chieulathu
member
REF: 63623
01/03/2006
|
>>
xem chủ đề
An Thái Bình Thái Đạo:
Cụ Tàu Sáu tên thật là Diệp Trường Phát, sinh năm 1896 tại làng An Thái, huyện An Nhơn, tỉnh Bình Định. Đây là nhân vật có tầm ảnh hưởng rất lớn trong việc tạo nên "oai danh" quyền An Thái. Cuộc đời cụ là cuộc đời của một bậc chân sư mà tài năng và nhân cách đã trở thành niềm ngưỡng vọng của bao nhiêu người.
Lúc còn nhỏ, cụ được gia đình cho sang Phước Kiến - Trung Quốc học tập cả văn lẫn võ; sau đó còn qua Hồng Kông học thêm một thời gian nữa. Khi thành đạt võ công trở về nước, cụ tiếp tục gia tâm nghiên cứu, rút tỉa những tinh hoa võ thuật ở địa phương Bình Định cũng như rải rác khắp các vùng đất nước, kể cả các môn võ truyền thống của các dân tộc Chàm, Khơme, Làỏ rồi dung hợp, phối chế thành môn võ mang dáng dấp của một sự hài hòa độc đáo.
Hệ thống quyền của môn võ này khá chặt chẽ, được xây dựng dựa trên 4 bộ chính: Hổ quyền, Long quyền, Hầu quyền, Xà quyền. Trong đó, Hổ quyền và Long quyền thuộc Ngạnh công (tức luyện cho mạnh mẽ, rắn chắc), được coi là nền tảng căn bản; Hầu quyền và Xà quyền thuộc Nhu công và Miêu công (tức luyện cho mềm dẻo, linh hoạt, nhanh lẹ chớp nhoáng, tay chân như "vươn dài" ra) là phần xuất sắc, cao diệu...
Về mặt tinh thần, cụ Tàu Sáu lấy "Ngưu giác chỉ" (ngưu giác: sừng trâu - một trong mười chỉ pháp) làm biểu tượng môn phái. Và đây cũng là kết quả của một quá trình chiêm nghiệm, chắt lọc từ cuộc sống...
Cụ nhận thấy, ở đất nước nông nghiệp Việt Nam (thời ấy) con trâu là một hình ảnh quen thuộc, gần gũi, gắn bó chặt chẽ với con người trong công việc đồng áng. Nó là loài vật hiền lành, suốt đời cần mẫn, hy sinh giúp ích cho người, nhưng cũng rất dữ dội và đoàn kết khi bị tấn công. Ai từng chứng kiến những?trận đánh? của đàn trâu, đều thật sự kinh hoàng, khủng khiếp trước sự đoàn kết, dũng mãnh của chúng.
Từ những đặc điểm ấy, cụ Tàu Sáu đã nghiền ngẫm, suy tưởng về "bản chất tốt đẹp" của loài trâu, rồi đúc kết thành giáo điều của môn phái, gồm có 5 điều gọi là "Ngũ điều" (Phải nhẫn nại, đoàn kết, hy sinh, thật thà, dũng cảm) bên cạnh "Ngũ qui" cũng có 5 điều (không phản sư phế đạo; không ỷ thế hiếp cô; không sanh tâm đạo tặc; không loạn dâm háo sắc; không thắng vinh bại nhục).
Sự sắp xếp trên, còn hàm chứa một quan niệm rất tinh tế và xuyên suốt của cụ Tàu Sáu về phương diện giáo dục, rèn luyện con người thông qua phương pháp huấn luyện võ thuật. Có thể tóm tắt: Trước hết phải làm sao khơi dậy và tập cho người môn sinh biết nhẫn nại, chịu đựng để họ có thể thích ứng, hòa hợp được với những phức tạp, mâu thuẫn trong cuộc sống. Từ đó, nhu cầu giao lưu, chia xẻ trong họ mới có điều kiện phát triển, họ sẽ tự đoàn kết với mọi người. Và khi đã biết đoàn kết yêu thương nhau rồi, thì họ mới có thể hy sinh cho nhau được. Đấy là lẽ tự nhiên. Mà, một con người có đức hy sinh là đã triệt tiêu được những vụ lợi, đố kỵ nhỏ nhen, nguồn gốc của sự dối trá xảo quyệt. Họ sẽ luôn sống và cư xử một cách thật thà, đúng đắn. Nếu có phải dụng võ, thì cũng chỉ vì lẽ phải, vì chính nghĩa. Đấy là sự dũng cảm của con nhà võ.
Để đạt được những điều đó, cụ Tàu Sáu chủ trương tiến hành một cách lâu dài, bền bỉ, đúng tiến độ, song song với một giáo trình huấn luyện phù hợp, cũng như trong các hình thức sinh hoạt môn phái (một dạng xã hội thu nhỏ), không cần thiết phải dùng lời lẽ. Bởi, ai cũng có thể nghe, hiểu và phân biệt được những đức tính tốt đó, nhưng để có đươc. Những đức tính đó là một việc hoàn toàn khác, rất khác.
