng hải chiến không chiến ngoài khơi c̣n hơn chờ đợi tới cái ngày không tránh được (the inevitable day), khi đó cả nước ta chịu chết ngạt một cách nhục nhă v́ bị bao vây.”
Rồi c̣n phải kể tới trận chiến về môi sinh như gây ô nhiễm và chặn nguồn nước của con sông Mekong gây hạn hán và nạn ngập mặn khắp vùng đồng bằng châu thổ, điều mà Nhóm Bạn Cửu Long rất sớm lên tiếng báo động trong những năm qua. Chặn đầu nguồn ở Vân Nam, chặn cuối nguồn con sông Mekong bằng chiếm đoạt các quần đảo sát ngoài khơi Biển Đông, quả thật cho đến nay Việt Nam bị bó tay và chưa biết phải ứng xử ra sao!
Hoàn toàn làm chủ kỹ thuật thính thị qua máy điện toán, Kham đă linh hoạt kết thúc bài nói chuyện. Anh cho chiếu cùng lúc hai tấm slides trải dài trên hai màn ảnh lớn: một bức không ảnh chụp từ vệ tinh hai quần đảo Hoàng Sa Trường Sa trên Biển Đông bên một dải đất Việt Nam h́nh chữ S. Màn ảnh bên là trích dẫn một đoạn viết của giáo sư Hoàng Xuân Hăn trên Tạp chí Sử Địa 1974:
“Một gương sáng lịch sử là mỗi khi thế nước suy hèn v́ chia rẽ và nội loạn th́ mỗi khi lân bang lấn cơi... Ngày nay vụ Hoàng Sa bị chiếm là triệu chứng cụ thể gây nên bởi sự bất ḥa của dân ta... tuy rằng nhiều chứng xưa nay, trong ngoài bảo rằng đó là đất Việt”.
Rồi bất chợt nổi lên từ xa tiếng sóng Biển Đông vỗ rạt rào xen lẫn với muôn ngàn tiếng chim hải âu làm nền cho bản tin mới phát đi của đài RFI:
“Theo tin hăng thông tấn Kyodo, Hà Nội 19-09-98. Bộ Giao thông Vận tải mới đây đă hoàn tất việc xây dựng và trùng tu nhiều cơ sở dân sự trên đá san hô Tây (West Reef) trong quần đảo Trường Sa, gồm có bồn chứa nước ngọt, trạm máy phát điện, khu nhà ở và cả sân bay trực thăng với tổn phí lên tới 4 triệu đôla, là những công tŕnh xây dựng có tính cách lâu dài.”
Tưởng cũng nên nhắc lại là chỉ mới hai tuần lễ trước đây, phát ngôn viên Bộ Ngoại giao Trung Hoa đă lên tiếng phản đối và đ̣i hỏi phía Việt Nam phải lập tức rút quân khỏi hai đảo đá ngầm thuộc Băi Tư chính trong vùng Trường Sa mà Trung Hoa cho là lực lượng hải quân Việt Nam đă chiếm đóng trái phép. Phía Việt Nam đă khước từ thảo luận với Trung Quốc v́ cho rằng Việt Nam có đủ bằng chứng lịch sử và pháp lư để khẳng định chủ quyền tại hai khu vực quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, bao gồm cả những đảo đă bị Trung Quốc dùng vơ lực cưỡng chiếm...
Có điều mà Kham chưa nói ra là, cho dù hiện nay Việt Nam c̣n hiện diện trên một số đảo ngoài Trường Sa nhưng nếu bị phong tỏa vùng hải phận quanh quần đảo, điều mà hải quân Trung Quốc dư sức làm mà không cần nổ thêm một phát súng nào, th́ bất chiến tự nhiên thành, tất cả chủ quyền quần đảo Trường Sa hoàn toàn rơi vào tay Trung Quốc .
- Trích từ : Ngô Thế Vinh - Cửu Long cạn ḍng , Biển Đông dậy sóng . Chương XV. Nxb Văn Nghệ 2000 .
( Sưu Tầm )
_BatHua_
Alert webmaster - Báo webmaster bài viết vi phạm nội quy
|
Trang nhat