Vào khoảng năm 1924, khi đã hoàn chỉnh cả về mặt võ thuật lẫn võ đạo, cụ Tàu Sáu mới bắt đầu truyền dạy môn võ này tại quê nhà, và đã đào tạo được nhiều đệ tử nổi danh như Ba Phùng, Chín Kỳ, Phó Tuần Chẩn, Năm Tường. Năm Tường vốn là hảo thủ Nam Kỳ từng bất phân thắng bại với A-đu-bu (một võ sĩ hạng nặng của Pháp có lối luyện võ rất dã man. Theo tương truyền mỗi sáng dùng tay không đấm chết hai bò mộng), nhưng khi Năm Tường ra Bình Định thụ giáo với cụ Tàu Sáu một thời gian trở về thì A-đu-bu e sợ, không dám nhận lời tái đấu, và đã tự rút lui khỏi các đấu trường Đông Dương. Một võ sĩ tài năng khác là Kim Anh cũng từng được cụ Tàu Sáu chỉ giáo mà thành danh trên các đấu trường quốc tế, góp phần làm rạng rỡ cho xứ An Thái nói riêng và miền đất võ Bình Định nói chung.
Đương thời, danh tài của các võ phái khác như Hồ Ngạnh, Đoàn Phong, Năm Nghĩa, Bang Beo, Khách Nhé... đều có đến đàm đạo, trao đổi và khâm phục cụ. Cũng từ đó bắt đầu râm ran những lời đồn đại huyền hoặc về nhân vật võ lâm Tàu Sáu - Cụ từng sang Trung Quốc xuất gia tu thiền học võ tại chùa Thiếu Lâm trên núi Tung Sơn. Khi thành đạt, muốn hoàn tục trở về nước nhưng không được chấp nhận, cụ đã tự mình xuống núi và lần lượt hạ gục các cao thủ trấn giữ ở 108 cửa lên xuống Thiếu Lâm Tự.
Chuyện này rõ là nhại theo tích "quá ngũ quan trảm lục tướng" của Quan Công (Quan Vân Trường trong Tam Quốc Chí), còn chi tiết 108 cửa Thiếu Lâm Tự chỉ là "nghe lơ mơ" rồi "chế đại". chứ thật ra như sau:
Theo qui môn Thiếu Lâm Tự, để được chính thức công nhận là môn đồ của môn phái, cho dù xuất sư xuống núi, người môn sinh phải trải qua một cuộc khảo hạch, thử thách toàn diện, cả về bản lãnh võ công cho đến kiến thức, cách xử thế, trí thông minh... Trong phần võ công, ngoài việc thi triển những thành tựu công phu trước hội đồng môn phái, người môn sinh còn phải đi qua một hành lang nhỏ hẹp có đặt sẵn 108 cặp mộc nhân, mộc mã được thiết kế theo họa đồ của Đạt Ma Sư Tổ. Khi được khởi động, 108 cặp nhân mã này sẽ lần lượt "đánh" ra 108 thế võ nhất định. Nếu công phu chưa tới, người môn sinh sẽ bị đánh gục ngay. Nhưng những điều đó là chuyện của hàng ngàn năm trước. Nó thuộc về lịch sử lâu đời của Thiếu Lâm Tự, và sau chỉ còn trong trí tưởng tượng của người đời...
Khi cụ Tàu Sáu mất, người con trai nối nghiệp cụ là võ sư Diệp Bảo Sanh - ở Qui Nhơn, nhiều người quen gọi theo ngoại hiệu là Lai Sanh Đường (tiệm thuốc bắc Lai Sanh Đường) - cũng tiếp tục thu nhận môn đệ. Từ đấy, phái võ này còn có tên là Bình Thái Đạo; và đã có những bước cải tiến đáng kể về mặt tổ chức môn phái cũng như phương pháp huấn luyện.
Hiện nay võ phái này đang được các đệ tử của võ sư Diệp Bảo Sanh, thuộc thế hệ môn đồ thứ ba, tiếp tục truyền dạy tại nhiều nơi ở Bình Định và Sài Gòn.
Võ phái Tân Khánh Bà Trà:
Võ phái Tân Khánh Bà Trà hình thành vào khoảng thế kỷ 17, khi những lưu dân người Việt vào khai phá vùng đất Nam Bộ trù phú. Những người đi mở đất đã mang vốn võ học để bảo vệ thành quả lao động trên vùng đất mới. Bên cạnh đó, cuộc sống thực tế trên vùng đất mới, lại phải chen vai thích cánh bên cạnh các dân tộc anh em đã là nguồn bổ sung cho vốn liếng võ học của những thế hệ đi khai hoang ngày thêm phong phú, từ đó hình thành nên võ phái mới ngay trên vùng đất Tân Khánh của đất Đồng Nai - Gia Định với những võ công đả hổ lừng danh của một thời. Đầu thế kỷ 19, khi vua Gia Long lên ngôi với chính sách tìm diệt cựu thần nhà Tây Sơn để trả thù, thì mảnh đất Tân Khánh đã đón tiếp một cựu thần nhà Tân Sơn họ Võ đến ẩn tích. Chính cơ hội này là sự thăng hoa cho võ phái của xứ Tân Khánh do sự tăng cường kỹ thuật võ Tây Sơn. Giữa thế kỷ 19, một hậu duệ của cựu thần nhà Tây Sơn là bà Võ Thị Trà đã từng hiên ngang chống lại quan lại địa phương từ căn cứ Truông Mây trên đất Tân Khánh. Từ đó, xứ Tân Khánh được mang tên là xứ Tân Khánh - Bà Trà (nay là thị trấn Tân Phước Khánh, huyện Tân Uyên và xã Bình Chuẩn, huyện Thuận An, tỉnh Bình Dương), và võ phái truyền thống tại đây được gọi là võ phái Tân Khánh Bà Trà cho đến ngày nay.
Đặc trưng kỹ thuật của võ phái Tân Khánh Bà Trà là lối tấn công phối hợp và liên hoàn những kỹ thuật đòn chân và đòn tay, nhằm làm rối loạn sự phòng thủ của đối phương cũng như giúp cho sự công kích đạt hiệu quả tốt. Những đòn tay và đòn chân tung ra theo đường thẳng, có sức án ngự mọi sự tấn công đối phương được võ phái này chú trọng ngang với những đòn tay và đòn chân, cận chiến bằng kỹ thuật đầu gối, cùi chỏ, nắm đấm, cạnh bàn tay, ngón tay, ức bàn tay... Chính đặc điểm này đã giúp cho môn sinh của võ phái Tân Khánh Bà Trà có khả năng chiến đấu trong mọi tình huống. Về binh khí, võ phái Tân Khánh Bà Trà có đủ thập bát ban võ nghệ (tức mười tám loại binh khí), nhưng thiện nghệ nhất về roi và côn, là thứ binh khí làm từ nguyên liệu có sẵn tại địa phương như: tre, tầm vông, gỗ căm xe, gỗ mật cật... Nhiều bậc tiền bối của võ phái Tân Khánh Bà Trà từng nổi danh với những đường roi, đường côn tuyệt diệu làm "ngã ngựa" biết bao đối thủ khắp Nam Bộ. Ngoài ra, giống như võ cổ truyền Việt Nam từ bao đời, võ phái Tân Khánh Bà Trà còn có hệ thống quyền pháp từ thấp lên cao như: Thái Sơn, Tấn Nhất, Lão Mai, Thần Đồng, Ngọc Trản..., mà mỗi nhịp dạo quyền đều gắn liền với những câu thơ gọi là thiệu.
Võ phái Tân Khánh Bà Trà có nhiều thế hệ anh tài nối tiếp nhau vang danh khắp Nam Bộ. Bà Võ Thị Trà, thường gọi tắt là Bà Trà, lẫy lừng một thời ở Tân Khánh, chống lại bọn tham quan ô lại, để rồi tên đất được gắn thêm tên người kể từ giữa sau thế kỷ 19. Các ông Võ Văn ất (Hai ất), Võ Văn Giá (Ba Giá) và bà Võ Thị Vuông (Năm Vuông) từng làm rạng danh võ phái Tân Khánh Bà Trà với bao phen đánh hổ. Quyền sư Võ Văn Đước (Hai Đước) phá tan thế trận Mai Hoa Thung bảo vệ thanh danh xứ sở. Đệ nhất côn Đỗ Văn Mạnh (Năm Nhị) phiêu bạt khắp đó đây với cây trường côn làm khiếp vía biết bao anh hùng hảo hán ở Nam Bộ.... Nối tiếp truyền thống hào hùng đó, lão võ sư Hồ Văn Lành (biệt danh Từ Thiện) đã rời quê hương lên Sài Gòn, phổ biến võ phái Tân Khánh Bà Trà cho giới hâm mộ võ thuật từ những năm 1950. Qua gần nửa thế kỷ phát triển, võ phái Tân Khánh Bà Trà, qua sự truyền bá của lão võ sư Hồ Văn Lành, đã trang bị cho hàng vạn môn sinh kỹ thuật đặc thù của môn phái. Trong đó, nhiều môn sinh đã trưởng thành, tiếp bước con đường truyền bá võ phái Tân Khánh Bà Trà cho các thế hệ nối tiếp ngay tại các quận, huyện của thành phố HCM, một số tỉnh thành Nam Bộ và cả ở nước ngoài. Một số môn sinh xuất sắc khác đã từng tham gia thi đấu võ đài, đạt được hai huy chương vàng, ba huy chương bạc, hai huy chương đồng trong các giải vô địch toàn quốc, và ba người đã từng được chọn đại diện cho toàn miền nam thi đấu bẩy trận toàn thắng trước các nhà vô địch của những nước: Thái-lan, Lào, Cam-pu-chia.
Bình Định Gia:
I. Ngược Dòng Lịch Sử
Bình Định Gia nghĩa là Bình Định gia truyền do cụ Trần Đại Chí sáng lập cách đây trên 200 năm. Cụ Trần Đại Chí xuất thân ở Trung Quốc. Thời trai trẻ, cụ tu luyện võ công tại chùa Thiếu Lâm thuộc tỉnh Hà Nam, Trung Quốc. Sau khi võ công thuần thục, cụ "xuống núi" giúp triều đình. Trong bối cảnh đất nước Trung Hoa đang suy sụp vào cuối nhà Thanh, với danh phận là một võ tướng trong triều, cụ bất mãn và cùng ba người khác ra đi. Trên bước đường lưu lạc giang hồ, cụ đã sang đến Việt Nam.
Đầu tiên, cụ ở tại thành Thăng Long. Sau vì tình hình thành Thăng Long không ổn định, cụ vào đất Bình Định. Về địa thế, vùng này trên là núi, dưới là biển. Tuy nông nghiệp kém phát triển (cát trắng bao la) nhưng khí hậu rất thích nghi cho những người luyện võ. Vì thế, rất nhiều anh hùng, hào kiệt đều tập trung về đây.
II. Duyên Kỳ Ngộ
Trong thời gian sinh sống ở Bình Định, cụ Trần Đại Chí có duyên gặp cụ Võ Văn Dũng. Hai người đã luận đàm võ công cũng như ẩn chứng công phu võ thuật của mình. Lúc đó, cụ Võ Văn Dũng là một võ tướng của Quang Trung hoàng đế, từng cầm quân đánh giặc góp phần đại phá quân Thanh. Tâm đầu ý hợp, cụ Trần Đại Chí được cụ Võ Văn Dũng dạy lại toàn bộ võ Bình Định chân truyền, ngược lại cụ Võ Văn Dũng cũng được học lại võ thuật Trung Hoa của cụ Trần Đại Chí.
Sau khi cụ Võ Văn Dũng qua đời, cụ Trần Đại Chí đã nghiên cứu chắt lọc tổng hợp những tinh hoa của hai nền võ thuật Trung Hoa và Việt Nam, sáng lập dòng Bình Định gia truyền theo nguyên tắc kết hợp giữa cương, nhu, trường, đoản, hư, thực. Đường lối của các võ phái thời ấy thường nêu cao tính chất chiến đấu, không nặng về biểu diễn khoa trương.
III. Quá Trình Phát Triển
Môn phái Bình Định Gia tồn tại suốt 200 năm chỉ trong dòng họ Trần Đại, Trần Hưng và trải qua 4 đời chưởng môn: cụ Trần Đại Chí, Trần Đại Si, Trần Đại Xy, Trần Đại Y. Đến chưởng môn đời thứ 5, khi ngoài 60 tuổi, cụ Trần Hưng Quang mới bắt đầu truyền dạy ra ngoài qua sự giúp đỡ của sở TDTT và Liên đoàn võ thuật Hà Nội.
Sự phát triển của Bình Định Gia ngày càng lớn mạnh phải nói đến công sức của võ sư Trần Hưng Hiệp - con trai của chưởng môn đời thứ 5. Chấp chưởng môn Trần Hưng Hiệp được giao nhiệm vụ làm HLV trưởng môn phái Bình Định Gia, đã xin ý kiến của toàn bộ các bậc lão thành trong dòng họ đưa môn phái phát triển khắp nơi từ năm 1982.
Từ năm 1989 đến nay, môn phái Bình Định Gia đã có trên 100 HLV, hàng trăm võ đường trong nước cũng như ngoài nước với hơn mấy vạn lượt người luyện tập.
IV. Chương Trình Huấn Luyện - Nội Dung Cơ Bản
Sau khi nghiên cứu, đối chiếu, chắt lọc bổ sung, Trần Hưng Hiệp đã đưa ra hệ thống huấn luyện gồm 4 phần: biểu diễn, thi đấu, phổ thông, đào tạo HLV. Mỗi hệ thống có các bậc sơ, trung và cao cấp. Hiện nay môn phái có trên 164 bài quyền (tay không và binh khí) như: Thất Tinh quyền (7 bài từ Nhất tinh đến Thất tinh), Thập quyền, Thập nhị bộ, Hầu Quyền căn bản, Thượng Mã quyền, Kim Ngưu, Lão Mai, Thần Đồng, Ngọc Trản, Côn, Kiếm, Thiết Phiến, Thương, Đao, Tiên, Roi...
V. Thành Tích, Khả Năng Phát Triển
Cùng với các môn phái khác, Bình Định Gia đã đào tạo nhiều thế hệ HLV, vận động viên cho Hà Nội và Việt Nam qua các cuộc biểu diễn và thi đấu cổ truyền, Pencak Silat. Một số vđv của môn phái đã đạt nhiều thành tích tốt như: Nguyễn Khắc Thành, Bùi Chí Kiên, Nguyễn Hà, Nguyễn Kim Tuyến, Xuân Hải (từng tham dự Sea Games 18 môn Pencak Silat), Nguyễn Tú, Văn Mạnh, Bùi Công Phương...
Với một lực lượng HLV năng nổ như Nguyễn Văn Long (Tiên Sơn-Hà Bắc), Khắc Thành (Ninh Bình), Thế Hiệp, Mạnh Toàn (Hà Tây), Long Mổ, Văn Thủy (Hòa Bình), Công Phương (Nghệ An)... môn phái Bình Định Gia sẽ có nhiều đóng góp tốt đẹp hơn trong nhiệm vụ bảo tồn và phát huy tinh hoa võ học Việt Nam.
ViVoDo - Bình Định:
VIVODO là môn võ tổng hợp các võ học Việt (Võ nghệ, Bình Định, võ Lâm) - cổ truyền để tự vệ. Lấy cương-nhu hoà hợp làm căn bản, về võ lý vận dụng học thuyết âm-dương làm nền tảng. Còn là môn võ để luyện tập cho cơ thể khoẻ mạnh, tinh thần minh mẫn. Sống lành mạnh với tâm hồn thoái mái vị tha. Để nối tiếp truyền thống võ dân tộc được lưu truyền, để bảo tồn phát triển và truyền dạy cho thế hệ sau không bị thất truyền. Với những tinh hoa đặc thù của võ dân tộc Việt, võ VIVODO đã được phát triển và đã đúc kết gạn lọc một cách hệ thống dựa theo tiêu chuẩn quốc tế để thích hợp với mọi giới và luyện tập dễ dàng.
Về khía cạnh võ thuật thể hiện rõ nét liên hoàn tinh tế, kết hợp nhuần nhuyễn giữa cương và nhu, giữa công và thủ, giữa mạnh và yếu, giữa bên trong (tinh, khí, thần) với bên ngoài cơ thể (thủ, nhãn và thân).
Võ Bình Định là môn võ cổ truyền của dân tộc, được lưu truyền. Võ Bình Định là một võ luyện tập cho thân thể được khoẻ mạnh, để tự vệ nhưng đã đóng góp đáng kể trong việc cứu nước của tiền nhân. Qua dòng sử đấu tranh không ngừng để tự tồn và phát triển cũa dân Việt. Với những đặc thù độc đáo và tinh hoa của Võ cổ truyền Bình Định hay Võ Tây Sơn đã có từ ngàn xưa và được cải tiến, phát triển trong suốt tiến trình đấu tranh chống ngoại xâm và đánh đổ bạo quyền. Võ Bình Định còn là môn Võ tinh thần, luyện tập ý chí thêm kiên cường, tâm hồn cao thượng, thương dân, yêu nước.
Về kỹ thuật gồm có quyền thuật và mười tám môn binh khí, nhưng sỡ trường nhất là quyền, côn, kiếm, đao, thương.
Võ thuật đời Tây Sơn là đỉnh cao của võ thuật Bình Định. Nhiều lúc ba chữ võ Bình Định hòa lẫn với võ Tây Sơn. Nói đến võ Bình Định, người ta nghĩ ngay đến võ Tây Sơn. Nói đến võ Tây Sơn thì ta lại biết ngay là nói về võ Bình Định.
Vậy đặc điểm của thời võ Tây Sơn là gì?
Về võ thuật có 4 môn: Côn, Quyền, Kiếm, Cổ.
Về binh khí thì có: Tây Sơn thập thần vũ khí.
Về ngựa thì có: Tây Sơn ngũ thần mã.
Về nhân vật thì có: Tây Sơn Tam Kiệt, Tây Sơn Thất Hổ tướng, Tây Sơn Ngũ Phụng Thư. Tây Sơn Lục Kỳ sĩ, Tây Sơn Tứ danh sư.
* Võ thuật thời Tây Sơn
1. Côn:
Về côn thì ở nơi nào cũng có, gồm có hai thứ: Trường côn tục gọi là roi, đoản côn tục gọi là thước.
- Trường côn cũng có hai loại: roi trường (roi đấu) và roi chiến. Roi trường cao hơn đầu người, thường gọi là trường tiên dùng trong chiến trận. Có khi dùng trên ngựa thì sống như ngọn thương. Roi chiến hay gọi là trung bình tiên thường cao hơn đầu người một chút hoặc ngang bằng đầu người. Thường dùng để đánh với đám đông người.
- Đoản côn có tên gọi là thước, dài tới vai người sử dụng là một vũ khí cá nhân gọn gàng trong việc sử dụng và di chuyển. Tại Bình Định có nhiều võ sĩ dùng đoản côn dài hơn kích thước thường hoặc ngắn chỉ bằng 1 sải tay có thể dắt gọn vào lưng. Côn làm bằng gỗ dẻo và chắc như gỗ kiền kiền. Sớ của gỗ phải là sớ dọc. Nếu gỗ có sớ ngang thì sẽ dễ gãy. Đôi khi côn cũng làm bằng thép.
2. Quyền
Đặc điểm của quyền Bình Định là môn quyền hòa hợp giữa ngạnh quyền và miên quyền.
Ngạnh quyền là quyền dùng sức mạnh bên ngoài mà cốt ở sự uyển chuyển hòa hợp. Lấy nội công làm chính.
Ở Bình Định, các võ sư thường dạy cho các môn đệ cả hai thứ. Người giỏi bên ngạnh quyền, nội công vẫn có. Người chuyên về nội công, ngạnh quyền không đến nỗi tầm thường.
3. Kiếm:
Là một loại binh khí bằng kim loại sắc bén. Kiếm gồm hai loại kiếm và đao.
Kiếm thì có trường kiếm và song kiếm. Thường trường kiếm thì đàn ông dùng, song kiếm thì đàn bà dùng. Trường kiếm phát huy sức mạnh. Song kiếm thích hợp uyển chuyển, lẹ làng.
Đao thì có đại đao, tục gọi là siêu và đoản đao gọi tắt là đao. Bình Định thường sử dụng loại đao ngắn gọi là mã tấu thường để đánh giáp lá cà với địch. Rựa và dao bảy cũng được liệt vào loại đao.
4. Cổ
Là môn võ trống.
Đây là một bộ môn võ thuật đặc biệt của thời Tây Sơn. Cho nên còn gọi là trống võ Tây Sơn.
Trống võ dùng để luyện tập võ và điều binh khiển trận.
Bộ võ trống gồm 16 cái lớn nhỏ được bố trí thành một giàn trống như sau:
Đứng ngay chính giữa là võ công. Hai giàn trống nằm ở vị trí trước và sau võ công.
- Phía sau gồm 4 trống lớn, đường kính hơn một thước tây, được treo trên một kệ gỗ gồm từng đôi một. Hai cái gần sát đất, hai cái ngang đầu người. Bốn trống này được võ công đánh bằng gót chân, cùi chỏ và đầu.
Tùy theo tầm vóc của võ nhân mà khoảng cách treo trống cũng tăng giảm theo. Tuy nhiên, khi luyện võ đã khá thuần thục thì khoảng cách càng chênh lệch càng phân biệt được tài nghệ cao thấp. Ban đầu thì khoảng cách thuận vị trí của gót chân, cùi chỏ, sau này trống treo ở bất cứ nơi nào võ nhân cũng dùng gót và cùi chỏ chân đánh trúng. Khán giả chỉ nhìn theo gót chân, cùi chỏ người có võ thuật hay chỉ nghe tiếng trống vang lên dòn dã, âm điệu nhịp nhàng và âm sắc như nhau thì biết được sự điêu luyện của võ nhân. Còn khi nghe tiếng trống khi to khi nhỏ, khi kêu khi tắc, thì biết ngay tay học trò võ mới vào nghề.
- Phía trước võ nhân là một giàn trống gồm 12 cái, nơi trung tâm là hai trống lớn bằng một nửa trống phía sau. Hai trống này làm chủ cả giàn trống trầm hùng luôn luôn rền vang liên tục, âm dương hòa lẫn cùng nhau. Khi người sử dụng có nội công thâm hậu thì tiếng trống vang xa gây thành tiếng sấm rền vang. Khi tiếng trống âm dương thay đổi nhịp điệu, người nghe biết rằng thế trận đang đổi thay, khi hùng hồn dòn giã là khí thế tấn công. Khi trầm trầm chậm rãi là lúc đoàn quân di chuyển…
Phía trước hai trống âm dương có 4 trống chiến, mặt trống lớn bằng hai phần ba trống âm dương. 2 cái nằm trước trống âm, 2 cái nằm trước trống dương, được phối khí theo trống mẹ: 2 âm, 2 dương. Âm nằm bên trái, dương nằm bên phải. Tiếng trống âm nghe trong và cao. Tiếng trống dương nghe trầm và đục. Bốn trống của hai loại này dùng để điều khiển binh sĩ, hợp với trống mẹ. Khi tiếng trống âm vang rền thánh thót thì trận thế cần thủ nhiều hơn công. Khí tiếng trống dương rền vang là lúc xung phong kết thúc trận tiền. Phối hợp nhịp nhàng, bốn trống đại phía sau vẫn điểm nhịp khi khoan thai, khi dồn dập.
Sau hai trống âm dương một dãy gồm 6 trống nhỏ chỉ bằng nửa hai trống âm dương. Đây là một dãy trống dùng trong việc điều hành, phối hợp. Nó chỉ dùng trong việc luyện tập, hiệu lệnh, từ trái sang phải 6 trống này có độ căng của mặt trống khác nhau nên khi đánh lên có 6 âm độ khác nhau. Khi được đánh lên, âm thanh của 6 trống sẽ tạo nên những nhịp điệu khoan thai, dồn dập … điều khiển ba quân làm theo tiếng trống: hội quân, xuất quân, hành quân … Trong các cuộc thao diễn, 6 trống này hòa nhịp với 2 trống âm dương làm thành một giàn nhạc võ. Hai trống âm dương đánh nhịp thùng, thùng, 6 trống hòa reo làm nhịp nhàng thế võ. Giàn trống thay thế cho giàn trống kèn của các nước Tây phương. Tuy nhiên có nhiều cái khác biệt là giàn trống chỉ một người đánh, phải là một vị tướng vừa đánh vừa chỉ huy hoặc điều khiển hành quân, tác chiến bằng âm thanh trống.
|
chieulathu
member
REF: 63622
01/03/2006
|
>>
xem chủ đề
Nam Huỳnh Đạo:
Nam Huỳnh Đạo là môn phái mới thành lập vừa tròn ba năm và đã tạo nên một "hiện tượng" trong làng võ cổ truyền TP.HCM. Nam Huỳnh Đạo đã thu hút cả ngàn người theo tập ở mọi lứa tuổi và nhiều tầng lớp xã hội.
Có thể bắt gặp hàng trăm võ sinh "nhí" ở độ tuổi còn khóc nghêu ngao trong vòng tay mẹ, lạ chưa khi đến võ đường rất hăng say tập luyện, lại còn biết xưng hô phân biệt "huynh đệ" với nhau. Có cả những môn đồ đã bước vào giai đoạn "tứ thập nhi bất hoặc" của cuộc đời.
Người sáng lập Nam Huỳnh Đạo lại là võ sư Huỳnh Tuấn Kiệt, năm nay 36 tuổi.
Trong làng võ anh quả còn quá trẻ. Nhưng trong "nghề" anh đủ độ già dặn và chín muồi. Lên năm tuổi anh đã được cho học võ. Một người thân của anh kể hiếm thấy có ai ham thích võ như anh. Một ngày suốt năm, sáu tiếng tập và luyện công cứ thế liên tục cho đến tận ngày hôm nay.
Cơ thể của anh cho thấy những "ấn chứng" võ công kỳ diệu của một người khổ luyện theo một con đường đúng đắn: lưng qui, cổ rắn, tay hạc... Nhìn vóc dáng đồ sộ của anh, một cao thủ đã vỗ vai nói đùa: "Tập võ mà để cho thân hình to lớn, dềnh dàng như vậy là chưa đi tới đỉnh". Thế nhưng khi cả hai vào cuộc so kình, với nội lực kinh người anh đã phát kình hất người bạn võ có khối lượng hơn 90kg này văng xa mấy thước.
Là hậu duệ đời thứ 7 của Tổng trấn Bắc thành Nguyễn Huỳnh Đức (tên thật là Huỳnh Tường Đức), Huỳnh Tuấn Kiệt được lựa chọn làm người kế thừa dòng võ Huỳnh gia vốn được lưu giữ nhiều đời trong tộc họ. Dòng họ Huỳnh nổi tiếng ở Long An không chỉ về sự giàu có mà còn về y võ và nho học.
Thân phụ của Kiệt là cụ Huỳnh Văn Khanh, người dịch bộ sách nổi tiếng Hoàng Hán y học của bác sĩ Thang Bản Cầu Chân (Nhật Bản). Tiến sĩ Huỳnh Quốc Thắng, người anh trai lớn trong nhà, có lần qua Trung Quốc đến "Đồng nhân đường Thái y viện" tại Bắc Kinh thấy bản dịch tiếng Việt của tác phẩm y học nói trên được trưng bày chung với nhiều bản dịch các thứ tiếng khác. Sự đóng góp của lương y Huỳnh Văn Khanh đối với ngành đông y được đánh giá rất cao.
Ông nội Huỳnh Văn Chánh ngày xưa ở quê nuôi nhiều người làm, trong đó có một số người Hoa giỏi võ. Cảm kích trước sự đối đãi, họ đã không ngần ngại đem tâm huyết và tinh hoa trao lại cho phái võ họ Huỳnh. Sự tiếp thu này đã dẫn đến sự dung hợp hai dòng võ.
Kế thừa và tiếp nối truyền thống, võ sư Huỳnh Tuấn Kiệt đã tiếp thu tinh hoa của nhiều dòng võ khác như Nội gia Thiếu Lâm, Hồng gia La Phù Sơn... và chính thức khai môn võ phái Nam Huỳnh Đạo. Võ sư Lê Kim Hòa, phó chủ tịch Liên đoàn Võ thuật cổ truyền VN, đánh giá: "Mặc dù mới chính thức danh xưng nhưng trước đó Nam Huỳnh Đạo đã có nhiều đóng góp cho chương trình chung của võ thuật cổ truyền thành phố, đào tạo được nhiều võ sinh có trình độ võ thuật và đạo đức.
Hoa Quyền:
Một tay cầm chiếc quạt kim loại uyển chuyển trong các thế công thủ; tay kia yểm tâm lúc trợ lực cùng đòn quạt, còn hai chân di chuyển tới lui vô cùng linh hoạt và bất thần nhún người nhảy lên tung cú đá song phi chớp nhoáng... Đó là những hình ảnh gây cho khán giả một ấn tượng đầy ngạc nhiên và thích thú về lão võ sư Hoàng Thanh Vân trong lần diện kiến.
Không ngạc nhiên và thích thú sao được khi một "cụ già" đã quá tuổi "thất thập cổ lai hi", với vóc người dong dỏng cao và gầy, lại có khả năng diễn quyền vừa đẹp mắt vừa phát lực và còn thực hiện được cú đá song phi tuyệt vời nữa!
Sinh năm 1922 tại Hưng Yên, trong một gia đình có truyền thống thượng võ, cha của lão võ sư là ông Hoàng Văn Thơ vốn là nông dân nghèo phải đi làm thuê ở nhiều nơi vùng Bắc bộ để kiếm sống, nhờ đó mà ông đã có dịp học võ với nhiều thầy (người Việt, người Hoa) ở các vùng khác nhau. Đến khi ông truyền dạy sở học võ thuật của mình lại cho lão võ sư Hoàng Thanh Vân khoảng từ năm 1930 đến năm 1950, ông bảo rằng đó là võ thuật Hoa Quyền của dòng họ Hoàng. Lão võ sư cứ theo đó mà gọi môn phái của mình là Hoa Quyền suốt.
Môn phái Hoa Quyền có phần cơ bản công phu rèn luyện "thập hình" (thủ, nhãn, thân, yêu, túc, thức, đảm, khí, kình, thần) với quỹ thời gian khoảng 3 năm. Sau đó, môn sinh sẽ bắt đầu được truyền thụ 18 bài Hoa Quyền, cùng các loại binh khí như: kiếm, côn, đao, song ngư, lưỡng đầu thiết lĩnh, cửu khúc nhuyễn tiên, song phủ (búa), song chùy, thiết phiến (quạt), và các bài đối luyện có qui ước (tay không và vũ khí). Đặc biệt, trong vốn liếng sở học võ thuật của môn phái Hoa Quyền, lão võ sư còn cho biết có những bài võ truyền thống Việt Nam như: Ngọc trản, Lão mai, Thần đồng, Xung thiên đạo đao, Gươm trường thảo pháp và ba bài côn.
Trong phong trào võ thuật cổ truyền tại Hà Nội từ sau 1975, lão võ sư đã có những đóng góp nhất định trong việc đào tạo nhiều môn sinh giỏi, đạt những thành tích cao trong các giải võ cổ truyền tổ chức tại Hà Nội trong những năm qua. Bản thân lão võ sư cũng đã từng đoạt huy chương vàng trong một lần dự giải. Ngoài ra, năm 1990, lão võ sư đã được mời sang Cộng hòa liên bang Nga để truyền dạy võ thuật.
Hiện nay, mặc dù tuổi đã cao, nhưng lão võ sư Hoàng Thành Vân vẫn thường xuyên tập luyện cũng như truyền dạy cho các thế hệ trẻ tại nhà riêng của mình ở số 39, phố Quang Trung, gác 3, quận Hoàn Kiếm, Hà Nội.
Lâm Sơn Động:
Cụ tổ bảy đời là người văn võ kiêm toàn tại xứ Đoài - Hà Tây sau khi sinh con đời nọ đến đời kia đều kế thừa được các tinh hoa võ học.
Trải qua thời gian nối tiếp các thế hệ đã phát minh tìm hiểu thời cuộc của xã hội. Đặc biệt áp dụng võ học phương đông và đi sâu vào nghiên cứu khí công tới bậc uyên thâm. Đến đời thứ tư đã chắt lọc và đúc kết các môn luyện khí công như tĩnh công, động công, huyền công theo: trí, lực, năng tâm, thiện.
Những năm thánh đất nước còn đang dưới ách thống trị, phong trào truyền bá bị hạn chế. Ngoài con cháu trong dòng tộc đến đời thứ 5 hai cụ luyện võ cùng jnhâu từ nhỏ lớn lên được phép của thầy hai cụ đã xây dựng gia đình với nhau và sinh ra được 4 người con: 3 trai và một gái. Cụ ông đã qua đời năm 1944 người cốt lõi còn gửi lại được môn võ là cụ bà đó là bà Nội.
Những năm thánh đất nước còn đang dưới ách thống trị, phong trào truyền bá bị hạn chế. Ngoài con cháu trong dòng tộc đến đời thứ 5 hai cụ luyện võ cùng jnhâu từ nhỏ lớn lên được phép của thầy hai cụ đã xây dựng gia đình với nhau và sinh ra được 4 người con: 3 trai và một gái. Cụ ông đã qua đời năm 1944 người cốt lõi còn gửi lại được môn võ là cụ bà đó là bà Nội.
Do đất nước còn loạn lạc cụ không truyền được hết cho con đến năm 1966 thì con trai thứ ba của cụ đã sinh được người con thứ 5 đó là cháu Lương Ngọc Huỳnh tới năm 1969 cụ bắt đầu truyền bá đạo hạnh cho cháu nội từ thủa lên 3 đó là võ thuật và âm nhạc. Khi Ngọc Huỳnh ra đời cụ thường nói đây là đứa cháu duy nhất có thể kế thừa nghiệp võ mà cụ đang ấp ủ. Ngọc Huỳnh rất có tài tông minh chăm học và đến năm 1972 mới 6 tuổi Ngọc Huỳnh đã cùng cha mình với cây đàn bầu phục vụ khắp nơi nghê tin Ngọc Huỳnh có tài từ nhỏ phái đoàn chỉ huy mặt trận quân sự phía nam đan mời Ngọc Huỳnh cùng cha biểu diễn phục vụ Quốc Hội tại nhà hát lớn Hà Nội năm 1973 được bã Tôn Đức Thắng và bác trung tướng Vương Thừa Vũ và bác tướng Song Hào phong tặng danh hiệu nghệ sĩ tí hon và phát thanh cho cả hai miền đất nước nghe bài (Vì Miền Nam) tiêu chí quyết tâm của Ngọc Huỳnh lúc này thường mơ ước về sau phải được làm nghệ sĩ và võ sí và đã lôi nốt cậu em trai mình là Nguyên Ngọc Hải sinh năm 1969 cùng tập luyện dưới sự chỉ dẫn tận tuỵ của bà nội.
Tuổi bà nội mai mốt già đi và tạ thế năm 1982 trong một đêm mùa thu. Ngọc Huỳnh đã nắm được hầu hết những tinh tuý từ bà nội và đã tiếp tục sự nghiệp học hỏi và truyền thụ cho em trai là Ngọc hải, năm 1989 sau khi hoàn thành nghĩa vụ quân sự Ngọc Huỳnh tiếp tục học hỏi y học và võ thuật nâng cao kiến thức được các đội công an xã, huyện, lân cận mời dạy võ và được sở TDTT Hà Tây mời làm công tác viên võ thuật lấy tên là võ thuật dân tộc Hà Tây. Sau khi đúc kết các tinh hoa môn phái Lâm Sơn Động bắt đầu ra đời ngày 23/9/1990 do võ sư Lương Ngọc Huỳnh sáng lập được sở TDTT cho phép truyền bá toàn tỉnh và các tỉnh lân cận, số võ sinh và số người thưo học ngày càng đông lên tới hàng vạn tại các trung tâm TDTT các huyện thị.
Đến nay môn phái đã phát triển sang các nước như Nga, Mỹ, Pháp và có Tổ Đường tại thôn Dương Cốc xã Đồng Quang huyện Quốc Oai - tỉnh Hà Tây và Tự Đường tại Km9 đường 21A Xuân Mai - Sơn Tây do võ sư Nguyễn Ngọc Hải quyền trưởng môn phái điều hành và huấn luyện đào tạo.
|